Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Hạn chế bỏ học ở tiểu học qua quản lí xã hội hóa giáo dục tại cấp xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.15 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

ĐINH ĐẠI PHONG

HẠN CHẾ BỎ HỌC Ở TIỂU HỌC
QUA QUẢN LÍ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
TẠI CẤP XÃ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


THÁI NGUYÊN - 2014

ii


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––––

ĐINH ĐẠI PHONG

HẠN CHẾ BỎ HỌC Ở TIỂU HỌC
QUA QUẢN LÍ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
TẠI CẤP XÃ
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.ĐẶNG THÀNH HƯNG


THÁI NGUYÊN - 2014

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học thực
sự của cá nhân tôi. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Đặng Thành Hưng. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình khoa
học nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Học viên

Đinh Đại Phong

i


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng chân thành, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo và cán bộ phòng Sau Đại học; Khoa Tâm
lý giáo dục, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên; Các thầy cô giáo đã tham
gia quản lý, giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện bản luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đặng Thành Hưng,

người thầy đã hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu cho
tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu để bản luận văn này được hoàn thành.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các đồng chí lãnh đạo, chuyên
viên của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ, Ban Giám
hiệu trường tiểu học 3 xã Xuân Đài, Kim Thượng, Xuân Sơn - Tỉnh Phú Thọ,
Đảng ủy và Ủy ban nhân dân 3 xã Xuân Đài, Kim Thượng, Xuân Sơn đã cung
cấp tư liệu, động viên giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tác giả hoàn thành bản
luận văn.
Với sự cố gắng nỗ lực của bản thân tác giả trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu, song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các thầy giáo, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp
để bản luận văn ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014
Học viên

Đinh Đại Phong

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Ký hiệu


Nội dung

1

BGH

Ban giám hiệu

2

BNV

Bộ nội vụ

3

CBPTCTTB

Cán bộ phụ trách công tác thiết bị

4

CBQL

Cán bộ quản lý

5

CNH


Công nghiệp hóa

6

HĐH

Hiện đại hóa

7

KTĐG

Kiểm tra đánh giá

8

NXB

Nhà xuất bản

9

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

10

QLGD


Quản lý giáo dục

11

TH

Trung học

12

THCS

Trung học cơ sở

13

THPT

Trung học phổ thông

14

TTLT

Thông tư liên tịch

15

GV


Giáo viên

16

HS

Học sinh

17

NV

Nhân viên

18

CNTT

Công nghệ thông tin

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt lí luận
Vấn đề học sinh bỏ học ở các cấp học phổ thông ở nước ta và khu vực
các nước đang phát triển đã được các nhà khoa học Việt Nam và các tổ chức
giáo dục quốc tế như UNESCO, UNDP, UNFPA, FAO, ADB… quan tâm từ

lâu qua các dự án điều tra, đánh giá và can thiệp nhằm ngăn ngừa, hạn chế hiện
tượng này trên qui mô lớn bằng các biện pháp sư phạm, kinh tế, xã hội và quản
lí. Từ đầu những năm 90, nhiều kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học giáo
dục Việt Nam đã được công bố [15, 16, 17, 26, 42]. Hiện tượng bỏ học khi đó
gắn liền với yêu cầu phổ cập giáo dục tiểu học và hướng tới phổ cập giáo dục
trung học ở nước ta trong bối cảnh kinh tế-xã hội mới bắt đầu vận hành theo cơ
chế thị trường.
Những nghiên cứu trên cho thấy hiện tượng bỏ học không liên quan
nhiều tới chuyên môn mà chịu ảnh hưởng rất lớn từ những biến động kinh tế-xã
hội, đặc biệt ở nông thôn và những địa bàn khó khăn. Những giải pháp quản lí
thích hợp và không đơn điệu từ riêng phía nhà trường có thể góp phần cải thiện
tình hình. Vì vậy, trong những năm sau này, để tháo gỡ vấn đề bỏ học thì bên
cạnh những biện pháp chuyên môn như bồi dưỡng giáo viên, đẩy mạnh phong
trào dạy tốt, học tốt v.v…, chúng ta ngày càng coi trọng hơn những tác động có
tính chất xã hội hóa, có sự tham gia của tất cả các lực lượng giáo dục từ phía
chính quyền, đoàn thể xã hội, gia đình học sinh, hệ thống truyền thông đại
chúng, doanh nghiệp và toàn thể cộng đồng dân cư.
Tuy vậy vẫn còn vấn đề phải tiếp tục xem xét về lí luận: cơ chế tham gia
như thế nào, kết hợp các lực lượng ra sao và hệ thống quản lí chung ở địa
1


