SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẾN TRE
SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM
Đề tài:
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Bến Tre,tháng 2 năm 2013
1
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Bối cảnh.
Dạy văn trong nhà trường phổ thông hiện nay đang là một thử thách lớn đối với giáo
viên,chất lượng rất thấp,đang xuống dốc trầm trọng.Nâng cao chất lượng môn ngữ văn là mối
quan tâm của các nhà sư phạm,các nhà quản lí giáo dục và xã hội.Khác với nhiều môn
học,quan hệ giữa giáo dục đạo đức và giáo dục kiến thức trong môn ngữ văn rất khắng khít,nó
ảnh hưởng,tác động qua lại rất chặt chẽ.Dạy văn không chỉ là dạy văn chương chữ nghĩa đơn
thuần mà còn là vấn đề xã hội trước mắt cũng như lâu dài .Dạy văn là dạy người.Nâng cao
chất lượng và hiệu quả dạy văn sẽ góp phần quan trọng vào việc giáo dục đạo đức ,tư tưởng
cho học sinh.Nhìn lại thực tế năm học qua,môn ngữ văn chưa phát huy hiệu quả,ý nghĩa,chất
lượng chưa cao( cùng với sự giảm sút nghiêm trọng về chất lượng giáo dục đạo đức và giáo
dục kiến thức ),tỉ lệ đậu tốt nghiệp trung học phổ thông còn thấp.
2.Lý do chọn đề tài.
Xuất phát từ tình hình thực tế dạy và học văn ở trường tôi trong những năm qua, theo
kết quả thống kê cuối năm thì đa số giáo viên đều không đạt chỉ tiêu do nhà trường đề ra.Tỉ lệ
điểm tốt nghiệp trung học phổ thông trên 5 thì rất thấp ( năm học 2010-2011 là khoảng 55%
trong khi mặt bằng của tỉnh khoảng 58%-cũng còn quá thấp so với cả nước ).Tuy nhiên trong
năm học vừa qua (năm học 2011-2012 ) chất lượng tốt nghiệp có phần khá hơn nhưng cũng
không phủ nhận rằng học sinh hiện nay rất lười học môn ngữ văn,từ khâu soạn bài đến việc
tiếp thu bài mới ...các em học một cách miễn cưỡng. Điều đó đã phần nào phản ánh thực
trạng dạy - học văn trong trường THPT đang ở mức đáng báo động đòi hỏi các nhà quản lý
giáo dục cần đưa ra những giải pháp thích hợp để đổi mới quy trình dạy và học môn văn hiện
nay.
Vì những lý do vừa nêu trên, tôi xin mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra một số ý kiến của
cá nhân về vấn đề "Một số phương pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng tốt nghiệp trung
học phổ thông môn ngữ Văn” để các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các em học sinh tham
khảo, hy vọng rằng, nó sẽ góp được một phần nào trong việc nâng cao tỉ lệ tốt nghiệp môn
ngữ văn của trường tôi nói riêng,của tỉnh nhà nói chung.
2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a.Đối tượng nghiên cứu:
-Với sáng kiến này tôi áp dụng tôi chỉ áp dụng vào thực tế giảng dạy ở học sinh khối 12
b.Phạm vi nghiên cứu:
-Đối với đề tài này tôi chỉ nghiên cứu và dừng lại ba vấn đề”:
+Kiểm tra bài cũ kết hợp việc kiểm tra bài soạn
+Đổi mới phương pháp giảng dạy trong giờ Đọc-hiểu văn bản
+Rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh.
-Một số tác phẩm đem ra nghiên cứu,ứng dụng như:Tây Tiến của Quang Dũng,Việt Bắc của
Tố Hữu,Vợ chồng A phủ của Tô Hoài,Vợ nhặt của Kim Lân...và một số đề kiểm tra thử
nghiệm.
4.Mục đích nghiên cứu.
Chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng tốt nghiệp môn ngữ văn ở học sinh
trung học phổ thông”với mục đích phát huy tính tích cực,chủ động,sáng tạo tiếp thu tri thức ở
học sinh;rèn luyện kĩ năng làm văn để các em có thể làm tốt các bài văn nghị luận văn
học.Ngoài ra còn mục đích trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau bổ khuyết ,xây dựng cho
giải pháp hoàn thiện hơn trong quá trình sử dụng.
5 Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu.
-Nhằm nâng cao chất lượng tốt nghiệp cho học sinh
- Đồng thời giúp bản thân và đồng nghiệp có được những kinh nghiệm giảng dạy môn ngữ
văn.
- Lấy một số tác phẩm trong chương trình của 12 thử nghiệm như một số tác phẩm:Tây
Tiến ,Việt Bắc,Vợ chồng Aphủ…Và một bài kiểm tra một tiết.
6.Điểm mới trong phương pháp nghiên cứu.
- Để đảm bảo tính khoa học cho các giờ học Ngữ văn thì sự vận dụng các phương pháp dạy
học phải thực sự linh hoạt sáng tạo. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là giáo
viên từ bỏ phương pháp dạy học truyền thống để độc tôn cải tiến hoặc áp dụng máy móc
những phương pháp dạy học từ các nước khác. Cũng không thể hiểu một cách chung chung về
3
đổi mới phương pháp dạy học là thầy giảng một nửa còn một nửa học sinh tự làm lấy. Sự vận
dụng các phương pháp dạy học phải đi từ cái học sinh đã có đến cái học sinh cần có, từ kiến
thức thực tiễn của học sinh đến tới kiến thức trong sách vở và quay trở về phục vụ cuộc sống.
