Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận kinh tế vi mô tác động của hiệp định TPP đến ngành dệt may việt nam cơ hội, thách thức và một số đề xuất kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.58 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
------***------

TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ 2
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP ĐẾN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
- CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Giảng viên hướng dẫn: Phạm Xuân Trường
Nhóm thực hiện: Nhóm 10, Lớp KTE402(2-15-16).2_LT

Hà Nội, tháng 3 năm 2016

DANH SÁCH SINH VIÊN


Họ và tên

STT

MSSV

Lớp

Trần Hải Anh

10

1411110040

Nga – KTĐN – K53



Mạc Thị Đăng Dung

24

1411110122

Anh 4 – KTĐN – K53

Đào Thu Hà

Pháp 1 – KTĐN – K53

Tạ Thị Mai Hương

52

1411110276

Nhật 1 – KTĐN – K53

Nguyễn Minh Khương

66

1411110913

Anh 4 – KTĐN – K53

Lê Khánh Linh


80

1411110359

Pháp 1 – KTĐN – K53

Phạm Thị Thanh Nga

94

1411110455

Anh 5 – KTĐN – K53

Hoàng Thanh Phương

108

1411110518

Pháp 1 – KTĐN – K53

Nguyễn Thị Huyền Trang

122

1411110634

Nhật 1 – KTĐN – K53


Vũ Tiến Việt

136

1411110702

Pháp 1 – KTĐN – K53

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 2


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hiện nay, hợp tác kinh tế quốc tế đang trở thành xu hướng chủ đạo của đời sống
kinh tế thế giới. Với mỗi quốc gia, việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế có vai trò
vô cùng quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế của quốc gia đó. Hầu hết các
nước đều nỗ lực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế khu vực hoặc ký kết các hiệp
định thương mại song phương, đa phương nhằm tận dụng các quan hệ kinh tế này để
thúc đẩy các lợi ích và giá trị mà nó mang lại. Không nằm ngoài xu hướng đó, trong
hơn 20 năm qua, Việt Nam đã tích cực đàm phán tham gia và trở thành thành viên của
nhiều định chế kinh tế lớn trên thế giới; đồng thời ký kết một số Hiệp định kinh tế thương mại có sự tham gia của nhiều nền kinh tế hàng đầu thế giới. Điều này đã khẳng
định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình hội nhập quốc
tế, cũng như đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) được coi như hiệp định thương mại

tự do “thế hệ mới” đầy tham vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực mở
rộng, linh hoạt và toàn diện. TPP cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ và tham gia sâu
của các bên, loại bỏ hoàn toàn nhiều dòng thuế nhập khẩu, mở cửa dịch vụ và các yêu
cầu cao về môi trường và lao động… Vì thế, tham gia TPP được đánh giá là một cơ
hội không thể bỏ qua đối với các nền kinh tế, đặc biệt là với các nền kinh tế đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Việc tham gia TPP dự kiến sẽ mang lại những lợi ích to
lớn cho Việt Nam với cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ từ các nền kinh tế thành
viên trên hầu hết các lĩnh vực, gia tăng xuất khẩu, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế... Tuy
nhiên, bên cạnh những triển vọng mà TPP có thể mang lại, Việt Nam cũng sẽ gặp phải
những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những bước đi thận trọng và đúng hướng.
Trong số những lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, dệt may là một trong những
ngành nghề chịu tác động lớn nhất từ Hiệp định TPP. Việc gia nhập TPP sẽ mở ra
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 3


những thuận lợi, triển vọng tăng trưởng chưa từng có cho hàng dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên, cùng với đó sẽ là những thách thức lớn từ đối thủ cạnh tranh hay những
yêu cầu đổi mới từ trong nước, đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành này phải có
chiến lược và định hướng chính sách kịp thời, phù hợp. Từ tình hình trên, nhóm tác giả
quyết định chọn đề tài “Tác động của Hiệp định TPP đến ngành dệt may Việt Nam
– cơ hội, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị” làm đề tài Tiểu luận làm đề tài
tiểu luận của mình với mong muốn cung cấp cho độc giả hệ thống thông tin cơ bản về
vấn đề quan trọng này.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tìm hiểu, nhóm tác giả nhận thấy Hiệp định TPP và những vấn đề liên quan
đến Hiệp định này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu của nhiều tác giả, học
giả, chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước ngay từ khi chúng ta bắt đầu tham gia đàm
phán (tháng 11/2010). Đối với lĩnh vực dệt may cũng có khá nhiều công trình nghiên

cứu, bài viết của nhiều tác giả.
Theo hướng nghiên cứu phổ biến, phần đông tác giả tập trung phân tích, đánh
giá, nhận định về những thuận lợi, triển vọng, thời cơ đối với ngành dệt may Việt Nam
khi chúng ta tham gia Hiệp định TPP; từ đó chỉ ra những khó khăn, thách thức mà
ngành này sẽ phải ứng phó khi chúng ta chính thức trở thành thành viên của TPP. Từ
đó, các tác giả gợi ý một số giải pháp nhằm định hướng phát triển cho các doanh
nghiệp dệt may trong nước thời gian tới.
Với hướng nghiên cứu này có thể kể ra các công trình của một số tổ chức, nhà
nghiên cứu uy tín trong nước, tiêu biểu như: (+) Bài nghiên cứu “Tổng quan về Hiệp
định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương” của Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương; (+) bài tổng hợp “TPP – Được và mất của dệt may Việt Nam” của
Trung tâm WTO (Văn phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam – VCCI); (+) bài
viết “Doanh nghiệp dệt may đón bắt cơ hội từ Hiệp định TTP” của Cục phát triển
doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)… Với hướng nghiên cứu này còn có những
công trình khác có nội dung liên quan đến đề tài. Tuy nhiên, trong phạm vi của tiểu
luận, chúng tôi không có điều kiện liệt kê ra tất cả.
Ngoài ra, một số tác giả đi theo hướng đi sâu trình bày những khía cạnh cụ thể
hơn đối với từng địa phương, từng doanh nghiệp, trong đó phân tích những lợi thế của
họ khi Việt Nam ký kết TPP, đồng thời chỉ ra những vấn đề cần khắc phục nhằm tận
dụng hiệu quả hơn cơ hội mà TPP mang lại.
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 4