phương phải có trách nhiệm đến đâu, làm như thế nào? Hơn thập niên gần đây,
đã có một số nghiên cứu luận án và luận văn cụ thể trên những địa bàn cụ thể
về vấn đề này [3, 13, 27, 29, 31, 36, 37, 40, 41]. Do hiện tượng bỏ học có diễn
biến phức tạp, có đặc điểm địa phương rất rõ rệt, và biến động rất mạnh tùy
theo mức độ đô thị hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, di dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, nên những nghiên
cứu cục bộ như vậy có ý nghĩa quan trọng đối với địa bàn cụ thể.
Nhưng một trong những điểm mà những nghiên cứu gần đây chưa chú ý

đúng mức - đó là vai trò của quản lí. Đa số công trình còn hiểu chưa chính xác
rằng bỏ học là chuyện của nhà trường và hiệu trưởng. Cũng còn quan niệm đơn
giản cho rằng chỉ cơ quan đặc trách quản lí giáo dục (cơ quan thẩm quyền
riêng) mới quản lí giáo dục, mà chưa thấy hết vai trò quản lí giáo dục của chính
quyền (cơ quan thẩm quyền chung ở các cấp). Nhiều giải pháp hạn chế, ngăn
ngừa bỏ học đã được dồn vào nhà trường và hiệu trưởng [14, 26, 36]. Đó là
quan niệm thiếu thuyết phục về khoa học và không tưởng xét về mặt thực tiễn.
Trong số những nhân tố có thể dẫn đến hiện tượng bỏ học như khó khăn
kinh tế, sinh hoạt và giao thông trở ngại, trường sở kém, giáo viên yếu, quản lí
nhà trường lỏng lẻo, dạy kém và học kém, chán học do ảnh hưởng tiêu cực của
môi trường v.v… thì nhà trường và hiệu trưởng chỉ có khả năng cải thiện học
kém, dạy kém, quản lí chuyên môn. Ngoài ra họ không làm gì hơn được.
Những chuyện còn lại là trách nhiệm của chính quyền và cộng đồng địa
phương. Nhà trường chỉ là một bộ phận trong hệ thống quản lí giáo dục tại cơ
sở, chứ không phải tất cả và vạn năng.
Những nghiên cứu về bỏ học và ngăn ngừa bỏ học tại địa bàn cụ thể
thường gắn với tình hình cụ thể: có nơi bức xúc ở tiểu học, có nơi ở trung học

2


cơ sở, có nơi ở trung học phổ thông. Nói chung, trừ giáo dục đại học, còn lại
hiện tượng bỏ học ở phổ thông đều là bất thường và cần được nghiên cứu dù đó
là cấp học nào và địa bàn nào.
1.2. Về mặt thực tiễn
Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng và
chủ trương xã hội hóa giáo dục đã chỉ rõ và điều đó lại được nhấn mạnh trong
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020: “Huy động nguồn lực
của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển
giáo dục đào tạo. Tăng cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã hội.

Huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội
dung, chương trình thực hiện giáo dục toàn diện. Ban hành cơ chế chính sách
cụ thể khuyến khích và qui định trách nhiệm các ngành, địa phương, các tổ
chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham gia xây dựng trường, hỗ
trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã đuợc đào tạo và giám sát các
hoạt động giáo dục” [5, 2]. Xã hội hóa giáo dục là con đường cơ bản lâu dài
giúp giải quyết những vấn đề lớn của giáo dục như đầu tư phát triển, dân chủ
hóa, trường học thân thiện, chất lượng và hiệu quả giáo dục, mạng lưới và cơ
cấu giáo dục v.v…, thậm chí cả nâng cao nhận thức lí luận và kinh nghiệm
quản lí trong giáo dục.
Bối cảnh giáo dục ở huyện Tân Sơn, Phú Thọ có những đặc thù nhất
định. Trên địa bàn huyện Tân Sơn đặc biệt là ở cụm ba xã Xuân Đài – Kim
Thượng - Xuân Sơn những năm gần đây nảy sinh và tiếp diễn hiện tượng bỏ
học đáng lo ngại ở tiểu học. Thực tế cho thấy, chỉ riêng nhà trường không thể
đơn độc giải quyết vấn đề này. Song những giải pháp mang tính xã hội hóa
vượt ra khỏi khuôn khổ nhà trường lại đòi hỏi phải nghiên cứu cụ thể mới có
3


thể triển khai hiệu quả trên địa bàn. Những biện pháp từ trước đến nay còn
mang tính tự phát, thiếu căn cứ và kém hiệu quả.
Đặc biệt, khi cho rằng có thể hạn chế bỏ học thông qua quá trình quản lí
các hoạt động xã hội hóa giáo dục, và giáo dục tiểu học được quản lí trực tiếp
tại cấp địa phương, nên tôi chọn đề tài “Hạn chế bỏ học ở tiểu học qua quản
lí xã hội hóa giáo dục tại cấp xã” để thực hiện việc nghiên cứu luận văn thạc
sĩ Quản lí giáo dục.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động XHHGD ở điạ phương nhằm
hạn chế hiện tượng bỏ học của học sinh tiểu học trên địa bàn cụm ba xã Xuân
Đài - Kim Thượng - Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

3. Khách thể và Đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lí giáo dục của các lực lượng giáo dục gồm nhà trường,
chính quyền địa phương trên địa bàn cụm 3 xã Xuân Đài – Kim Thượng –
Xuân Sơn huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các quan hệ quản lí giữa nhà trường, gia đình, xã hội và chính quyền
trong các hoạt động xã hội hóa giáo dục tiểu học tại địa phương.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xác định cơ sở lí luận của việc hạn chế bỏ học của học sinh Tiểu
học qua công tác quản lí xã hội hóa giáo dục ở địa phương.
4.2. Khảo sát thực trạng quản lí giáo dục tiểu học và các biện pháp hạn
chế bỏ học của học sinh tiểu học qua công tác quản lí xã hội hóa giáo dục ở
địa phương cụm ba xã Xuân Đài – Kim Thượng – Xuân Sơn.

4


4.3. Đề xuất các biện pháp quản lí các hoạt động XHHGD nhằm hạn
chế tình trạng bỏ học của học sinh tiểu học ở địa phương cụm ba xã Xuân Đài
– Kim Thượng – Xuân Sơn.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Các biện pháp quản lí hoạt động XHHGD để hạn chế bỏ học của
học sinh tiểu học giới hạn trong địa phương cụm ba xã Xuân Đài – Kim
Thượng – Xuân Sơn.
5.2. Các biện pháp quản lí hoạt động XHHGD chỉ nằm trong phạm vi
hạn chế bỏ học mà không kể đến những mặt khác của quản lí.
5.3. Chủ thể của các biện pháp quản lí XHHGD là chính quyền cấp
xã, các nhà quản lí trường học, các nhà lãnh đạo tổ chức xã hội, các nhà
quản lí cơ sở sản xuất, kinh doanh, cha mẹ học sinh, các cán bộ cộng đồng

tại địa phương.
5.4. Trong quản lí XHHGD để hạn chế bỏ học, chính quyền địa phương
giữ vai trò chủ trì và nhà trường giữ vai trò nòng cốt, trực tiếp tác động.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp phân tích lí luận các tài liệu khoa học, văn bản pháp lí và
thực tiễn để xây dựng hệ thống tư liệu khoa học của đề tài.
- Phương pháp so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế.
- Phương pháp khái quát hóa lí luận để xác định những khái niệm cơ bản
và khung lí thuyết của nghiên cứu.