So với cách dạy truyền thống, sự vận dụng các phương pháp dạy học trong giờ Ngữ văn đã có
sự thay đổi cơ bản về chất: Từ thông báo, tái hiện sang tổ chức cho học sinh tiếp cận, cảm thụ;
từ dạy học theo tính chất tĩnh sang tính chất động.
-Bên cạnh những biện pháp mà trường tôi đã áp dụng,trong sáng kiến này tôi đưa ra 3 điểm
mới:
+Khâu kiểm tra miệng,soạn bài mới
+Kết hợp nhiều biện pháp trong quá trình giảng dạy
+Rèn luyện kĩ năng làm văn và ra đề kiểm tra 1 tiết
4
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Cơ sở lý luận:
Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học là không có sự hạ thấp vai trò của giáo
viên mà ngược lại giáo viên chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ học. Đây là
phương pháp hạn chế tối đa lối dạy lý thuyết một chiều, chuyển quá trình thuyết giảng của
giáo viên thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy và trò, giữa học sinh và học sinh
nhằm giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm hiểu bài học của mình.
Dạy tích cực- học tích cực: Trước hết, giáo viên phải biết thiết kế, tổ chức cho học sinh
thực hiện các hoạt động học tập Ngữ văn nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết, năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương. Thường xuyên điều chỉnh các
hoạt động học tập của học sinh, động viên và luôn tạo điều kiện cho học sinh tham gia tích
cực, chủ động sáng tạo trong quá trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh văn bản. Song song với
quá trình đó, giáo viên phải biết sử dụng và hướng dẫn học sinh sử dụng các thiết bị đồ dùng
dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác và vận dụng kiến thức Ngữ văn có hiệu
quả. Bằng mọi cách giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện kỹ năng học tập tích
cực, chủ động, hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề của
thực tiễn. Trong giảng dạy cần chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết; năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương mà học sinh đã có.
Về phía học sinh, đòi hỏi các em luôn tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt
động học tập để tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện thái độ và tình cảm đúng đắn. Có
thể mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân trước các vấn đề của bộ môn Ngữ
văn trước tập thể. Đánh giá và tự đánh giá các quan niệm của bản thân, của nhóm. Tích cực,
sáng tạo trong vận dụng kiến thức, kỹ năng để giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra
từ thực tiễn học tập của bộ môn. Học sinh biết chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch học
tập bộ môn phù hợp với năng lực và điều kiện học tập của cá nhân. Biết sưu tầm và tìm hiểu
các tài liệu liên quan đến bộ môn bằng nhiều hình thức khác nhau. Có ý thức sử dụng đồ dùng
học tập và các ứng dụng công nghệ thông tin để học tập bộ môn Ngữ Văn có hiệu quả.
2 .Thực trạng của việc dạy học môn Ngữ Văn ở Trường THPT hiện nay:
5
2.1.Thuận lợi:
- Giáo dục nói chung và việc học môn Ngữ Văn trong thời gian gần đây đã thực sự nhận được
sự quan tâm của toàn xã hội, của các bậc phụ huynh học sinh.
-Chỉ đạo của Ban Giám hiệu, chuyên môn nhà trường luôn sát sao và chặt chẽ về công tác đổi
mới phương pháp dạy học, thường xuyên tổ chức dự giờ, góp ý, xây dựng giờ dạy chuẩn, để
giáo viên học tập rút kinh nghiệm
- Các phương tiện dạy học hiện đại đã được tiếp cận và đưa vào phục vụ giảng dạy trong nhà
trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
- Hệ thống sách tham khảo và các nội dung tham khảo trên các kênh thông tin rất đa dạng và
phong phú được cập nhật thường xuyên, liên tục hàng giờ.
- Hệ thống các phương pháp, kỹ thuật dạy học, các nội dung lồng ghép trong giảng dạy môn
Ngữ Văn đã được lãnh đạo các cấp tổ chức tập huấn kịp thời cho giáo viên, nhằm áp dụng vào
thực tế giảng dạy một cách thống nhất trong toàn hệ thống giáo dục.
- Đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ Văn đa số đã được đào tạo đạt chuẩn và trên
chuẩn. Có trình độ và kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại khá thành
thạo.
2.2.Khó khăn:
2.2.1Đối với giáo viên
- Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực
hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong
muốn.Bởi do đối tượng học sinh của vùng thôn quê,khả năng tiếp thu kiến thức, sáng tạo và kĩ
năng diễn đạt còn nhiều hạn chế cho nên cũng ảnh hưởng và chi phối phương pháp giảng dạy
của giáo viên.Giáo viên phát vấn câu hỏi,học sinh trình bày,giáo viên chốt lại và chỉ ghi lại cái
sườn trên bảng.Học sinh ghi cái sườn ấy vào vở và khi làm bài thì đem “nguyên xi” cái sườn
ấy vào.Cho nên giáo viên còn phân vân không biết là để học sinh tự ghi hay giáo viên “đọc”
cho học sinh ghi phương pháp nào hiệu quả hơn?
