ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm loét dạ dày hành tá tràng (DDHTT) là trạng thái bệnh lý thường
gặp trong các tổn thương của dạ dày tá tràng. Đây cũng là bệnh lý thường gặp ở
Việt Nam và trên thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh rất cao chiếm khoảng 50% số người
có các triệu chứng đau thượng vị, đầy bụng, khó tiêu và 35% người tự nguyện
khoẻ mạnh đi soi dạ dày và được chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính bằng mô bệnh
học [4]. Loét dạ dày hành tá tràng cũng chiếm một tỷ lệ khá cao trong cộng đồng
dân cư. Ở miền Bắc Việt Nam có khoảng 5-6% dân số có các triệu chứng của
loét dạ dày hành tá tràng. Tỷ lệ trên thế giới cũng nằm trong khoảng 5-10% dân
số mắc bệnh này [1], [10].
Viêm loét DDHTT là bệnh mạn tính, diễn biến bệnh kéo dài, hay tái phát
và thường có các biến chứng nguy hiểm như xuất huyết tiêu hoá, thủng dạ dày,
hẹp môn vị hay ung thư hoá…Viêm loét DDHTT gây ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng cuộc sống và hiệu suất lao động của người bệnh.
Về cơ chế bệnh sinh của viêm loét dạ dày hành tá tràng là do sự mất cân
bằng giữa yếu tố bảo vệ niêm mạc và phá huỷ niêm mạc. Các chất nhầy do các
tế bào biểu mô niêm mạc dạ dày chế tiết đóng vai trò là yếu tố bảo vệ dạ dày,
còn yếu tố bảo vệ niêm mạc tá tràng là chất tiết của tuyến Brunner chỉ có ở tá
tràng. Yếu tố phá huỷ niêm mạc chung của cả dạ dày và tá tràng là dịch vị do
các tuyến có ở vùng đáy vị dạ dày chế tiết [4], [10].
Loét dạ dày chủ yếu là suy giảm các yếu tố bảo vệ, trong khi loét hành tá
tràng là do tăng yếu tố phá huỷ niêm mạc [4]. Tuy nhiên nguyên nhân nào dẫn
đến sự mất cân bằng giữa hai yếu tố trên vẫn còn tranh cãi và có khá nhiều giả
thuyết được đưa ra như giả thuyết về vai trò của thần kinh, vai trò thể dịch; đặc
biệt thời gian gần đây Helicobacter Pylori được xem là nguyên nhân chủ yếu
trong bệnh sinh của loét DDHTT [6], [17], [20].
Có khá nhiều phương pháp chẩn đoán viêm loét DDHTT, tuy nhiên nội
soi dạ dày bằng máy nội soi ống mềm là phương pháp được áp dụng khá rộng
1
rãi do tính ưu việt của phương pháp. Nội soi dạ dày ống mềm đơn giản, nhanh
chóng và đặc biệt hiệu quả chẩn đoán khá chính xác. Qua nội soi dạ dày, có thể
cầm máu, cắt polip và sinh thiết tổn thương ổ loét để chẩn đoán mô bệnh học
nhằm phát hiện các trường hợp ác tính, do đó làm giảm điều trị phẫu thuật cho
bệnh nhân, giảm chi phí và thời gian điều trị bệnh.
Các yếu tố dịch tễ liên quan đến viêm loét dạ dày hành tá tràng ngày
càng được ưu tiên nghiên cứu và thực sự đóng vai trò khá quan trọng trong quá
trình xuất hiện cũng như tiến triển của bệnh. Người ta đã nói khá nhiều đến các
yếu tố: nghề nghiệp, tuổi, chế độ sinh hoạt, chế độ lao động…
Ngoài ra yếu tố gia đình, nhóm máu, tiền sử bệnh tật cũng được đề cập.
Các yếu tố trên đóng vai trò như những nguyên nhân gây tăng cơ chế bệnh sinh
của bệnh, tăng nguy cơ mắc bệnh viêm loét dạ dày hành tá tràng trong cộng
đồng dân cư.
Đã có khá nhiều các đề tài nghiên cứu về loét dạ dày hành tá tràng, tuy
nhiên để tìm hiểu rõ hơn về tỷ lệ viêm loét dạ dày hành tá tràng cũng như tìm
hiểu một số yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh, chúng tôi tiến đề tài:
“Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh viêm loét dạ dày
hành tá tràng tại Bệnh viện Đa khoa Quôc Tế Hải Phòng năm 2013”.