Có thể thấy, các công trình, bài viết trên được các nhà nghiên cứu đề cập đến
nhiều nội dung phong phú, với mức độ nông sâu khác nhau. Trong tiểu luận của mình,
chúng tôi muốn đề cập một cách khái quát, có hệ thống các vấn đề liên quan đến Hiệp
định TPP, đi sâu hơn nghiên cứu các tác động của TPP đến một ngành nghề cụ thể là
dệt may, trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị, chính sách.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của tiểu luận là hệ thống những thông tin tổng quát về Hiệp định
TPP, tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam, ngành dệt may. Trên cơ sở đó, nêu lên
một số gợi ý chính sách đối với ngành dệt may của nước ta thời gian tới.
Để đạt được mục đích trên, nhóm tác giả xác định ba nhiệm vu ̣sau:
Thứ nhất, phân tích tổng quan về Hiệp định TPP và tác động của nó tới tổng thể
nền kinh tế Việt Nam.
Thứ hai, tập hợp, hệ thống những vấn đề của TPP liên quan đến ngành dệt may
Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp quản lý nhà nước và biện pháp cụ
thể đối với các doanh nghiệp dệt may trong nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được xây dựng theo phương pháp thống kê, tổng hợp kết hợp phân
tích, so sánh dựa trên kiến thức kinh tế học của các thành viên trong nhóm và một số
nguồn tư liệu sẵn có.
5. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung tìm hiểu về Hiệp định TPP và những ảnh hưởng của nó đối
với lĩnh vực dệt may của Việt Nam.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh sách sinh viên và Danh mục tài liệu tham
khảo, kết cấu của tiểu luận bao gồm 03 Mục lớn và 05 tiết nhỏ.

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 5


PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TPP VÀ TÁC ĐỘNG
ĐẾN TỔNG THỂ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I. Tổng quan về Hiệp định TPP và tác động đến tổng thể nền kinh tế


Việt Nam
1. Tổng quan về Hiệp định TPP
1.1. Định nghĩa về Hiệp định TPP
Hiệp định TPP (tên tiếng anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement) tạm dịch là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình
Dương. Đây là một hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký với mục tiêu thiết
lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương. TPP hiện tại có 12 thành viên bao gồm: Australia, Brunei, Chile, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam.
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch
vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên nhằm tăng cường trao đổi hàng hóa, dịch
vụ giữa các nước này, thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế.
1.2. Lịch sử hình thành, phát triển và quá trình đàm phán

Năm 2002, TPP bắt đầu hình thành với 3 nước đầu tiên là Singapore, New
Zeland và Chile bàn thảo Pacific Three Closer Economic Partnership (P3-CEP). Tháng
4/2004, Brunei tham gia và thỏa thuận được đổi tên thành Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương hay còn gọi là P4. Hiệp định này được ký kết bởi
4 thành viên vào ngày 3/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 28/5/2006.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của
Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả
năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu tiến
hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về vấn đề
này. Tháng 9/2008, Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) thông báo quyết
định của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và chính thức tham gia Hiệp định
này để mở cửa thị trường đầu tư và dịch vụ tài chính.
Tháng 11/2008, Peru, Australia cũng bày tỏ ý định muốn gia nhập. Tại buổi họp
báo công bố sự tham gia của Australia và Peru, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm


Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 6


phán để thiết lập một khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP
được lên lịch và diễn ra cho đến nay.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia TPP với tư cách thành viên liên
kết. Tuy nhiên, đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối năm 2009 do phải chờ
đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống
Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009, USTR
thông báo quyết định của Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP.
Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được chính thức khởi động.
Tháng 3/2010, vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại Melbourn
(Australia). Năm 2010 đã chứng kiến 4 vòng đàm phán trong khuôn khổ TPP (Vòng 2,
3 đã tiến hành tại San Francisco - Hoa Kỳ tháng 6/2010 và tại Brunei tháng 10/2010,
Vòng 4 kết thúc trong tháng 12/2010 tại New Zealand). Các nước đàm phán đặt mục
tiêu là sẽ hoàn thành đàm phán TPP vào cuối 2011 sau 5 vòng đàm phán.
Tháng 10/2010, tại vòng đàm phán thứ ba diễn ra ở Brunei, Malaysia chính
thức tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm phán lên 9 nước.
Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách thành viên
liên kết, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP.
Tháng 6/2012, Canada và Mexico tuyên bố tham gia đàm phán và trở thành
thành viên chính thức vào tháng 10/2012.
Tháng 7/2013, Nhật Bản tham gia đàm phán và trở thành thành viên thứ 12 tại
vòng đàm phán thứ 18 diễn ra ở Malaysia.
Ngày 5/10/2015, sau nhiều vòng đàm phán tại Atlanta, hiệp định TPP chính
thức đạt được những thỏa thuận cuối cùng.
1.3. Nội dung chính của TPP


Ngày 5/10/2015, Bộ công thương đã công bố tóm tắt nội dung Hiệp định TPP
sau khi 12 nước tham gia đàm phán đã đạt được những thỏa thuận cuối cùng. Theo đó,
hiệp định TPP gồm 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan đến
thương mại, cụ thể:
 Về thương mại hàng hóa

Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào
phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan cũng
như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông nghiệp.
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 7


Việc xóa bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng công nghiệp sẽ được thực hiện
ngay lập tức mặc dù thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài
hơn do các bên thống nhất.
Việc cắt giảm thuế cụ thể do các bên thống nhất được quy định tại lộ trình cam
kết bao gồm tất cả hàng hóa và được đính kèm theo lời văn của hiệp định. Đối với
hàng nông nghiệp, các bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách mang
tính hạn chế khác để gia tăng thương mại hàng nông nghiệp trong khu vực, cải cách về
mặt chính sách, bao gồm cả việc thông qua xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp.
Các bên tham gia TPP đưa ra các quy định hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ chính
phủ hoặc các chính sách khác gây bóp méo thương mại nông sản.


Về dệt may
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may - ngành

công nghiệp. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan đối với

một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các bên thống nhất.
Chương dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử dụng
sợi và vải từ khu vực TPP. Điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và
đầu tư khu vực trong lĩnh vực này, cùng với cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép
việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực.
Chương này còn đề cập đến cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn
chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự vệ đặc biệt đối với dệt
may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối
với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.
 Về quy tắc xuất xứ

Về nguyên tắc xuất xứ, 12 nước thành viên TPP đã thống nhất về một bộ quy
tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do vậy được
hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP.
Ngoài ra, các bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu và
các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả hàng tân trang - việc này được cho
là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển thành các sản phẩm mới.
Nếu các bên TPP duy trì yêu cầu cấp phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì phải
thông báo cho các bên kia về những quy trình không nhằm mục đích làm chậm sự lưu
thông thương mại.
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 8