6
- Ngoài ra, sự thiếu thốn về phương tiện thiết bị dạy học như: tranh, ảnh, máy chiếu…
cho giáo viên (trường tôi có tới 40 lớp mà chỉ có một phòng máy chiếu ) đã khiến cho việc áp
dụng phương pháp dạy học mới gặp nhiều bất lợi, dẫn đến tình trạng dạy chay, học chay.
-Chúng ta đã biết công cụ dạy văn của người giáo viên không chỉ là kiến thức mà còn có
nhân cách và phương pháp thích hợp .Thế nhưng có rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến
phương pháp và nhân cách của người thầy.Hiểu và khắc phục được những khó khăn đó,sẽ là
động lực nâng cao chất lượng giảng dạy.
Cũng như giáo viên ở các trường thị xã,tỉnh,thành phố;giáo viên vùng sâu,vùng xa cũng
cùng chịu một khó khăn chung là đồng lương ít ỏi nên đa số rơi vào cảnh tay xách,nách
mang ,bận rộn bươn chải với nghề phụ (không phải dạy phụ ).Bên cạnh đó sách vở,tài
liệu,công cụ để dạy và tham khảo ở thư viện trường lại ít và hiếm hoi.Với đồng lương eo
hẹp,giáo viên không thể mua được những quyển sách mà mình yêu thích,những phương tiện
công nghệ thông tin để giảng dạy ,những chi phí của nó...vì vậy ciệc bồi dưỡng kiến thức rất
hạn chế.
Giáo viên không có điều kiện đi lại thường xuyên để mở rộng giao lưu,học hỏi kinh
nghiệm dạy ngữ văn ở các trường bạn.Việc dự giờ ,thăm lớp tại trường cũng rất hạn chế,việc
góp ý và được góp ý thường do cảm tính,hoặc còn e ngại,nể nang...vì vậy không có sức khai
thông ,mở đường cho những ách tắc,trì trệ trong phương pháp giảng dạy.
2.2.2Về phía học sinh:
- Động cơ học tập của học sinh thường chạy theo thị hiếu,theo yêu cầu của thị trường nên
các em thường chú ý nhiều đến những môn khoa học tự nhiên và dành nhiều thời gian cho các
môn này: Sáng học chính thức, chiều học phụ đạo,không học phụ đạo thì học thêm các môn
này,tối lại tiếp tục học thêm đến 8 giờ 30 phút (có học sinh học thêm môn toán đến 3 giáo
viên),về nhà vệ sinh,ăn uống thì còn đâu thời gian chuẩn bị bài cho các môn học sáng hôm
sau? Nhất là các môn xã hội .Nhiều học sinh có ý nghĩ học môn ngữ văn chỉ vì lấy điểm thi đỗ
tốt nghiệp ,điểm không bị “liệt” là được.Vì vậy các em chán ngán học môn ngữ văn,học chiếu
lệ, trả bài miệng cốt để lấy được điểm 5 điểm 6( kể cả các em học sinh có học lực giỏi ) để
giáo viên không “rầy” là không thuộc bài.
7
-Ý thức học tập của học sinh chưa cao. Học sinh ít tập trung trong giờ học. Không hoàn
thành các bài tập về nhà. Chuẩn bị bài mới với sự đối phó. Các em không chuẩn bị các câu hỏi
ở phần Hướng dẫn tự học đã được giáo viên định hướng, chủ yếu chép lại sách học tốt hoặc
mượn vở của các anh chị ở khóa trước
- Trình độ,khả năng của học sinh vùng sâu ,vùng xa không đều.Nhiều HS hầu như không
có kĩ năng viết câu ,làm đoạn,vốn từ nghèo nàn,viết sai chính tả,kiến thức lí luận văn học
trống rỗng,có em nói không nên lời...Nhiều học sinh ỷ lại gia đình khá giả nên đủ loại sách
văn mẫu,sách luyện thi,...khi giáo viên cho đề làm văn nào thì copy nguyên xi,hoặc gán
ghép,chắp vá không phân biệt đúng sai,hợp lí hay không...không có ý thức,trách nhiệm với bài
viết của mình.
3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề:
a.Các phương pháp dạy học có thể áp dụng khi kiểm tra bài bài cũ và bài soạn của học
sinh
a 1.Phương pháp khi kiểm tra bài cũ
Khâu kiểm tra miệng rất quan trọng nhất là học sinh khối 12.Theo tôi,kiểm tra bài cũ không
chỉ kiểm tra lại tri thức của học sinh ở bài học vừa qua mà còn kiểm tra tri thức những bài học
trước đó ( tuy nhiên giáo viên phải quy ước trước với học sinh ) với thang điểm 7-3.Sau khi
học sinh trình bày xong ,giáo viên nhận xét và đưa ra đáp án,như vậy sẽ giúp các em ôn lại
kiến thức của các bài học trước.Tôi gọi đó là “mưa nhuần thấm sâu”.