5


6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm để tìm hiểu thực tiễn quản lí hoạt
động XXHGD nhằm hạn chế bỏ học ở tiểu học ở địa bàn xã.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, trò chuyện, phỏng vấn
trực tiếp để đánh giá thực trạng bỏ học, các biện pháp quản lí hạn chế bỏ học và
thành tựu đã đạt được.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động để tìm hiểu nhận thức,
cách làm và kết quả của các trường, chính quyền và cộng đồng địa phương về
XHHGD và quản lí hoạt động này.
6.3. Các phương pháp khác
- Phương pháp chuyên gia để thẩm định các biện pháp quản lí XHHGD
nhằm hạn chế tình trạng bỏ học.
- Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê và tính toán.
7. Dự kiến cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn có 3 chương như sau:

Chương 1. Cơ sở lí luận của quản lí hoạt động xhhgd nhằm hạn chế tình
trạng bỏ học ở tiểu học.
Chương 2: Thực trạng bỏ học ở tiểu học và quản lí hoạt động xã hội hóa
giáo dục để hạn chế bỏ học tại ba xã Xuân Đài - Kim Thượng - Xuân Sơn
huyện Tân Sơn, Phú Thọ.
Chương 3: Các biện pháp quản lí hoạt động xã hội hóa giáo dục ở địa
phương nhằm hạn chế bỏ học của học sinh tiểu học.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG XHHGD
NHẰM HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG BỎ HỌC Ở TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục
Giáo dục là sản phẩm của xã hội, đồng thời là nhân tố đánh dấu nấc
thang trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử. Sự tồn tại và phát triển
của giáo dục chịu sự chia phối của sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại
với chức năng của mình, GD có vai trò hết sức to lớn trong việc tái sản xuất sức
lao động cho xã hội; khơi dậy, thức tỉnh và phát huy tiềm năng sáng tạo của
mỗi con người, tạo ra môi trường cho sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì điều
đó mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và cộng đồng xã hội thường xuyên
được diễn ra cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Với tầm quan trọng như vậy, ngày nay giáo dục luôn được coi là quốc
sách hàng đầu của nhiều quốc gia. Việc quan tâm, đầu tư, huy động mọi nguồn
lực và mọi điều kiện cho phát triển giáo dục là sách lược lâu dài của nhiều quốc
gia trên thế giới. Mặc dù bản chất của giáo dục ở các nước có khác nhau nhưng
đều cho thấy XHH sự nghiệp giáo dục là cách làm phổ biến, kể cả ở những
nước có nền công ngiệp hiện đại, kinh tế phát triển cao.

XHHGD không phải là vấn đề hoàn toàn mới, nó có nguồn gốc lâu đời
và là bước phát triển cuả một chủ trương phát triển giáo dục được thực hiện từ
nhiều năm qua. Với tư tưởng “ lấy dân làm gốc”, “ Sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, là sức mạnh tiềm
tàng cho sự phát triển nền GD nước nhà.

7


Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, giai cấp thống trị và thực dân chỉ
mở rất ít trường học, chue yếu trường học được mở ra cho con em quý tộc
phong kiến và con nhà giàu. Con em lao động không được chính quyền quan
tâm, người dân muốn học phải tự lo dưới hình thức học ở trường Tư do các
thầy đồ tự mở lớp hoặc do dân tự tổ chức nên hầu hết phải chịu cảnh mù chữ.
Cách mạng tháng thành công là tiền đề tiên quyết để Đảng ta thực hiện các
quan điểm “ giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Ngay từ những ngày đầu
của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “ Lời kêu gọi chống
nạn thất học”. Trong lời kêu gọi, Người đã nêu rõ phương châm, nhiệm vụ
chống nạn thất học, chống nạn mù chữ “ Những người đã biết chữ hãy dạy cho
những người biết chữ…những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho
biết, vợ chưa biết chữ thì chồng bảo, em chưa biết chữ thì anh bảo, cha mẹ
chưa biết chữ thì con cái bảo, người ăn người làm chưa biết chữ thì chủ nhà
bảo; Các người giàu có thì mở lớp học tư gia dạy cho những người chưa biết
chữ” [25]. Hưởng ứng lời kêu gọi chống nạn thất học của Hồ Chủ Tịch, cả
nước đã trở thành một xã hội học tập. Tiêu biểu, sôi động nhất đó là phong trào
bình dân học vụ từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ
hậu phương đến nơi tiền tuyến…người người đi học, nhà nhàđi học, trường lớp
chỉ là những nhà, lá đơn sơ. Tư tưởng giáo dục “ai cũng được học hành” của
Hồ Chí Minh đã thực sự đi vào cuộc sống.
Đất nước hoàn toàn thống nhất, cả hai niềm Nam, Bắc cùng thực hiện