 Về quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại

Các nước nhất trí về các quy định liên quan tới xử phạt hải quan để bảo đảm các
hình thức xử phạt này được thực hiện một cách công bằng và minh bạch. Bên cạnh đó,
vì tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối với các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có

các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước TPP đã nhất trí về các quy định hải quan đối
với chuyển phát nhanh.
Để hỗ trợ chống buôn lậu và trốn thuế, các nước tham gia TPP nhất trí cung cấp
thông tin khi được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực thi luật hải quan.
Đối với các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS), các nước TPP
nhất trí cho phép công chúng được đóng góp ý kiến vào các dự thảo quy định SPS
trong quá trình đưa ra quyết định và ban hành chính sách cũng như để bảo đảm rằng
doanh nghiệp hiểu rõ các quy định mà họ sẽ phải tuân thủ.
Việc kiểm tra hàng hóa đáp ứng các quy định SPS được dựa trên các rủi ro tiềm
tàng trên thực tế có gắn với việc nhập khẩu và thông báo cho nhà nhập khẩu hoặc xuất
khẩu trong vòng bảy ngày nếu hàng hóa bị cấm nhập khẩu vì lý do liên quan đến SPS.
Đối với hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các thành viên TPP đã
nhất trí về các nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử khi xây dựng các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.
Để cắt giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhỏ, các thành viên TPP nhất trí các quy định giúp xóa bỏ các quy trình kiểm tra và
chứng nhận trùng lắp đối với các sản phẩm, thiết lập quy trình dễ dàng hơn giúp các
công ty tiếp cận thị trường các nước TPP.
Ngoài ra, hiệp định TPP bao gồm các phụ lục liên quan tới các quy định về các
lĩnh vực cụ thể nhằm thúc đẩy cách tiếp cận chung về chính sách trong khu vực TPP.
Các lĩnh vực này bao gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược phẩm, các sản phẩm
công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và đồ uống có cồn, thực phẩm và các chất
gây nghiện và các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Chương phòng vệ thương mại trong Hiệp định TPP cho phép một thành
viên thực hiện một biện pháp tự vệ tạm thời trong một khoảng thời gian cụ thể nếu
việc nhập khẩu tăng đột biến do kết quả của việc cắt giảm thuế được thực hiện theo
hiệp định TPP đủ để gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước.
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 9



Các biện pháp này có thể được duy trì lên tới 2 năm, với việc gia hạn 1 năm, nhưng
phải được tự do hóa dần dần nếu các biện pháp này đã kéo dài hơn một năm.
Đối với đầu tư, các thành viên chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ sở “một
danh mục chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn toàn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài, trừ khi các thành viên đưa ra một ngoại lệ (biện pháp bảo lưu không
tương thích) trong một trong hai phụ lục cụ thể của quốc gia đó đính kèm hiệp định
TPP: các biện pháp hiện hành trong đó một quốc gia chấp nhận nghĩa vụ không đưa ra
các biện pháp hạn chế hơn trong tương lai và ràng buộc bất kỳ sự tự do hóa nào trong
tương lai, và các biện pháp và chính sách mà theo đó một quốc gia duy trì quyền tự do
làm theo ý mình một cách đầy đủ trong tương lai.
Trong chương thương mại điện tử, nghiêm cấm việc áp dụng thuế quan đối
với các sản phẩm kỹ thuật số và ngăn chặn các thành viên TPP tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ
thuật số này thông qua các biện pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn cấm một
cách rõ ràng.
Các thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt các tin
nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu.
Đối với mua sắm chính phủ, các thành viên sẽ chỉ duyệt hợp đồng dựa trên
những tiêu chí đánh giá đã mô tả trong các thông báo và hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng
các quy trình hợp lý để chất vấn hoặc xem xét các khiếu nại đối với một phê duyệt nào
đó. Mỗi thành viên sẽ đưa ra một danh sách chọn cho các đơn vị mà thành viên đó sẽ
xây dựng, được liệt kê tại phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.
Trong chương doanh nghiệp nhà nước (SOEs) tất cả các thành viên TPP đều
có doanh nghiệp nhà nước nên nhất trí bảo đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành
các hoạt động thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không phù
hợp với nhiệm vụ mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công.
Các thành viên cũng đồng ý bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn vị độc quyền sẵn có
không có những hoạt động phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch

vụ của các thành viên khác.
Các thành viên TPP đồng ý chia sẻ danh sách các SOEs với các thành viên khác
và khi được yêu cầu sẽ cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở hữu hoặc kiểm
soát của chính phủ và những hỗ trợ phi thương mại cung cấp cho các SOEs.
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 10


Hiệp định TPP quy định việc thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và nhỏ
được tiến hành họp định kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ của Hiệp định TPP cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, cân nhắc các cách thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của hiệp
định và giám sát các hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ; chia sẻ thông tin; cấp vốn thương mại và các hoạt động khác.
Đáng chú ý, TPP sẽ tạo nên các cơ chế chính thức nhằm rà soát tác động của
TPP lên sức cạnh tranh của các thành viên thông qua các cuộc đối thoại giữa các chính
phủ và giữa chính phủ với doanh nghiệp và cộng đồng, tập trung tham gia sâu vào
chuỗi cung ứng khu vực nhằm đánh giá sự phát triển, tận dụng lợi thế của các cơ hội
mới, và giải quyết bất cứ các thách thức có thể nổi lên khi hiệp định TPP có hiệu lực.
Trong số các giải pháp này có việc thành lập Ủy ban Về cạnh tranh và tạo thuận
lợi kinh doanh. Ủy ban này sẽ nhóm họp thường xuyên nhằm rà soát tác động của hiệp
định TPP lên sức cạnh tranh của khu vực và quốc gia và lên hệ thống kinh tế khu vực.
Ngoài ra, những nội dung về thương mại dịch vụ qua biên giới, dịch vụ tài chính, nhập
cảnh tạm thời của khách kinh doanh, viễn thông, chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,
minh bạch hoá và chống tham nhũng, các điều khoản về hành chính và thể chế, giải
quyết tranh chấp…cũng là nội dung quan trọng trong Hiệp định TPP.
II. Tác động của Hiệp định TPP đến tổng thể nền kinh tế Việt Nam
1. Cơ hội


Với việc Hiệp định TPP được ký kết, Việt Nam đã chính thức gia nhập một
trong những khu vực thương mại lớn nhất thế giới với hơn 800 triệu người, đóng góp
khoảng 40% GDP của thế giới và khoảng 30% kim ngạch toàn cầu. Điều này mang lại
cho Việt Nam rất nhiều cơ hội “vàng” để phát triển nền kinh tế trong những năm tới.
 Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu

Một trong những lợi ích mà TPP mang lại cho Việt Nam chính là việc mở rộng
cơ hội xuất khẩu và tăng khả năng thâm nhập thị trường, đặc biệt là hai thị trường chủ
lực là Mỹ và Nhật Bản.
Một khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được giảm tới 90% thậm chí
có loại thuế hạ về mức 0% ở các nước thành viên, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
chắc chắn sẽ tăng, đặc biệt là với các mặt hàng có thế mạnh như dệt may, giày dép, các
sản phẩm và thiết bị điện tử…
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 11