Đề tài có các mục tiêu sau:
1. Mô tả tỷ lệ viêm loét dạ dày hành tá tràng của bệnh nhân vào nội soi
dạ dày tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng năm 2013.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến bệnh viêm loét dạ dày hành tá
tràng của đối tượng nghiên cứu.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cấu trúc, chức năng của dạ dày và tá tràng
1.1.1. Cấu trúc và chức năng của dạ dày [5]
Dạ dày thuộc ống tiêu hoá chính thức vừa có tác dụng chứa đựng nhào
trộn thức ăn vừa có chức năng tiêu hoá một phần thức ăn. Dạ dày là đoạn phình
to của ống tiêu hoá, nối thực quản với ruột, được chia làm 3 vùng dựa vào sự
xuất hiện các loại tuyến khác nhau trong tầng niêm mạc:
- Vùng tâm vị: là một vùng hẹp chung quanh tâm vị, trong vùng này có
những tuyến tâm vị.
- Vùng thân hay vùng đáy vị: chứa những tuyến đáy vị
- Vùng môn vị: chứa những tuyến môn vị.
Khi dạ dày căng, mặt niêm mạc nhẵn; khi rỗng có những nếp gấp dọc
xuất phát từ vùng tâm vị và tập trung về vùng môn vị.
Thực
quản
Phình vị
Nếp
gấp
NM
Tâm
vị
Thâ
n vị
Môn
vị
Tá
tràng
Hang vị
Ảnh 1.1. Các vùng cấu tạo của dạ dày
3
Từ trong ra ngoài, thành dạ dày cũng có 4 tầng mô: Tầng niêm mạc, tầng
dưới niêm mạc, tầng cơ và tầng vỏ ngoài. Tuy nhiên, cấu trúc tầng niêm mạc dạ
dày liên quan nhiều nhất đến các
tổn thương bệnh lý của dạ dày.
4
Mặt trong của dạ dày có
những rãnh nhỏ chia niêm mạc dạ
dày thành những vùng đa giác có
1
đường kính 2-4mm gọi là các tiểu
thùy dạ dày. Trên mặt niêm mạc có
những lỗ nhỏ được gọi là các phễu
dạ dày.
Biểu mô lợp niêm mạc thuộc
3
loại biểu mô trụ đơn cao 20-40m,
2
do một loại tế bào tạo thành.
Những tế bào biểu mô lợp có
khả năng tiết ra chất nhầy, tạo thành
một lớp chất nhầy nằm trên mặt
biểu mô, có tác dụng bảo vệ biểu
5
mô chống tác động của axit HCl
thường xuyên có trong dịch dạ dày.
Chất nhầy do các tế bào biểu mô
Hình 1.2. Cấu tạo vi thể niêm mạc dạ
dày vùng đáy vị.
chế tiết đóng vai trò là yếu tố bảo vệ
niêm mạc. Nhân tế bào thường nằm
ở cực đáy. Trong bào tương của tế
1. Biểu mô lợp; 2. Lớp đệm; 3. Tuyến đáy vị; 4.
Phễu dạ dày; 5. Cơ niêm.
bào, phía gần nhân có những hạt sinh nhầy, những hạt này sẽ được tống ra khỏi
tế bào qua màng tế bào ở cực ngọn. Chất nhầy của tế bào biểu mô lợp niêm mạc
dạ dày phản ứng dương tính với P.A.S và âm tính với muci-carmin .
Những tế bào biểu mô lợp niêm mạc liên tục bị bong vào trong khoang dạ
dày và được thay thế bởi những tế bào mới được sinh từ cổ các tuyến.
4
Là lớp mô liên kết trong có chứa một số lượng lớn tuyến. Các tuyến trong
lớp đệm của dạ dày thuộc loại tuyến
ống. Biểu mô lõm xuống lớp đệm tạo
thành những ống bài xuất rộng của
1
các tuyến và được gọi là các phễu dạ
5
dày. Sản phẩm của các tuyến gọi là
dịch vị, có vai trò quan trọng trong
2
tiêu hoá các thức ăn. Trong dịch vị
có: acid chlorhydric, chất nhầy, men
6
pepsin (loại men quan trọng nhất tiêu
3
các chất protein trong môi trường
7
acid), và men lipase (phân huỷ mỡ).
Dịch vị đóng vai trò là yếu tố phá
8
huỷ niêm mạc dạ dày.