một hệ thống giáo dục và đã đạt được những thành qủa nhất định. Song do cơ
chế tập trung, quan liêu bao cấp, nền giáo dục của chúng ta không khai thác
triệt để bài học phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để phát triển giáo dục.
Thay vì thực hiện sự “quản lý giáo dục của nhà nước”, chúng ta đã “ nhà nước

8


hóa giáo dục” làm cho giáo dục rơi vào thế bị động, không thu hút được các
nguồn lực của toàn xã hội tham gia vào các hoạt động giáo dục. Tình trạng cơ
sở vật chất, thiết bị giáo dục không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, chưa bắt kịp xu thế phát triển chung của thời đại.
Sự định hướng mang tính cách mạng và năng động đối với nền kinh tế
quốc gia, tất yếu đặt ra những cơ hội và thách thức đối với sự phát giáo dục.
Đòi hỏi sự nghiệp giá dục và đào tạo cũng phải đổi mới cách nhìn nhận về vị
trí, vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh đó việc đa
dạng hóa phát triển giáo dục lại một lần nữa lại ngày càng phát huy ưu thế của
nó. “ Việc “huy động toàn xã hội toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân cùng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc phòng toàn dân dưới
sự quản lí của nhà nước” đã trở nên vô cùng bức thiết. Đảng ta đã khảng định
“ xã hội hóa” là một trong những quan điểm để hoạch định các chính sách xã
hội. Nghị quyết lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ( tháng 121996) chỉ rõ: “ Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân” [4]. Đến nghị quyết TW 6 khóa IX, Đảng ta khảng định: “ Đẩy
mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là
sự nghiệp của toàn dân, là giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo
dục” [5]. Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ( tháng 42006) đã chỉ rõ: “ Thực hiện xã hội hóa giáo dục. Huy động nguồn lực vật
chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt
chẽ giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã
hội – nghề nghiệp…để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi
thành viên trong xã hội” [6].


9


Để thực hiện chủ trương XHH, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/CP
ngày 21/8/1997 về Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách XHH
nhằm khuyến khích, huy động các nguồn lực trong nhân dân, trong vực giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao. Ngày 18/4/2005 chính phủ ban hành Nghị quyết số
05/2005/NQ về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục
thể thao [20]. Bộ GD&ĐT ban hành một số văn bản hướng dẫn thực hiện công
tác XHHGD vv…
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với các Văn kiện, các Nghị định, Thông tư,
Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục; các cơ quan Liên Bộ,
các nhà khoa học, các nhà quản lí giáo dục ( QLGD) đã họp bàn và nghiên cứu
về vấn đề XHHGD. Nguyên Bộ trưởng giáo dục Phạm Minh Hạc đã khảng
định: “ Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận
của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục nước ta” [ 35; 16];
Tác giả Phạm Tất Dong cũng nhấn mạnh: Phát triển giáo dục theo tinh thần xã
hội hóa và đề cao việc huy động toàn dân vào sự nghiệp cách mạng, coi đó là
tư tưởng chiến lược của Đảng. Tư tưởng đó được tổng kết lại không chỉ là một
bài học kinh nghiệm tầm cỡ lịch sử, mà trở thành một nguyên lí của cách mạng
Việt Nam.
Vấn đề XHHGD cũng đã được nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn. Có
nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu về vấn đề XHHGD như nhóm tác giả
Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình trong cuốn “ Xã hội hóa
giáo dục nhận thức và hành động, các nhà nghiên cứu Nguyễn Mậu Bành,
Thái Duy Tuyên, Đào Huy Ngân cũng đã đề cập đến những vấn đề lí luận và
thực tiễn công tác XHHGD. Bên cạnh đó còn có nhiều đề tài và luận văn đã