Theo Bộ Tài chính, thị trường Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với
86% số dòng thuế, chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản,
tương đương 10,5 tỷ USD (dựa trên số liệu kim ngạch thương mại năm 2014). Nhiều
mặt hàng ưu tiên của Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với cam kết tại Hiệp
định FTA Việt Nam - Nhật Bản như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của VN
được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực như cá ngừ vây vàng, cá
ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghe… Toàn bộ các dòng
thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế trong FTA Việt Nam - Nhật Bản sẽ được xóa bỏ
trong TPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi
hiệp định có hiệu lực.
Việc thuế suất giảm mạnh ở các quốc gia tham gia TPP sẽ giúp cho giá cả các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trở nên rẻ tương đối so với mặt hàng các nước khác,

cho phép Việt Nam thâm nhập thị trường tốt hơn, từ đó kim ngạch xuất khẩu sẽ được
cải thiện. Theo báo cáo của WB, TPP sẽ bổ sung 17% giá trị kim ngạch xuất khẩu cho
Việt Nam trong vòng 20 năm tới. Vậy nên tăng kim ngạch xuất khẩu được xem là một
trong lợi ích lớn nhất mà TPP mang lại cho Việt Nam.
 Thúc đẩy thu hút vốn đầu tư

Cơ hội thu hút vốn đầu tư là rất sáng cho Việt Nam đặc biệt là khi Việt Nam có
thể tiếp cận các thị trường rộng lớn như Mỹ, Nhật Bản, Canada,… Việt Nam sẽ có thể
thu hút từ cả các nước thành viên TPP và các nước không tham gia hiệp định này. Các
nhà đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc, ASEAN sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam để
tận dụng ưu thế thành viên TPP của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng có thể thu
hút dòng vốn từ các nước thành viên TPP nhờ vào tư cách là thành viên các tổ chức
kinh tế khu vực như AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN), ACFTA (Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc). Việc gia tăng đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
trong các lĩnh vực Việt Nam mong muốn như các ngành công nghệ, nâng cao trình độ
nền công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ sẽ cho phép Việt Nam tham gia tốt hơn vào
chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu và tiếp tục gia tăng thu hút vốn đầu tư cho Việt Nam.
 Thúc đẩy cải cách thể chế, tái cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế

Thực tế trong 30 năm đổi mới, mở cửa vừa qua cho thấy việc mở cửa nền kinh
tế thành công luôn tạo động lực thúc đẩy cải cách kinh tế và nâng cao trình độ phát
triển của Việt Nam. Đồng thời chính những chính sách mở cửa tích cực đó lại quay trở
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 12


lại tạo cơ hội để Việt Nam hội nhập quốc tế thành công. TPP tạo ra thách thức, sức ép
cũng như động lực để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, môi trường kinh doanh,
khu vực Doanh nghiệp Nhà nước, điều chỉnh, hoàn thiện các bộ luật. Các cải cách này

trong ngắn hạn sẽ giúp Việt Nam có đủ điều kiện để tham gia TPP nhưng trong dài hạn
sẽ cho phép nền kinh tế phát triển mạnh hơn, Việt Nam sẽ thay đổi thể chế và cơ cấu
kinh tế một cách sâu rộng và toàn diện hơn.
Không chỉ vậy, thông qua TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội được hợp tác với những
cường quốc trong lĩnh vực công nghệ, giáo dục, thương mại… từ đó giúp Việt Nam
cải thiện được những lĩnh vực này một cách hiệu quả hơn.
 Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế đất nước

Hiệp định TPP đã giúp Việt Nam tăng cường quan hệ nhiều mặt với các đối tác
quốc tế trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có nhiều đối tác quan
trọng của Việt Nam nói riêng, của ASEAN nói chung như Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc… Việc tham gia TPP với nhiều điều khoản yêu cầu cao về tự do hóa thương
mại, thị trường sản phẩm, dịch vụ, môi trường… cũng chứng tỏ quyết tâm và cam kết
cải cách của Việt Nam. Qua đó tăng sức hấp dẫn của thị trường và uy tín của Việt Nam
đối với các nhà đầu tư, cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam.
2. Thách thức
 Gia tăng sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh

Một trong những thách thức lớn nhất mà TPP đặt ra cho Việt Nam nói chung và
các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đó là việc gia tăng sức ép về mở của thị trường
và sự cạnh tranh khốc liệt.
Trong bối cảnh hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung năng
lực cạnh tranh còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập. Ngược lại, các doanh
nghiệp FDI đã tận dụng tốt các lợi thế này để mở rộng thị trường, đẩy lùi thị phần của
các doanh nghiệp Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. Chính vì thế, mặc dù lộ
trình cắt giảm thuế của Việt Nam sau khi gia nhập TPP sẽ chậm hơn một chút do là
nước đang phát triển nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt.
Theo phân tích cơ cấu xuất khẩu của các nước TPP, có thể thấy những ngành sản xuất
của Việt Nam thực sự gặp khó khăn sẽ là công nghiệp ô tô, các ngành nông nghiệp đặc
biệt là chăn nuôi vốn chủ yếu là sản xuất nhỏ,manh mún sẽ không có khả năng cạnh

tranh trước các đối thủ có kinh nghiệm và truyền thống sản xuất lớn. Thế nên, TPP có
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 13


thể gây ra các hệ quả xã hội tiêu cực cho Việt Nam như tình trạng phá sản và thất
nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Cùng với đó, các thị trường
dịch vụ, lao động, khoa học công nghệ, hệ thống tài chính… còn chưa phát triển toàn
diện sẽ khiến Việt Nam phải đối mặt với đòi hỏi từ các nước TPP về việc mở rộng cửa
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài ở các lĩnh vực này.
 Khó khăn về xuất khẩu các mặt hàng chủ lực

Hiệp định TPP đề cập đến tất cả các vấn đề của kinh tế, xã hội như thuế quan,
hàng rào kỹ thuật, lĩnh vực phi truyền thống (lao động, môi trường, chống tham
nhũng…) ở 22 nhóm lĩnh vực. Bên cạnh cơ hội giảm thuế, những rào cản dưới dạng
quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay phòng vệ thương mại với quy chế nền kinh tế
phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện, rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế
quan đối với hàng hóa Việt Nam. Chẳng hạn, những quy định của TPP về quy tắc xuất
xứ, môi trường…sẽ gây khó khăn cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam như: dệt may, thủy hải sản… Điển hình ở quy tắc xuất xứ, Mỹ đòi hỏi hàng dệt
may của Việt Nam phải tính từ khâu sợi, điều mà hiện nay doanh nghiệp Việt Nam
khó đáp ứng và khả năng có đến 80% hàng hóa không đạt yêu cầu. Trong khi đó, Việt
Nam theo đuổi nguyên tắc xuất xứ “cắt và may” trong TPP mà theo đó, dù hàng hoá
với nguồn nguyên liệu từ các nước không là thành viên TPP vẫn được hưởng những
ưu đãi thuế quan trong TPP.
 Sức ép hoàn thiện khuôn khổ pháp luật