Ví dụ: Trước khi dạy bài mới là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu thông thường ta kiểm tra bài cũ trước đó là bài Những đứa con trong gia đình của
Nguyễn Thi,còn tôi chẳng những kiểm tra bài vừa rồi mà có thể kiểm bất kì một bài nào trước
cũng được.Ta có thể ra hai câu hỏi như sau:
Câu 1:Cảm nhận của em về nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình
của Nguyễn Thi( 7 điểm )
Câu 2: Kết thúc tác phẩm Vợ nhặt,trong óc tràng hiện lên những hình ảnh gì?nêu ý nghĩa của
những hình ảnh đó.( 3 điểm )
8
Với cách kiểm tra bài cũ này giúp các em học đến đâu nắm vững kiến đến đó,cuối năm học
các em sẽ không mất nhiều thời gian để học bài lo cho kì thi tốt nghiệp.
a. 2.Phương pháp khi kiểm tra vở bài soạn của học sinh
Tôi đã cho học sinh làm bài kiểm tra một tiết với kiểu bài nghị luận xã hội.
Đề:Cảm nhận của anh (chị ) về tình trạng học sinh học môn ngữ văn trong nhà trường
THPT hiện nay.
Trong bài viết của các em thì đa số có cùng chung quan điểm là “ngán học” vì học môn
này tốn rất nhiều công sức và thì giờ từ việc đọc văn bản (nhất là những tác phẩm văn xuôi-dài
quá-cho đến soạn bài mới,học bài…cho nên các em học đối phó,học hoa loa,chiếu lệ.Cụ thể
khi soạn bài mới,các em không đọc kĩ văn bản mà chỉ lấy tập vở của các anh chị học trước
hoặc chép từ những cuốn sách học tốt.Cách học này rất có hại,các em sẽ không nắm được các
sự vịêc và chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm,khi giáo viên nêu câu hỏi các em có thể trả lời
nhưng chỉ nêu ý,nhưng dẫn chứng thì không biết “ nó nằm” ở chỗ nào,rồi sau này khi làm bài
văn nghị luận thì bài viết chỉ có lí lẽ suông không có dẫn chứng,thiếu sức thuyết phục.Cho nên
khâu soạn bài của học sinh rất quan trọng.Trong giờ kiểm tra miệng,tôi thường kiểm tra vở bài
soạn,ngoài việc tóm tắt văn bản (đối với tác phẩm văn xuôi ),trả lời những câu hỏi trong sách
giáo khoa ,tôi đưa ra một vài câu hỏi có liên quan đến tác phẩm mà trong phần tóm tắt tác
phẩm không đề cập đến.Ví dụ:Trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành ,khi Tnú
được phép về thăm làng ,trong đêm đó ai là người hỏi giấy của Tnú? (Đồng chí về có giấy
không ? ) Dít và Tnú có quan hệ với nhau như thế nào?Nhũng câu hỏi như thế này không
nhằm mục đích giúp các em tìm ra những chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm mà nhằm mục đích
là kiểm tra xem các em có đọc văn bạn trước ở nhà hay không bởi vì nếu các em có đọc văn
bản thì mới trả lời được các câu hỏi đó.
HS vùng sâu,vùng xa vốn thờ ơ lạnh nhạt với môn ngữ văn.Để khắc phục tình trạng
này,GV cần khéo léo khơi gợi cảm hứng văn học,tạo tâm thế đón nhận tác phẩm,tạo không khí
đồng cảm,sự đồng cảm cảm xúc giữa nhà văn -GV-HS,biện pháp cụ thể như sau :
+ Chuẩn bị những câu hỏi cụ thể cho học sinh soạn trước ở nhà.Để tạo sự hứng thú soạn bài
của HS,GV sẽ cho điểm những câu trả lời tốt.
9
+ GV chuẩn bị những câu hỏi gợi mở,nêu vấn đề một cách sáng tạo,khoa học,đơn giản,bình
dị,lôi cuốn tâm lí HS (hiếu động,tò mò,thích tỏ ra người lớn có hiểu biết...) và quy luật cảm
thụ văn chương.Ví dụ:GV yêu cầu HS soạn trước ở nhà bài Tác gia Tố Hữu,kèm theo những
câu hỏi gợi mở: vì sao có thể nói thơ Tố Hữu mang tính trữ tình chính trị sâu sắc?Vì sao có
thể nói thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc?...Tiết sau vào học GV hỏi lại.Sau khi HS trả lời câu
hỏi,GV khéo léo nhận xét để các em nhận thức được đúng-sai,làm cho HS cảm thấy thoải
mái,tự tin trong mỗi lần phát biểu.Những câu hỏi gợi mở,nêu vấn đề rất cần thiết và góp phần
duy trì cảm hứng của HS,tránh được sự tẻ nhạt của tiết học,giúp HS khắc phục tình trạng sự lơ
là,phân tâm...