10


đề cập và nêu ra nhiều giải pháp công tác XHHGD như: Luận văn của tác giả
Phạm Thúy Hiền với đề tài: “ Vấn đễ xã hội hóa giáo dục mầm non với sự
nghiệp phát triển giáo dục”; luận văn Thạc sĩ của Trần Hồng Diễm về: “ Biện
pháp tăng cường công tác xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non trên địa
bàn thành phố Bắc Ninh”…
1.1.2. Nghiên cứu về quản lí giáo dục tiểu học ở cấp địa phương
1.1.3. Nghiên cứu về quản lí hoạt động XHHGD để hạn chế bỏ học
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lí giáo dục
Có thể hiểu rằng giáo dục và quản lý giáo dục tồn tại song hành cùng
nhau, nếu nói: giáo dục là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã hội loài
người thì cũng có thể nói như thế về quản lý giáo dục. Giáo dục ra đời nhằm
thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của thế hệ
đi trước cho thế hệ sau. Thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một
cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người phát triển không
ngừng. Để đạt được mục đích đó, quản lý giáo dục được coi là nhân tố tổ chức,
chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
Nhiều tài liệu khoa học cho rằng quản lý giáo dục được xem xét dưới hai
góc độ:
- "Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục) ở cấp độ
này, quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật) của chủ thể quản lý giáo dục
đến tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và
hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh,... Các

11



nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận
hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục" [8, 14].
- "Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục).
- Ở cấp độ này, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động
tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật...)
chủ thể quản lý một cơ sở giáo dục đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập
thể người học và các lực lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở
giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo của
cơ sở giáo dục" [8, 14].
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý giáo dục là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo
dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất" [34, 35]
Từ những khái niệm trên, ta có thể nhận thấy rõ các yếu tố của quản lý
giáo dục là: chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý.
1.2.2. Xã hội hóa giáo dục
Trước khi đi vào phân tích khái niệm xã hội hóa giáo dục, chúng ta cần
làm rõ thuật ngữ xã hội hóa( XHH) – XHH là thuật ngữ đã được các nhà kinh
tế học, xã hội học, giáo dục học và những năm đầu thế kỷ XX sử dụng nhằm
biểu đạt một số vấn đề thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Xã hội hóa là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học, được hiểu
theo hai nghĩa:

12


- Là sự tham gia rộng rãi của cộng đồng xã hội vào một số hoạt động mà

trước đó chỉ có một ngành, một đơn vị chức năng nhất định thực hiện ( Ví dụ:
Xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa y tế…)
Ở nghĩa này Côlin Fasen đã chỉ rõ: Xã hội hoá là một quá trình động
viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực và chủ động vào một lĩnh vực xã
hội nào đó, huy động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của Nhà
nước và của nhân dân nhằm đạt được mục tiêu phát triển xã hội.
- Xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ con người sinh vật
sang con người xã hội. Ví dụ quan niệm của G.En Daweit cho rằng: Xã hội hoá
được hiểu chung như là một quá trình biện chứng, trong đó mỗi người với tư
cách là một thành viên của xã hội trở nên có năng lực hành động trong xã hội
và mặt khác, thông qua quá trình này duy trì và tái sản xuất xã hội.
Khái niệm XHHGD được hiểu từ ý nghĩa thứ nhất của xã hội hoá. Đề
cập đến ý nghĩa này, tháng 10 năm 1998, Hội thảo quốc gia xây dựng chiến
lược vận động xã hội cho chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường do Bộ
Y tế - Unicef tổ chức, cho rằng: Xã hội hoá là một quá trình tập hợp tất cả các
liên minh xã hội nhằm nâng cao nhận thức và nhu cầu của người dân về một
chương trình phát triển trong một lĩnh vực nhất định để hỗ trợ cho việc cung
ứng các nguồn lực và dịch vụ và để tăng cường sự tham gia của cộng đồng một
cách tự lực và bền vững .
Giáo dục được coi như là một đặc thù của đời sống xã hội, nó vừa nằm
trong lĩnh vực thuộc hình thái ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầng, vừa nằm
trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất thuộc hạ tầng cơ sở. Sự tồn
tại và phát triển của giáo dục chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế - xã
hội và ngược lại với chức năng của mình, giáo dục có vai trò hết sức to lơn
13


trong việc tái sản xuất sức lao động của xã hội; khơi dậy, thức tỉnh và phát
huy tiềm năng sáng tạo của mỗi con người, tạo ra môi trường cho sự phát
triển kinh tế - xã hội.