Việc cam kết thực hiện các cam kết sâu và rộng trong khuôn khổ TPP sẽ đòi hỏi
Việt Nam phải thay đổi và hoàn thiện bộ luật, các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm,

môi trường, xã hội…một cách nhanh chóng. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của Việt
Nam còn rất nhiều kẽ hở và kém phát triển hơn nhiều so với các nước thành viên khác
trong TPP. Các bộ chi tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm còn khác biệt lớn so với
thông lệ quốc tế cả về chất lượng lẫn phương thức tính toán. Chính vì thế, việc điều
chỉnh bộ luật, các chỉ tiêu chất lượng về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ… sẽ là một
trong những thách thức lớn đối với Việt Nam.
 Khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển

Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là Việt Nam hiện có khoảng cách quá lớn
về trình độ phát triển so với tất cả các nước thành viên TPP. Bên cạnh đó Việt Nam
còn có những khác biệt lớn với các nước đối tác trong TPP trên một số điểm:
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 14


- Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa. Kinh tế thị trường ở Việt
Nam là “theo định hướng XHCN”, không thật sự tôn trọng các quy luật của thị trường
về cung cầu - cạnh tranh - giá cả. Thị trường ở Việt Nam về cơ bản mới có thị trường
sản phẩm; thị trường vốn, lao động, khoa học công nghệ… phát triển chưa đáng kể.
Mỹ là đối tác lớn nhất trong TPP hiện cũng vẫn cho rằng Việt Nam là một nền “kinh tế
phi thị trường” và áp đặt các hạn chế đối với ngành dệt may, thuỷ sản… của Việt Nam.
- Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công cuộc tự do hoá nền kinh tế và
đã trở thành thành viên của WTO. Tuy vậy, Việt Nam vẫn gặp nhiều chỉ trích về các
tiêu chuẩn lao động, sở hữu trí tuệ và vấn đề tham nhũng. Riêng về vấn đề quyền sở
hữu trí tuệ, Việt Nam tiếp tục nằm trong danh sách các nước bị phía Mỹ theo dõi, một
phần do sản phẩm lậu và nhái vẫn được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, bao gồm cả vi
phạm bản quyền online.
- Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các đối tác trong TPP chủ yếu là
quan hệ “hàng dọc”, nghĩa là xuất khẩu nguyên liệu thô, sản phẩm gia công; nhập

khẩu công nghệ, máy móc…

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 15


PHẦN II: TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP ĐẾN NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM

I. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam
1. Tình hình tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam

Trong nhiều năm trở lại đây, dệt may được lựa chọn là ngành kinh tế mũi nhọn
trong xuất khẩu ở Việt Nam, có được nhiều chính sách ưu tiên từ Chính phủ và hứa
hẹn sẽ đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước và
nền kinh tế. Hơn thế nữa, sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngành
dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ, thông tin, các dịch vụ cũng như
có kinh nghiệm quản lý tốt hơn và được bình đẳng về thuế quan giữa các nước thành
viên. Với những lợi thế riêng như ổn định chính trị, năng suất, chi phí nhân công thấp,
đáp ứng được sự đa dạng về các chủng loại hàng may mặc..., dệt may Việt Nam đang
ngày càng khẳng định được uy tín trên thị trường thế giới và đứng trong top các nước
xuất khẩu cao.
Ngành dệt may Việt Nam đã có hơn 20 năm liên tục phát triển với tỷ lệ tăng
trưởng bình quân 15%/năm, với kim ngạch xuất khẩu đóng góp từ 10%-15% GDP
hàng năm. Việt Nam hiện là một trong 5 nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới với
thị phần 4%-5%. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU và Nhật
(chiếm trên 75% kim ngạch xuất khẩu hàng năm) với các sản phẩm may mặc chủ yếu
là các sản phẩm từ bông và sợi tổng hợp cho phân khúc thị trường cấp trung và thấp.


Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 16


Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay chỉ tham gia vào phần thứ 3
trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu là cắt và may, sản xuất theo phương thức gia
công đơn giản; còn phụ thuộc lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu (khoảng 70%), chủ
yếu từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc. Tuy nhiên, liên tiếp hai năm trở
lại đây, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu phụ liệu dệt may, khẳng định bước đầu cho
sự tự chủ.
Theo thống kê Tập đoàn dệt may Việt Nam (VINATEX), hiện Việt Nam có
khoảng 6000 công ty dệt may, với lực lượng lao động chiếm hơn 20% lao động trong
khu vực công nghiệp và gần 5% tổng lực lượng lao động toàn quốc. Phần lớn các công
ty được đặt tại miền Nam (62%), còn lại nằm ở miền Bắc (30%), miền Trung và Tây
Nguyên (8%). Trong đó, các công ty may chiếm tỷ trọng lớn (70%), còn lại là các
công ty dệt (17%), kéo sợi (6%), nhuộm (4%), và ngành công nghiệp hỗ trợ (3%).
Theo số liệu thống kê, tỷ trọng xuất khẩu nghiêng hẳn về phía các doanh nghiệp FDI
với hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu và
tăng trưởng thị trường nội địa theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may
đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Công Thương sẽ đạt khoảng 10%-12%/năm.
Mặc dù vậy, các doanh nghiệp trong ngành dệt may vẫn phải đối mặt với không ít khó
khăn, thách thức khi hội nhập sâu với thị trường quốc tế: sự cạnh tranh gay gắt giữa
các nước xuất khẩu, các rào cản thương mại ngày càng tăng từ các thị trường nhập
khẩu lớn, nhất là từ Hoa Kỳ với các yêu cầu khắt khe về trách nhiệm xã hội, nhãn mác,
sinh thái, bảo vệ môi trường…
2. Chuỗi giá trị của ngành dệt may Việt Nam

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10


Page 17


Tuy ngành dệt may là một trong những ngành xuất khẩu đi đầu của Việt Nam,
nhưng nếu xét về chuỗi giá trị của ngành thì vẫn còn nhiều hạn chế. Chuỗi giá trị toàn
cầu ngành dệt may bao gồm các khâu: Nghiên cứu thiết kế, sản xuất nguyên phụ liệu,
cắt và may (sản xuất sản phẩm cuối cùng), xuất khẩu và marketing và phân phối sản
phẩm, trong đó khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng là khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp
nhất (chỉ chiếm 5 – 10% tỷ suất lợi nhuận). Nhưng hiện nay theo thống kê của Hiệp
hội Dệt may Việt Nam (VITAS), ngành dệt may trong nước có đến 70% doanh nghiệp
sản xuất theo hình thức gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài, tức là chỉ tham gia
vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng.