b.Các phương pháp áp dụng khi dạy phần Đọc –hiểu văn bản
b 1.Khâu tóm tắt văn bản (đối với tác phẩm văn xuôi )
Các văn bản trong chương trình Ngữ Văn THPT đều được chọn lọc rất kỹ và là những
tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Nó giúp học sinh nhận thức cuộc sống, đưa đến những
bài học, những cảm xúc thẩm mỹ cao đẹp sâu lắng trong tâm hồn và tình cảm con người.Vì
vậy để cảm thụ tốt tác phẩm học sinh không thể nào không đọc trước ở nhà.Giáo viên có thể
chia lớp làm hai nhóm tóm tắt tác phẩm trên giấy khổ lớn (chuẩn bị trước ở nhà ).Trong tiết
học tới phần tóm tắt văn bản,giáo viên gọi đại diện hai nhóm lên bảng,lấy nam châm đặt văn
bản tóm tắt của mình vào bảng rồi lần lượt đọc văn bản tóm tắt của mình.Sau đó giáo viên yêu
cầu cả lớp có nhận xét gì không,cuối cùng giáo viên nhận xét.Xong,giáo viên có thể cho học
sinh tham khảo văn bản tóm tắt của giáo viên (trên máy chiếu ),và cũng có thể tóm tắt bằng
10
tranh minh họa (nếu dạy chay ).Ví dụ dạy bài Thuốc của Lỗ Tấn ta có thể tóm tắt bằng sơ
đồ( đã in ra giấy) như sau:
Với phương pháp dạy này nó trực quan,sinh động hơn,học sinh có hứng thú học tập hơn
và như vậy sẽ cảm thụ được tác phẩm sâu sắc hơn.
b .2.Khâu Đọc-hiểu văn bản
Trước hết cần đổi mới phương pháp dạy và học.Giáo viên phải từng bước chuyển từ
phương pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức một chiều sang phương pháp dạy học mới ,trong
đó học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn gợi mở của giáo viên phải tự mình chiếm lĩnh bài
học,tự rút ra kết luận những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa.Được như vậy
học sinh sẽ cảm thấy hứng thú tự tin hơn trong học tập.
11
Giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc điểm của từng
bài học,trình độ nhận thức của học sinh và điều kiện dạy học,có như vậy người dạy mới có
thể phát huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế của từng phương pháp khi thực hiện.
- Phương pháp đọc sáng tạo:Đây là phương pháp rất quan trọng đối với việc tiếp nhận
nội dung văn bản bao gồm cả đọc, hiểu và cảm thụ. Hoạt động đọc sáng tạo không chỉ là đọc
một cách thuần tuý mà bao gồm cả sự tổ chức hướng dẫn học sinh đọc có vận động kết hợp tư
duy lôgic với tư duy hình tượng, giọng đọc và điệu bộ.
- Vận dụng phương pháp vấn đáp, gợi tìm:Bản chất của phương pháp này là phát huy
khả năng cao nhất vốn có cho học sinh để học sinh tự tiếp nhận tri thức ,khám phá tri thức và
chuyển tri thức từ bên ngoài vào cho học sinh.Dạy học tích cực hướng vào trí thông minh của
học sinh làm cho học sinh năng động sáng tạo.
Theo nguyên bộ trưởng bộ GD-ĐT Trần Hồng Quân thì “phương pháp dạy học phải hướng
vào việc khơi dậy rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm việc một cách linh động tự chủ
sáng tạo của học sinh ngay trong lao động học tập ở nhà trường.Người học giữ vai trò chủ
động tích cực trong quá trình học tập không thụ động như phương pháp đọc chép cổ truyền”
Các bước tiến hành của phương pháp này cơ bản gồm:
+Tạo ra những vấn đề khó khăn bế tắc để bộc học sinh phải suy nghĩ tìm cách tìm cách vượt
qua thực hiện nhiệm vụ nhận thức
+Tạo ra vấn đề bằng nhiều phương pháp như:phương pháp lựa chọn,tạo nghịch lí,nêu giả
định…
+Đánh giá của thầy giáo sau quá trình trả lời của học sinh
Muốn thực hiện tốt phương pháp này trong quá trình đọc-hiểu văn bản thì trước hết cần có
những sự chuẩn bị cần thiết như:
.Giáo viên phải có sự chuẩn bị hệ thống câu hỏi theo hướng gợi mở có ý thức trong việc lấy
học sinh làm trung tâm
.Cuốn hút học sinh bằng những câu hỏi có tính chất phát hiện.Ví dụ:Kết thúc tác phẩm Vợ
nhặt,trong óc Tràng hiện lên những hình ảnh gì ? Nêu ý nghĩa của những hình ảnh đó.
12
.Khuyến khích bằng điểm số cho học sinh điểm cao nếu học sinh có những câu trả lời hay
có tính chất phát hiện.
.Cho học sinh có thói quen nhận xét câu trả lời của bạn mình có bổ sung và đưa ra các ý kiến
cũng như các cách hiểu vấn đề khác nhau
-Phương pháp dạy học chia nhóm trong quá trình khai thác,khám phá tác phẩm:
+Thứ nhất giáo viên phải chia lớp thành những nhóm học tập,có thể hai bàn thành một
nhóm,trong đó cử nhóm trưởng và các thành viên
+Có những phiếu học tập theo nội dung học tập của từng tiết học
+Giao cho các nhóm thực hiện những nội dung giống hoặc khác nhau trong từng bài học cụ
thể.