XHHGD thực chất là xã hội hoá các hoạt động GD, XHH sự nghiệp giáo
dục. XHH sự nghiệp giáo dục là quá trình hướng mọi hoạt động giáo dục tham
gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời xã hội tiếp nhận GD nhƣ
là công việc của chính mình và của mọi cá nhân, các tổ chức đoàn thể, các cấp
chính quyền đều có trách nhiệm tham gia. Có thể nói một cách khái quát: Xã
hội hoá giáo dục là một quá trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia
vào giáo dục. Trong đó mọi tổ chức ,gia đình và công dân có trách nhiệm
chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo
dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
XHHGD, thuật ngữ này cho dù ở cấp độ nào đó đồng nghĩa với thuật
ngữ ''xã hội học tập''. hai thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo của
UNESCO có tựa đề ''Học để tồn tại; thế giới giáo dục hôm nay và ngày mai''.
Nội dung của nó bao gồm hai khía cạnh song hành, quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ nhất: Mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân theo khả năng của mình đều
có thể cung ứng cơ hội học tập cộng đồng. Thứ hai: Mọi người dân trong cộng
đồng đều có thể tận dụng cơ hội để có thể có cơ hội học tập và tham gia phát
triển giáo dục cộng đồng, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân.
XHHGD không phải là một giải pháp tình thế nhất thời chỉ được tổ chức
thực hiện trong một thời gian nhất định mà là một tư tưởng cách mạng chiến
lược lâu dài. Điều 12, Luật giáo dục 2005 ghi rõ: Phát triển giáo dục, xây dựng
xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân; thực hiện đa dạng

14


hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và
tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục [28].
Bản chất xã hội của XHHGD là tổ chức thực hiện xây dựng một nền GD
xã chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt được gánh nặng và sự ''khoán
trắng'' về đầu tư ngân sách cho GD. Bên cạnh đó XHHGD chính là ''giáo dục

cho tất cả mọi người; tất cả mọi người cho sự nghiệp GD'', đó là đưa GD gắn
với xã hội, với cộng đồng; GD phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng. Cơ
sở tư duy của XHHGD là đặt GD vào đúng vị trí của nó. GD là bộ phận không
thể tách rời của hệ thống xã hội. GD cùng với khoa học công nghệ là động lực
phát triển kinh tế xã hội.
Nội dung hoạt động XHHGD được Đảng, Nhà nước đề cập hết sức
phong phú, như từ việc huy động các lực lượng xã hội đầu từ các nguồn lực
bao gồm vật lực, tài lực...; tham gia vào quá trình đa dạng hoá các loại hình
trường, lớp, các loại hình học tập; tạo lập và đẩy mạnh phong trào học tập rộng
khắp trong xã hội, mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt tuổi tác, nghề
nghiệp, chỗ đứng trong xã hội đều được học, học thường xuyên, học suốt đời;
huy động các LLXH tham gia xây dựng môi trường GD lành mạnh và QLGD
có hiệu quả. Quá trình này thể hiện tính chất dân chủ và bình đẳng của nền GD
nước ta. Sự gắn kết giữa 3 môi trường trong GD: Nhà trường - gia đình - xã
hội, làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế các
doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội nhận thức và tổ chức thực hiện đầy
đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển GD và QLGD. Xây dựng
môi trường GD lành mạnh, đổi mới cơ chế QLGD sẽ là những biện pháp hữu
hiệu để chống lại 4 tiêu cực trong ngành GD hiện nay, bao gồm: Tiêu cực trong
thi cử; bệnh thành tích trong giáo dục; học sinh ngồi ''nhầm lớp'' và vi phạm
đạo đức nhà giáo.