 Về khâu cung ứng nguyên phụ liệu: Ngành dệt may Việt Nam có tính gia công lớn,

công nghiệp phụ trợ chậm phát triển. Theo số liệu thống kê của VITAS, hiện nay hơn
70% nguyên phụ liệu dệt may (bông tự nhiên, sơ xợi các loại, vải) vẫn phải nhập khẩu.
Theo Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại Bộ Công Thương
(VITIC) cho biết, 2 tháng đầu năm 2015, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt
may, da giày của nước ta đạt 658,42 triệu USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2014.
Thị trường nhập khẩu chủ yếu vẫn là Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan.
Cụ thể, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc với 232,83 triệu USD, chiếm
35,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 33,16% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp
theo là Hàn Quốc với 104,07 triệu USD, chiếm 15,8%, giảm 5,27%; Đài Loan với
64,27 triệu USD, chiếm 9,8%, tăng 19,01%; Hoa Kỳ với 40,83 triệu USD, chiếm
6,2%, giảm 0,48% so cùng kỳ.

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 18



Điều này cho thấy các doanh nghiệp ngành dệt may chưa thực sự chủ động
được về nguồn cung ứng nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu sản xuất, làm giảm khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
 Về khâu nghiên cứu thiết kế: Đây là khâu sẽ cho lợi nhuận cao kéo theo đó nâng giá

trị gia tăng trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, khâu
nghiên cứu và thiết kế sản phẩm lại là khâu yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đa phần các công đoạn thiết kế cho các sản phẩm may ở của nước ta được thực hiện
tại những nước có ngành công nghiệp thời trang phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Hồng
Kông… Sau đó, các mẫu thiết kế được chuyển về Việt Nam, các công ty may của
nước ta chỉ gia công theo đúng mẫu mã theo đơn đặt hàng. Mới chỉ có một số doanh
nghiệp đang cố gắng xây dựng và đưa thương hiệu của mình vào thị trường như may
Việt Tiến với sản phẩm San Sciaro và Manhattan, công ty thời trang Việt với thương
hiệu Nino max, Công ty TNHH May Thêu Giày An Phước…
 Về giá bán: Giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam thường cao hơn 15%- 30% so với
giá thế giới do chi phí nguyên phụ liệu, vận chuyển và lương tối thiểu đang ngày càng
tăng cao.
 Về hoạt động marketing và phân phối: Các doanh nghiệp dệt may trong nước hiện
nay vẫn chưa có hệ thống phân phối rộng lớn đến tận tay người tiêu dùng, nhất là trên
thị trường quốc tế. Theo kết quả nghiên cứu của tổ chức T&G firms, các doanh nghiệp
Việt Nam vẫn phải qua các nhà cung cấp khu vực để có được hợp đồng gia công, rất ít
doanh nghiệp có được hợp đồng từ các nhà bán lẻ để cung cấp sản phẩm của mình.
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện phụ thuộc vào các
nhà buôn nước ngoài. Các nhà buôn đóng vai trò rất quan trọng là trung gian trong
chuỗi cung ứng hàng dệt may của Việt Nam ra thế giới. Nói cách khác, doanh nghiệp
dệt may trong nước vẫn thiếu liên kết với người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng, mà chỉ
thực hiện các hợp đồng gia công lại cho các nhà sản xuất khu vực. Do đó thường
không nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, điều này dẫn đến việc

sản phẩm dệt may ít được đón nhận, ít có các sản phẩm mang thương hiệu riêng của
mình.
3. Tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các nước TPP
Đến nay, Hiệp định TPP có sự tham gia của 12 nước thành viên: Australia,
Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Newzealand, Peru, Singapore,
Hoa Kỳ và Việt Nam. Sau 5 tháng đầu năm 2015, giá trị xuất khẩu hàng dệt may của
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 19


Việt Nam sang thị trường các nước thành viên đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) đã tăng 69,66% so với cùng kỳ năm 2014. Cụ thể:
- Tại thị trường Hoa Kỳ: Xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt giá trị lớn nhất, với 4,050
tỷ USD, chiếm gần 50% trong khối thị trường các nước TPP, tăng 53% so với cùng
kỳ.
- Thị trường Nhật Bản: đứng vị trí thứ hai trong số các nước thành viên TPP, sản
lượng đạt giá trị 1,005 tỷ USD, chiếm 12,3%.
- Thị trường Canada: Đạt 207 triệu USD, tăng nhẹ 6% so với cùng kỳ.
- Thị trường Australia: xếp vị trí thứ tư với 55 triệu USD.
- Thị trường Chile: 43 triệu USD.
- Thị trường Mexico: 33,7 triệu USD.
- Thị trường Malaysia: 25,8 triệu USD.
Trong năm 2015, xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam sang các thị trường
TPP đạt mức tăng trưởng dương tại 10 thị trường, chỉ giảm nhẹ 1% tại thị trưởng
Mexico.
Cùng với da giày, ngành dệt may đang là ngành kinh tế xuất khẩu quan trọng
nhất của Việt Nam. Với những ưu đãi thuế quan trong Hiệp định TPP, dệt may có thể
dành thêm nhiều thị phần nhập khẩu từ tay Trung Quốc - nhà xuất khẩu số một hàng
dệt may, da giày vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Nhiều chuyên gia cho rằng khả năng phần xuất khẩu tăng thêm nhờ tác động của
TPP vào năm 2025 (với dự kiến TPP có hiệu lực vào đầu năm 2018) sẽ khoảng 13 tỷ
USD tại thị trường Hoa Kỳ và khoảng 1,8 tỷ USD vào thị trường Nhật Bản. Chỉ với
riêng hai thị trường này, TPP sẽ mang thêm gần 15 tỷ USD xuất khẩu hàng dệt may.
Đối với dệt may, TPP sẽ thúc đẩy nhanh đầu tư nước ngoài vào công nghiệp
phụ trợ, vốn là điểm yếu hiện nay khi mà ngành này đang phải nhập khẩu đến trên
70% nguyên phụ liệu. Trên cở sở đó, Việt Nam có thể thoả mãn yêu cầu về quy chế
xuất xứ cho việc chế biến hàng xuất khẩu, để hưởng mức thuế suất bằng 0 vào thị
trường Hoa Kỳ (hiện nay là 17,5%).
Bên cạnh đó, Hiệp định TPP cũng đã là động lực thu hút khá nhiều dự án đầu tư
vào ngành dệt Việt Nam có giá trị đến gần 1 tỷ USD như: dự án mở rộng Global
Dying (Hàn Quốc); dự án sợi dệt TexHong (Hong Kong); dự án dệt kim Kam Hing
(Hong Kong); dự án dệt kim Pacific (Hong Kong); dự án dệt thoi Younger (Trung
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 20