44
44
44
- Tuyến đáy vị: Là những
tuyến nằm ở vùng thân và đáy dạ
9
dày. Những tuyến này là tuyến quan
trọng nhất trong việc chế tiết ra dịch
Hình 1.3. Tuyến đáy vị
vị. Tuyến đáy vị thuộc loại tuyến ống
1. Phễu dạ dày; 2. Eo tuyến; 3. Cổ tuyến; 4. Đáy
tuyến; 5. Biểu mô phủ niêm mạc; 6. Tế bào tiết
nhầy cổ tuyến; 7. Tế bào viền; 8. Tế bào nội tiết;
9. Tế bào chính.
thẳng chia nhánh. Mỗi tuyến chia làm
ba đoạn: đoạn ở trên cao nhất là eo, ở
đây có hai loại tế bào lợp thành tuyến: tế bào nhầy và tế bào viền. Đoạn ở giữa
là cổ tuyến, ở đây có tế bào nhầy, tế bào viền. Đoạn dưới cùng là đáy tuyến có tế
bào chính, tế bào ưa bạc (Hình 1.3). Như vậy, thành của tuyến đáy được lợp bởi
bốn loại tế bào: tế bào chính, tế bào nhầy, tế bào viền và tế bào nội tiết (tế bào
ưa bạc).
Tế bào chính chế tiết tiền men pepsin, tế bào viền tiết acid HCl, làm toan
hoá môi trường bên trong dạ dày, hoạt hoá tiền men pepsin thành men hoạt
động tiêu hoá những loại thức ăn có bản chất là protein.
5
Trong thành phần cấu tạo của tuyến môn vị có tế bào ưa bạc. Tế bào này
tiết ra gastrin điều hoà chế tiết dịch của tuyến đáy vị. Vì thế tế bào ưa bạc của
tuyến đáy vị có thể làm mất cân bằng giữa
các yếu tố bảo vệ và phá huỷ niêm mạc dạ
dày [5].
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của tá
tràng
Tá tràng là đoạn đầu tiên của ruột non,
có hai chức năng chính: tiêu hoá và hấp thu
thức ăn. Về chức năng tiêu hoá, dịch mật và
dịch tuỵ đổ vào khúc 2 tá tràng giúp tiêu hoá
hầu hết các loại thức ăn mà cơ thể đưa vào từ
môi trường ngoài. Để hấp thu, tá tràng có
khá nhiều các hình thức tăng diện tích như
van ngang, nhung mao và vi nhung mao. Về
cấu trúc tá tràng cũng có cấu tạo 4 tầng như
dạ dày. Tá tràng tiếp thu thức ăn còn dư thừa
rất nhiều dịch vị từ dạ dày; Chính vì vậy để
bảo vệ niêm mạc trong cấu trúc của tá tràng
Hình 1.4. Niêm mạc tá tràng
có tuyến Brunner tiết chất nhầy có chức năng trung hoà acid dịch vị.
Chất tiết của tuyến Brunner đóng vai trò là yếu tố bảo vệ niêm mạc tá
tràng [5].
1.2 . Cơ chế bệnh sinh của loét dạ dày tá tràng
Cơ chế bệnh sinh của loét dạ dày hành tá tràng đã được hiểu rõ: đó là do
sự mất cân bằng giữa yếu tố bảo vệ niêm mạc và yếu tố phá huỷ niêm mạc dạ
dày tá tràng. Ở dạ dày chất nhầy do các tế bào biểu mô niêm mạc đóng vai trò là
yếu bảo vệ, còn ở tá tràng chất tiết do tuyến Brunner phân bố ở tầng niêm mạc
và tầng dưới niêm mạc của tá tràng là yếu tố bảo vệ niêm mạc tá tràng. Yếu tố
6
chung phá huỷ cả niêm mạc dạ dày và niêm mạc tá tràng là dịch vị; sản phẩm
của các tuyến nằm ở vùng đáy vị của dạ dày. Trong đó pepsin và acid HCl có
trong dịch vị là hai nhân tố chính cho quá trình hình thành loét dạ dày tá tràng,
đặc biệt quan trọng của acid đã được xác định trong hội chứng Zollinger- Ellion
với nhiều ổ loét ở dạ dày và tá tràng do chế tiết quá nhiều gastrin và sản xuất
quá nhiều HCL. Ở một số bệnh nhân loét dạ dày tá tràng có sự giải phóng
gastrin quá nhanh, niêm mạc bị tác động bởi một lượng acid nhiều quá mức sẽ bị
tổn thương hoại tử long và dẫn tới loét.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự mất cân bằng giữa yếu tố bảo vệ niêm mạc
và phá huỷ niêm mạc dạ dày hành tá tràng vẫn còn khá nhiều giả thuyết được
đưa ra. Giả thuyết về yếu tố thần kinh, yếu tố thể dịch và đặc biệt là nguyên
nhân do vi khuẩn…
Giả thuyết về thần kinh, người ta cho rằng dây thần kinh số X chi phối
cho hoạt động của dạ dày có vai trò quan trọng trong việc điều khiển hoạt động
chế tiết của các tuyến nằm trong tầng niêm mạc của dạ dày. Vì vậy phẫu thuật
cắt dây X chọn lọc đã có một thời kỳ được sử dụng khá rộng rãi.