15


Chủ trương XHHGD của Đảng và Nhà nước đã và đang thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của các Vụ, Viện, các Ban ngành của Bộ GD&ĐT và các
ban ngành có liên quan. Nhiều chuyên gia có tâm huyết đã có những bài viết,
công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề XHHGD; Nguyên Bộ trưởng Phạm
Minh Hạc trong cuốn Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI đã

khẳng định: Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của
toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương và
địa phương cùng làm giáo dục.
Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt trong bài ''Xã hội hoá giáo dục'', sau khi
nêu rõ: XHHGD là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất của cải cách giáo dục,
bảo đảm sự thành công của cải cách giáo dục, tác giả đã khẳng định: XHHGD
có nghĩa là Nhà nước tạo ra không gian xã hội, pháp luật và chính trị cho việc
hình thành một khu vực GD mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp cho sự
nghiệp GD, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng GD, tức là GD phải thuộc
về xã hội. Tác giả còn đề cập và nhấn mạnh: XHHGD không chỉ là đa dạng
hoá hình thức và các nguồn đầu tư cho GD&ĐT, mà quan trọng nhất là đa
dạng hoá nội dung hay đa dạng hoá, hiện đại hoá chương trình giáo dục thích
ứng với những đòi hỏi của xã hội.
Như vậy, XHHGD là một tư tưởng chiến lược của Đảng và Nhà nước,
bản thân tư tưởng đó qua mỗi giai đoạn được phát triển, mở rộng phong phú cả
về hình thức và nội dung. XHHGD là một nhân tố mới đã và đang phát huy sức
mạnh đối với sự nghiệp phát triển GD, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng
cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Chính XHH công tác GD lại tạo ra những
những điều kiện, những tác nhân làm xuất hiện những nhân tố mới trong quá
trình đi lên của phong trào GD. Những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn

16


thực hiện XHHGD, trên cơ sở đó nâng cao sự đổi mới tư duy GD, giải quyết
kịp thời những vấn đề đặt ra của sự nghiệp phát triển GD&ĐT.
Trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng ở Việt Nam mà nhiều nước trên
thế giới, kể cả những nước đang phát triển cũng như các nước có nền kinh tế
phát triển đều nhấn mạnh chính sách phát triển dựa vào GD&ĐT, dựa vào khoa
học và công nghệ. Có thể nói, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội

và truyền thống văn hoá giáo dục mà mỗi nước có những đặc điểm về cơ cấu
hệ thống, loại hình đào tạo, phân chia thời gian các bậc học, yêu cầu chất lượng
của người học ở các cấp học khác nhau. Nhưng nhìn chung, hệ thống GD các
nước đã và đang phát triển theo hướng hiện đại hoá và xu hướng hội nhập
GD&ĐT và kinh tế xã hội giữa các nước, khu vực và toàn thế giới.
Ở Indonexia: Ngoài hệ thống GD nhà trường, họ còn coi trọng các loại
hình GD ngoài nhà trường; ở gia đình; xã hội; các doanh nghiệp; các trường
Đại học mở với nhiều chương trình đa dạng phục vụ phát triển cộng đồng và
mọi tầng lớp xã hội.
Thái Lan: Chính phủ Vương quốc Thái Lan đã và đang thực hiện chính
sách đa dạng hoá các loại hình đào tạo, đào tạo nghề nghiệp - kỹ thuật, tổ chức
nhiều loại hình nghề nghiệp chính quy và phi chính quy để thích ứng nhu cầu
nhân lực của thị trường lao động trong quá trình CNH đất nước.
Đối với Trung quốc: Chính phủ Trung Quốc đặt ra chiến lược: Làm cho
đất nước giàu mạnh thông qua khoa học và GD. Với phương châm GD phải
thực hiện ba điều hướng tới đó là: Giáo dục phải hướng tới hiện đại hoá,
hướng tới thế giới, hướng tới tương lai. Chính sách phát triển GD của Trung
Quốc hiện nay có thể khái quát: Đầu tư chi phí cao cho GD phải được coi là
chính sách quốc gia hàng đầu, đầu tư cho GD phải được xem như đầu tư phát
17


×