Quốc); dự án vải sợi màu Lu-Thai (Thailand-TQ); dự án TAL Hong Kong, dự án
HyosungKorea…
II. Các kết quả đàm phán TPP về dệt may

Trong đàm phán các nội dung cốt lõi của Hiệp định TPP, lần đầu tiên, dệt may
được tách thành một chương riêng với những quy định chặt chẽ. Theo Bộ Công
thương, dệt may là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào thị trường TPP,
đồng thời có nhiều tiềm năng gia tăng giá trị khi Hiệp định này có hiệu lực. Kết thúc
đàm phán Hiệp định TPP về dệt may, các nước đã thống nhất được các nội dung liên
quan đến lĩnh vực này, trong đó có một số điểm đáng chú ý, cụ thể:
- Về thuế nhập khẩu, sau khi Hiệp định có hiệu lực, 73,1% số dòng thuế tại thị
trường Mỹ sẽ được đưa về 0%. Tại Canada, toàn bộ mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ

yếu của Việt Nam sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm.
42,9% kim ngạch xuất khẩu vào Canada có thuế 0% năm đầu tiên và 57,1% kim ngạch
có thuế 0% vào năm thứ 4.
Tuy nhiên, để có thể được áp dụng mức thuế trên, ngành dệt may Việt Nam
phải tuân thủ theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi
trở đi” hay được gọi quy tắc “3 công đoạn”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải,
nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối TPP. Quy tắc này
khuyến khích phát triển ngành công nghiệp dệt may theo ngành dọc, đầu tư phát triển
ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi
cung ứng trong nội khối TPP và khối cung ứng toàn cầu.
- Cũng theo Bộ Công thương, Hiệp định TPP cho phép nước nhập khẩu áp dụng
biện pháp tự vệ, tăng thuế ưu đãi trở lại mức thuế MFN (Nguyên tắc Tối huệ quốc 1)
nếu lượng nhập khẩu từ các nước TPP có khả năng gây ra hoặc gây ra thiệt hại nghiêm
trọng đến ngành sản xuất trong nước. Khi áp dụng biện pháp tự vệ, nước nhập khẩu
phải có giải pháp đền bù thiệt hại về kinh tế mà nước xuất khẩu phải gánh chịu do
không được hưởng thuế ưu đãi như trong Hiệp định.
- Các nước TPP thống nhất hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực hải quan, chống gian
lận xuất xứ để hưởng lợi bất hợp pháp thuế ưu đãi TPP. Cũng với mục tiêu này, doanh
nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ và Mexico sẽ đăng ký các thông tin
1 Nguyên tắc Tối huệ quốc (Most Favoured Nation, viết tắt là MFN) là một trong những quy chế pháp lý quan
trọng trong thương mại mại quốc tế hiện đại; đòi hỏi một quốc gia phải bảo đảm dành cho tất cả các quốc gia đối
tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 21


cơ bản về doanh nghiệp, mặt hàng sản xuất, xuất khẩu để chia sẻ thông tin với các cơ
quan chức năng Hoa Kỳ và Mexico phục vụ công tác đánh giá rủi ro trong lĩnh vực hải

quan, phòng chống gian lận thương mại.
III. Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may khi Việt Nam tham gia TPP

Hiệp định TPP được ký kết sẽ mở ra những thời cơ phát triển kinh tế, trong đó
dệt may được đánh giá là một trong những ngành được hưởng lợi nhiều nhất. Tuy
nhiên, ngành dệt may của Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức khi
tham gia vào sân chơi này. Một số cơ hội và thách thức chủ yếu đối với ngành dệt may
Việt Nam:
1. Cơ hội

Khi bắt đầu có hiệu lực, TPP sẽ tạo ra cú hích lớn và mang đến động lực quan
trọng cho sự phát triển của dệt may Việt Nam:
Thứ nhất, khi gia nhập TPP, đại bộ phận hàng dệt may của nước ta sẽ được
hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu vào các nước thành viên TPP. Khi đó, thuế nhập
khẩu vào Hoa Kỳ và các nước trong TPP sẽ giảm xuống bằng 0. Đây là một lợi thế rất
lớn để ngành dệt may tăng thị phần trên trường quốc tế.
Thứ hai, ngành dệt may được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh và có tác động đáng
kể đến nền kinh tế trong nước. Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may đã chiếm hơn 15%
tổng doanh số xuất khẩu của cả nước và dự đoán đến năm 2025, doanh thu xuất khẩu
hàng dệt may có thể tăng lên đến 30 tỷ USD nếu năng lực sản xuất dệt may VN tăng
theo đúng chiến lược mà các cơ quan chức năng vạch ra. Đồng thời nhu cầu về nguyên
liệu (bông, sợi…) cũng sẽ tăng tương ứng. Bên cạnh đó, các nước tham gia TPP đa số
là những đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản. Có
đến 40% giá trị hàng hóa của Việt Nam được xuất sang 11 nước tham gia TPP, trong
đó những mặt hàng quần áo, dệt may và da giày chiếm đến 31% tổng giá trị. Trong 8
tháng đầu năm 2015, tỉ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước
TPP là hơn 9,8 tỉ USD trong tổng số gần 14,9 tỉ USD hàng dệt may của Việt Nam xuất
đi toàn thế giới (Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam – Vitas). Nếu TPP có hiệu lực và
đi vào thực thi thì tỉ trọng này trong tương lai có thể sẽ cao hơn nhiều. Dự báo mới đây
của Ngân hàng Thế giới cũng cho thấy, nếu TPP hoàn tất, đến năm 2020, sản lượng

ngành dệt may sẽ tăng 21%; tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành có thể đạt 41%,

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 22


tương ứng với giá trị xuất khẩu tăng thêm 11,5 tỷ USD. Trong đó, tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ có thể đạt kỷ lục 90%.
Thứ ba, nếu TPP góp phần thúc đẩy tốt vào đầu tư nguyên liệu thì các chỉ tiêu
về xuất siêu, giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa của ngành đều được nâng cao. Dự kiến
ngành sẽ đạt mục tiêu đạt tỷ lệ nội địa hóa 60% vào năm 2016 và 70% vào năm 2020.
Thứ tư, thị trường lao động trong ngành dệt may cũng sẽ ảnh hưởng theo chiều
hướng tích cực. Khi thuế suất bằng 0%, hàng hóa xuất khẩu sang các nước TPP sẽ tăng
lên nhiều, điều này đồng nghĩa với việc thị trường lao động trong nước sẽ có nhiều
thay đổi. Lực lượng lao động tham gia vào ngành dệt may sẽ cao hơn kéo theo chất
lượng lao động sẽ cao hơn. Theo như dự kiến, trong điều kiện mọi yếu tố đều thuận
lợi, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 68 tỉ đô la vào năm 2026 nhờ TPP. Riêng về xuất
khẩu dệt may, một tỉ đô la xuất khẩu hàng năm sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm.
2. Thách thức