Về thể dịch, Các tuyến vùng môn vị của dạ dày ngoài các tế bào tiết nhầy
còn có tế bào ưa bạc. Tế bào ưa bạc của tuyến môn vị chế tiết gastrin; hormon
này có tác dụng điều hoà chế tiết của tuyến đáy vị. Vì vậy dư thừa dịch vị liên
quan sự chế tiêt gastrin của tuyến môn vị.
Những năm gần đây, nguyên nhân bệnh sinh của loét dạ dày tá tràng do vi
khuẩn Helicobacter pylori được thừa nhận một cách rộng rãi. Từ đầu thế kỷ thứ
XX người ta đã tìm thấy loại vi khuẩn này ở niêm mạc dạ dày người, nhưng
chưa xác định được vai trò của nó với bệnh lý dạ dày tá tràng. Mãi tới những
năm của thập kỷ 80 người ta mới phân lập và nuôi cấy được loại vi khuẩn này
thì vai trò của nó đối với bệnh lý của dạ dày tá tràng mới được khẳng định.
Người ta nhận thấy rằng phần lớn các trường hợp viêm dạ dày mạn tính
không liên quan tới quá trình tự miễn dịch mà liên quan đến yếu tố nhiễm khuẩn
mạn tính, trong đó H. pylori đóng vai trò chủ yếu. Sự phân bố của vi khuẩn có
thể tản mạn và không đồng đều, nơi có nhiều, nơi có ít hoặc không có.
7
Helicobactery pylori có mặt với tỷ lệ cao ở vùng hang vị. Tỷ lệ H. Pylori tăng
theo tuổi và đạt tới khoảng 50% ở những người trên 50 tuổi [11].
Giả thuyết cho rằng việc nhiễm H. pylori ở niêm mạc dạ dày đã tổn
thương do những hậu quả khác nhau sẽ dẫn đến tình trạng làm chậm quá trình
khỏi bệnh và viêm niêm mạc dạ dày mạn tính. H. Pylori có vai trò tiềm tàng
trong việc gây biến đổi môi trường chuyển hoá và sản xuất các độc tố gây nên
phản ứng viêm, niêm mạc có dạng tổ ong. Mặt khác H. Pylori còn tiết ra men
urease thủy phân thành amoniac có tác hại đến tế bào, gây hiện tượng khuếch
tán ngược H+, đồng thời ngăn cản quá trình tổng hợp chất nhầy của tế bào và
làm thay đổi chất lượng chất nhầy cũng như sự phân bố của chất nhầy. Như vậy
sự toàn vẹn của các lớp áo niêm dịch không còn nữa, kết hợp với tổn thương của
tế bào biểu mô, các yếu tố tấn công HCL, pepsin tác động trực tiếp vào tế bào
biểu mô làm chúng bị hủy hoại và do đó có thể dẫn tới loét.
Ngoài những nguyên nhân trên, người ta còn đề cập tới một số yếu tố
khác có thể dẫn tới viêm loét dạ dày tá tràng, đó là nguyên nhân giảm trương
lực, thiểu năng tuần hoàn, giảm oxy, ure huyết cao, rối loạn nội tiết tố…[4].
Về yếu tố tinh thần như tình trạng căng thẳng kéo dài, những chấn thương
tâm lý sẽ gây co mạch và tăng tiết acid làm cho niêm mạc bị tổn thương dẫn tới
loét. Vết loét lại kích thích vỏ não và vỏ não lại kích thích dạ dày theo cơ chế
phản hồi.
Người ta nhận thấy rằng người bệnh loét dạ dày tá tràng có tiền sử gia
đình chiếm 60% ở những người liên quan ruột thịt.
Việc ăn uống các chất kích thích như rượu, thức ăn quá nóng hoặc quá
lạnh, thức ăn không đủ chất dinh dưỡng và vitamin hoặc ăn no không được nghỉ
ngơi đều có thể gây tác động không tốt tới niêm mạc dạ dày, từ đó góp phần vào
quá trình sinh bệnh.