Các bước thực hiện:
.Giao nội dung cho từng nhóm và yêu cầu thực hiện
.Gọi từng nhóm trình bày nội dung sau một thời gian nhất định bằng nhiều hình thức khác
nhau như:Trình bày tại chỗ,trình bày trên bảng…
.Yêu cầu các nhóm khác nhận xét và bổ sung nội dung trả lời
.Giáo viên nhận xét,thẩm định tính chuẩn xác
.Cho điểm từng nhóm
- Phương pháp dùng lời có nghệ thuật: (Còn gọi là phương pháp diễn giảng, phương pháp bình
giảng, truyền thụ) là cách dạy học truyền thống theo mô hình truyền thông tin một chiều, được
sử dụng trong giờ học tác phẩm văn chương hay cung cấp kiến thức mới.
-Thiết kế bài dạy :Bám sát chuẩn kiến thức-kĩ năng nắm chắc trọng tâm và hướng dẫn thực
hiện để thiết kế bài giảng đảm bảo các yêu cầu cơ bản,tránh lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo
khoa ,khiến giờ dạy quá tải,nặng nề,không kịp thời gian.Tuy vậy,tuỳ theo đối tượng học sinh
mà mở rộng,nâng cao chuẩn kiến thức-kĩ năng để phát hiện,bồi dưỡng học sinh khá giỏi,có
năng khiếu.
Ví dụ:khi dạy bài Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành,ở phần phân tích hình tượng
Tnú ,đối với những lớp mà đối tượng là học sinh yếu kém thì giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Nhân vật Tnú có những phẩm chất đáng quý nào? (Học sinh chỉ cần nêu ra những phẩm chất
13
tiêu biểu của Tnú và đưa ra dẫn chứng là được ).Nhưng đối với những lớp mà đối tượng là
học sinh khá giỏi thì giáo viên có thể đặt câu hỏi như sau:Người anh hùng mà cụ Mết kể trong
cái đêm dài ấy có những phẩm chất đáng quý nào?So với nhân vật Aphủ thì hình tượng Tnú
có gì mới mẻ hơn?Với dạng câu hỏi như thế này giáo viên rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư
duy,so sánh đối chiếu liên hệ sau này bài viết của các em sinh động hơn,có chiều sâu hơn..
-Sử dụng máy tính để dạy học là một trong những hướng đổi mới phương pháp dạy học ở
trường THPT hiện nay, trong đó sử dụng bài giảng điện tử đang được các giáo viên quan tâm
nhiều. Mỗi giáo viên cần chọn các tiết học sao cho nếu giảng dạy bằng bài giảng điện tử thì sẽ
tận dụng được tính tối đa ưu việt của máy tính về phương diện cung cấp thông tin cho người
học, tính hấp dẫn của bài giảng, có hiệu quả hơn bài giảng truyền thống. Việc sử dụng giáo án
điện tử để dạy học cần phải đạt được mục tiêu của bài học.
Tính ưu việt được thể hiện:
+ Các hiệu ứng, màu sắc, kiểu chữ... rất tiện lợi cho việc xử lý bài giảng một cách linh hoạt,
hấp dẫn và sư phạm.
+ Khả năng sử dụng có hiệu quả các hình ảnh, phim, các tư liệu dạy học nhanh chóng và chất
lượng.
+ Tiết kiệm nhiều thời gian viết vẽ trên lớp.
+ Thuận lợi cho việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực.
+ Các phương tiện dạy học hiện đại sẽ tạo ra khả năng để giáo viên trình bày bài giảng sinh
động hơn, dễ dàng cập nhật và thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại.
+Khai thác tối đa ,sử dụng có hiệu quả các phương tiện,thiết bị dạy học.Việc sử dụng bài
giảng điện tử với những hình ảnh,âm thanh sinh động làm cho người học dễ dàng tiếp
thu,khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập.Thông qua bài giảng điện tử giáo viên có
nhiều thời lượng để đặt các câu hỏi để gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn
trong giờ học.
Tóm lại, đổi mới phương pháp dạy học nghĩa là giáo viên phải biết vận dụng phương
pháp đó một cách phù hợp, đúng lúc, đúng chổ nhằm phát huy tính tích cực tự giác, chủ động
14
sáng tạo trong học tập của tất cả các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu có trong một
lớp học.
c.Các phương pháp dạy học có thể áp dụng khi dạy môn làm văn.
Đối với học sinh 12 giáo viên cần rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận (nghị luận xã hội
và nghị luận văn học ).Rèn luyện kĩ năng tìm hiểu đề,phân tích đề và lập dàn ý.
-Đối với khâu tìm hiểu đề:Học sinh cần thấy được hai yêu cầu của đề:Yêu cầu về nội dung
và yêu cầu về thao tác nghị luận
-Đối với khâu lập dàn ý:Học sinh cần nắm bố cục 3 phần và nhiệm vụ,yêu cầu của từng
phần:
* Dàn bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí;
1.Mở bài: -Giới thiệu chung
- Nêu tư tưởng,đạo lí cần nghị luận
Ví dụ: Đạo lí và tư tưởng là cái gốc của con người và xã hội.Chính đạo lí đã làm nẩy nở
những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người.Chính tư tưởng đã chắp cánh cho
con người vươn đến một cuộc sống công bằng,dân chủ và văn minh.Trong kho tàng tri thức
của nhân loại có những tư tưởng đạo lí ra đời cách đây hàng trăm năm nhưng vẫn còn nhiều ý
nghĩa ở xã hội hôm nay.Đặc biệt là câu nói: “Tiên học lễ,hậu học văn”.