Bên cạnh những mặt tích cực do TPP mang lại, ngành dệt may cũng sẽ phải đối
mặt với nhiều khó khăn, đó là:
Thứ nhất, đi đôi với việc các doanh nghiệp trong nước có cơ hội quyết tâm nội
địa hóa nguyên phụ liệu ngành dệt may trong nước lên tỉ lệ cao hơn do một yêu cầu
khắt khe của TPP là “nguyên tắc xuất xứ” thì thách thức của nguyên tắc này đặt ra cho
ngành cũng không phải là nhỏ. Nếu muốn hướng thuế suất bằng 0% khi xuất khẩu thì
các doanh nghiệp cần phải chứng minh được là nguyên vật liệu sản xuất ra sản phẩm
xuất khẩu đó hoàn toàn là sản xuất trong nước hoặc là nhập khẩu từ các nước tham gia
TPP khác chứ không phải là nguyên liệu (tính từ sợi) nhập khẩu từ các nước ngoài

TPP như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc… Đó được gọi là nguyên tắc xuất xứ “từ
sợi trở đi” (yarn forward). Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam bởi
hiện tại ngành dệt may nước ta đang phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu
từ Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước ASEAN - những nước không tham gia TPP.
Hiện nay Việt Nam chỉ đáp ứng được trên dưới 30% các nguyên phụ liệu sản xuất, còn
lại còn khoảng 70% đểu phải phụ thuộc vào viêc nhập khẩu từ nước ngoài. Chính vì
phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên Việt Nam đang thu
hút nhiều vốn FDI trong lĩnh vực dệt may. Theo thống kê, năm 2014, đã có gần 20 dự
án FDI mới đầu tư vào lĩnh vực dệt may, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp đến từ
Trung Quốc, Đài Loan và Hong Kong. Riêng đối với các doanh nghiệp Trung Quốc,
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 23


quyết định chuyển hướng đầu tư này được coi là một bước đi khôn ngoan, bởi điều
này sẽ giúp các doanh nghiệp nước này có được giấy chứng nhận hàng hóa "Made in
Vietnam", từ đó được hưởng mức thuế suất cực kỳ ưu đãi thay vì mức thuế suất 37%
khi vào thị trường Mỹ mà hàng "Made in China" hiện đang phải gánh chịu. Điều này
đồng nghĩa với việc sẽ khiến các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam gặp khó khăn
lớn bởi các sản phẩm có thương hiệu từ Việt Nam "thật" sẽ không thể cạnh tranh về
giá so với các doanh nghiệp Trung Quốc khi xuất khẩu.
Thứ hai, là thách thức về xu hướng đầu tư rất nhanh và mạnh của các nhà đầu
tư nước ngoài với lợi thế cả về tài chính, công nghệ và thị trường đều vượt xa so với
các doanh nghiệp Việt Nam. Khi nội dung của Hiệp định đã được thông qua, biết rõ
mốc thời gian có thể thu được lợi ích từ Hiệp định tại Việt Nam thì lập tức các nhà đầu
tư nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam. Khi đó, doanh nghiệp 100% Việt Nam sẽ rơi
vào thế yếu vì doanh nghiệp Việt yếu hơn các doanh nghiệp nước ngoài về mọi mặt.
Thứ ba, mặt yếu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là năng suất lao động
thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực cũng như các nước trên toàn cầu. Chỉ số

năng suất lao động của khu vực sản xuất của Việt Nam chỉ đạt 2,4 trong khi các quốc
gia sản xuất dệt may lớn khác như Trung Quốc là 6,9 và Indonesia là 5,2. Đây là điểm
yếu lớn nhất của dệt may nói riêng và các ngành sản xuất sử dụng lao động nói chung.
Do vậy, năng suất lao động là yếu tố quan trọng trong việc quyết định đến giá thành
sản phẩm. Với việc năng suất lao động của Việt Nam thấp như vậy thì giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị đẩy lên cao hơn so với sản phẩm cùng loại của
các nước khác, kéo theo sản phẩm của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh kém.
Bên cạnh đó, thủ tục hành chính, hải quan, chi phí không chính thức…, còn
rườm rà và lớn hơn cả phần thuế được cắt giảm trong TPP; năng lực quản lý yếu kém,
thiếu hụt lao động, năng suất lao động thấp, thiếu vốn đầu tư và công nghệ… cũng là
một trong những yếu tố kìm hãm việc tăng năng lực sản suất cũng như xuất khẩu của
doanh nghiệp Việt Nam trong khuôn khổ TPP. Ngoài ra, khả năng các nước nhập
khẩu hàng dệt may Việt Nam đưa ra các hàng rào kỹ thuật và thương mại phi thuế
quan… để cản trở xuất khẩu dệt may của Việt Nam là khó tránh khỏi.

Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 24


PHẦN III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
Để có thể tranh thủ những cơ hội mà Hiệp định TPP mang lại, đồng thời
giảm thiểu những rủi ro, đối phó hiệu quả với những thách thức trong thời gian
tới, các doanh nghiệp trong ngành dệt may của Việt Nam phải chủ động trong
chiến lược phát triển và có những tính toán lâu dài. Nhóm tác giả xin gợi ý một
số giải pháp cụ thể như sau:
1. Về nguồn nguyên liệu đầu vào

Việt Nam buộc phải chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào ở trong nước để tăng

giá trị gia tăng. Cần tập trung đẩy mạnh việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
cho ngành để sản xuất nguyên liệu trong nước, thay thế nguyên liệu nhập khẩu, ngành
thiết kế cần được củng cố và nâng cấp. Ngành dệt may phải có quy hoạch vùng nguyên
liệu. Hiện nay, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đang xây dựng 4 khu công
nghiệp dệt, nhuộm tại các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Long An và Trà Vinh nhằm
khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho
ngành dệt may.
2. Về quy mô xuất khẩu

Muốn đẩy mạnh được khu vực sản xuất nguyên liệu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa thì
vấn đề tiên quyết là phải tăng được quy mô xuất khẩu. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải
chú ý một số vấn đề:
 Đổi mới công nghệ

Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự
phát triển của ngành dệt may. Tập trung các dự án đầu tư mới, với quy mô đủ lớn, đủ
tiềm lực về vốn để tiếp cận công nghệ hiện đại tiên tiến nhất.
 Cung ứng đạt tiêu chuẩn khách hàng

Các công ty của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn sản xuất theo tiêu chuẩn. Tuy
nhiên, trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn vẫn đang còn nhiều vấn đề lớn mà các doanh
nghiệp cần cố gắng hơn nữa. Muốn như vậy, uy tín của doanh nghiệp với khách hàng
Tiểu luận Kinh tế Vĩ mô 2 – Nhóm 10

Page 25


×