2.Thân bài
-Luận điểm 1:Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí(Bằng cách giải thích các từ ngữ,các
khái niệm..trong câu nói chứa đựng đạo lí tư tưởng)(Dùng thao tác lập luận:nêu câu hỏi
–sau đó trả lời)
Ví dụ: Câu nói“Tiên học lễ,hậu học văn” có nghĩa là gì?“Tiên” là trước tiên,đầu tiên; “hậu”
là sau đó; “lễ” là lễ nghĩa,đạo đức,nhân cách,cái tâm của con người; “văn” là văn hóa,kiến
thức,kĩ năng .Vì vậy câu nói “Tiên học lễ,hậu học văn” có nghĩa là nhấn mạnh việc trước tiên
là học đạo đức lễ nghĩa làm người sau đó mới học kiến thức,kĩ năng làm việc và lao động
trong cuộc sống.
-Luận điểm 2:Phân tích các mặt đúng của nội dung tư tưởng đạo lí(Dùng luận cứ từ cuộc
sống và xã hội để chứng minh) Câu nói trên rất đúng,nếu con người có đạo đức,biết sống có
15
lễ nghĩa thì xã hội sẽ ngày tốt đẹp.Những tấm lòng từ thiện từ chương trình “Trái tim cho em”
trên truyền hình đã đem lại cuộc sống cho các em nhỏ,lòng hiếu thảo của người thanh niên
nghèo Nguyễn Hữu Ân ở Đông Hà Quảng Trị vừa học vừa nuôi hai người mẹ nơi bệnh viện
tại Sài Gòn.Trong cuộc sống có rất nhiều bạn trẻ biết tỏ lòng thương yêu quý mến nhân dân
bằng những hành động dũng cảm và hào hiệp;lúc chiến tranh xông pha lửa đạn để bảo vệ tính
mạng tài sản của đồng bào,lúc bình thường cứu giúp trẻ em,người già bị tai nạn-như vụ đắm
đò ngày 30 tết Kỉ Sửu tại tỉnh Quảng Bình.Tất cả đã làm cho mọi người cảm động…
-Luận điểm 3:Bác bỏ những biểu hiện chưa đúng,hoặc cách hiểu sai lệch có liên quan đến nội
dung tư tưởng đạo lí(Dùng luận cứ từ cuộc sống và xã hội để bác bỏ)
Ví dụ: Có phải câu nói “Tiên học lễ,hậu học văn” đã xem nhẹ vấn đề học kiến thức,học kĩ
năng làm việc hay không?Không phải vậy,học chữ “lễ” là đâu phải không coi trọng chữ
“văn”,có được nhân cách thì con người thì người học sẽ chiếm lĩnh được vốn tri thức sâu sắc
nhất.Đúng như lời nhà văn Nga đã nói: “Cái tài nhờ cái tâm mà cháy lên,cái tâm nhờ cái tài
mà tỏa sáng.Cháy lên mà tỏa sáng”. Bác Hồ của chúng ta cũng đã nói: “Có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó,có tài mà không có đức là người vô dụng”.
-Luận điểm 4:Đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí đã nghị luận đối với đời sống và con
người(Đặt biệt trong xã hội hiện nay)
Ví dụ: Những ý kiến cho rằng:tư tưởng “Tiên học lễ,hậu học văn” là của ông Khổng Tử bên
nước Tàu-cách đây hàng ngàn năm là không còn có giá trị đối với xã hội hôm nay là không
đúng.Thời đại nào cũng luôn coi trọng nhân cách,coi trọng cái tâm.Đặt biệt,thời kinh tế thị
trường hôm nay,đạo đức của con người đang bị thử thách bỡi những cám dỗ của đồng tiền,của
quyền lực không chân chính.Nếu chúng ta không chú trọng học chữ “lễ” thì chúng ta dễ rơi
vào lối sống như “Hồn Trương Ba,da hàng thịt”.Cái tâm hồn cao quý,trong sạch của con gười
sẽ bị cái ác,cái thấp hèn lấn át và tàn phá,hủy hoại con người(như vị giám đốc PMU18 mà báo
chí đã nêu)…
3.Kết bài:-Tóm lại tư tưởng đạo lí -Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức và hành
động của bản thân từ tư tưởng đạo lí đã nghị luận
16
Ví dụ: Tóm lại, “Tiên học lễ,hậu học văn” là một tư tưởng đạo lí rất sâu sắc.Hãy biết học cái
lễ,rèn luyện cái tâm,bên cạnh học để lĩnh hội tri thức.Có như vậy,mỗi chúng ta sẽ ngày càng
trưởng thành và hoàn thiện về nhân cách.Một xã hội thật sự tốt đẹp đang chờ đón chúng ta ở
phía trước
*Dàn bài nghị luận về một hiện tượng đời sống.
MỞ BÀI:
Giới thiệu vấn đề nghị luận (Học sinh cần nêu được đây là vấn đề nóng bỏng,bức thiết mà xã
hội đặc biệt quan tâm )
THÂN BÀI:
-Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phân tích nguyên nhân,kết quả của vấn đề
-Nêu biện pháp khắc phục.
KẾT BÀI
-Đánh giá hiện trạng
-Phương hướng hành động.
*Dàn bài nghị luận văn học ( Một bài thơ,một đoạn thơ;một tác phẩm một đoạn trích
văn xuôi )
MỞ BÀI:
-Giới thiệu khái quát về tác giả
-Nêu xuất xứ,hoàn cảnh ra đời;khái quát về nội dung bài thơ (đoạn thơ;tác phẩm,đoạn trích
văn xuôi )
THÂN BÀI:
-Phân tích nội dung.
-Đặc sắc về nghệ thuật
KẾT BÀI :
17
-Đánh giá chung
-Những đóng góp của tác giả đối với nền văn học
d.Khâu kiểm tra đánh giá
-Kiểm tra đánh giá học sinh đúng theo tinh thần đổi mới,bảo đảm tính khách quan ,chính
xác,toàn diện,hệ thống và vừa sức học sinh.Ví dụ ra đề kiểm tra mà nội dung gói gọn trong bài
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành với đối tượng là học sinh yếu kém ta có thể ra đề như
sau
Đề: Cảm nhận của anh (chị ) về nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành
Nhưng đối với học sinh khá giỏi,giáo viên có thể ra đề như sau:
Đề: Anh (chị ) hãy phân tích tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn
Trung Thành
Học sinh chỉ cần nắm được dàn bài,tức là nắm vững kĩ năng thì bài viết sẽ có điểm (bên
cạnh nắm vững kiến thức )
4. Hiệu quả của SKKN:
- Năm học 2010 – 2011, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn ở lớp 12C3,12C4.Chất
lượng tốt nghiệp như sau
Số lượng
82
Điểm trên 5
61
%
24.4
Điểm dưới 5
21
%
25.6
Qua năm học 2011-2012,tôi cũng được phân công giảng dạy hai lớp 12: 12C1,12T1. Chất
lượng tốt nghiệp như sau:
Số lượng
80
Điểm trên 5
75
%
93.8
Điểm dưới 5
5
%
6.2
Qua kết quả nêu trên chứng tỏ rằng: Sau khi vận dụng phương pháp dạy học đổi mới số
lượng học sinh đỗ tốt nghiệp tăng lên. Như vậy, có thể khẳng định: Việc đổi mới phương pháp
dạy học, kích thích hứng thú học tập của học sinh đã mang lại những kết quả khả quan.
18
III. PHẦN KẾT LUẬN
1.Những bài học kinh nghiệm:
-Cần vận dụng phương pháp phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng học sinh
-Tổ chức dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học. Đề cao và phát huy tối đa
vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học.
- Cần tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính hoạt động của bản thân mình, rèn cho
học sinh cách tự học và ý chí tự học.
2.Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm :
-Đề tài này nhằm thực hiện chủ đề năm học: “Đổi mới quản lí để nâng cao chất lượng giáo
dục”.
-Nhằm nâng cao chất lượng tốt nghiệp cho học sinh 12
-Đổi mới phương pháp dạy học là để nhằm kích thích hứng thú học tập môn ngữ văn,để học
sinh không còn thờ ơ,xem nhẹ môn ngữ văn nữa.
-Học tốt môn ngữ văn thì các em sẽ có những hành trang cần thiết để bước vào đời.
3.Khả năng ứng dụng triển khai
Sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng vào việc giảng dạy cho học sinh khối 12 không chỉ
môn ngữ văn mà còn các môn thi tốt nghiệp khác
4. Những kiến nghị đề xuất .
- Sở thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
- Cấu trúc đề kiểm tra theo hướng mở và phải vừa sức với học sinh.
-Đáp án phải bám vào chuẩn kiến thức kĩ năng.
Ngữ văn là môn học chính yếu trong nhà trường phổ thông, nhằm trau dồi kiến thức văn học
cũng như rèn luyên kỹ năng nói và viết cho học sinh. Ngoài ra, còn góp phần hình thành nhân
19
cách, đạo đức và nuôi dưỡng tâm hồn, ý thức dân tộc cho học sinh. Vì vậy, thầy cô giáo cố
gắng đầu tư chuyên môn, sáng tạo trong cách dạy.
Trên đây là một số ý kiến của cá nhân tôi về vấn đề "Áp dụng phương pháp đổi mới nhằm
nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ Văn của học sinh THPT".Chắc chắn bài viết này còn
rất nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng
nghiệp để cho vấn đề được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa thực tiễn cao hơn .
.
.
Ca Văn Thỉnh, ngày 15 tháng 2 năm 2013
Người viết
HUỲNH VĂN DŨNG
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1/ Chương trình môn Ngữ Văn
2/ Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn THPT.
3/ Sách giáo khoa, sách giáo viên môn Ngữ văn THPT.
4/ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT - Môn Ngữ văn.
5/ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THPT môn Ngữ văn
6/ Nội dung các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng thường xuyên, các chuyên đề do Sở Giáo dục
tổ chức mà bản thân đã được tham gia.
7/Đổi mới cách dạy và học môn ngữ văn-Nguyễn Văn Tuấn,trường đại học Vinh,Nghệ An
21
Mục lục
Nội dung
1.Trang phụ
Trang
1
2.Đặt vấn đề
2
3. Giải quyết vấn đề
5
4.Kết luận
19
5.Tài liệu tham khảo
21
6. Mục lục
22
22