Các thuốc uống như aspirin, kháng viêm không steroid, các thuốc này ức
chế tổng hợp prostaglandin (có vai trò phục hồi tế bào và sản sinh chất nhầy) do
đó làm giảm sức chống đỡ của niêm mạc dạ dày tá tràng. Uống corticoid liều
cao và dùng nhiều lần có liên quan trong việc thúc đẩy loét phát triển.
8
Hút thuốc lá làm hạn chế quá trình liền sẹo và làm thuận lợi cho bệnh tái
phát, có thể do nó làm cản trở quá trình tổng hợp prostaglandin.
1.3. Hình thái học của viêm niêm mạc dạ dày hành tá tràng
Phần lớn các trường hợp viêm dạ dày hành tá tràng thường chuyển sang
giai đoạn mạn tính,
1.3.1. Tổn thương nội soi (đại thể)
- Phù nề.
- Xung huyết.
- Xuất tiết.
- Trợt phẳng.
- Trợt nổi.
- Quá sản.
- Teo.
- Các chấm xuất huyết dưới niêm mạc.
- Dạng cục.
1.3.2. Phân loại các thể viêm dạ dày mạn tính
- Viêm dạ dày xung huyết: niêm mạc dạ dày mất tính nhẵn bóng, hơi lần
sần, có từng mảng xuất huyết, dễ chảy máu khi chạm đèn soi.
- Viêm dạ dày trợt phẳng: trên niêm mạc có nhiều trợt nông trên có giả mạc
bám hoặc có các trợt nông chạy dài trên các nếp niêm mạc.
- Viêm dạ dày trợt nổi: có các mắt gồ lồi lên trên bề mặt niêm mạc, ở đỉnh
hơi lõm xuống hoặc các nếp niêm mạc phù nề trên có trợt.
- Viêm dạ dày xuất huyết: có những đốm xuất huyết hoặc các đám bầm tím
do chảy máu trong niêm mạc, hoặc có thể chảy máu vào lòng dạ dày.
- Viêm dạ dày teo: nhìn thấy các nếp niêm mạc mỏng khi không bơm hơi
căng và nhìn thấy các mạch máu. Có thể nhìn thấy hình ảnh dị sản ruột biểu hiện
dưới dạng các mảng trắng.
- Viêm dạ dày tăng sản: niêm mạc mất tính chất nhẵn bóng, nếp niêm mạc
nổi to, không xẹp khi bơm căng hơi, trên có các đốm giả mạc bám.
9
- Viêm dạ dày trào ngược: niêm mạc phù nề xung huyết, các nếp niêm mạc
phù nề, có dịch mật trong dạ dày.
1.3.3. Mô bệnh học.
1.3.3.1. Những tổn thương cơ bản
- Biểu mô bề mặt: Tế bào biểu mô bề mặt thường bị tổn thương nhẹ. Khi có
sự phá huỷ quá mức các tế bào biểu mô cùng với sự tái tạo thái quá sẽ hình
thành những nhú lồi giữa các khe, có thể hình thành polyp dị sản. Biểu mô có
thể long từng thớ mẻ đầu cho quá trình tổn thương hoại tử mòn và sước.
Các khe tuyến tăng sinh để bồi đắp cho các tế bào biêu mô hoại tử, nên
thường không thẳng, bị khúc khuỷu hình xoắn nút chai, nhân TB không đều,
kiềm tính.
Tuyến:
+ Niêm mạc thân vị: các tuyến thân vị số lượng tế bào thành và tế bào
chính giảm và được thay thế bằng những tế bào kém biệt hoá, tế bào vuông, tế
bào thấp dẹt.
+ Niêm mạc hang vị: số lượng và thể tích tuyến giảm, tế bào tuyến được
thay thế bằng những tế bào kém biệt hoá, hoặc dị sản ruột. Dị sản ruột vùng
hang vị hay gặp hơn dị sản ruột vùng thân vị.
- Lớp đệm: lớp đệm tăng thể tích do sự xâm nhập các thành phần tế bào,
trong đó chủ yếu là lympho, tương bào, sợi liên kết và tế bào sợi.
Sự có mặt hay không có mặt của bạch cầu đa nhân sẽ cho phép đánh giá
tình trạng của viêm dạ dày mạn. Ở thể viêm hoạt động số lượng bạch cầu đa
nhân tăng. Ở giai đoạn cuối của viêm teo, số lượng bạch cầu đa nhân giảm và có
biểu hiện xơ hoá nhẹ.
- Dị sản ruột: Đây là sự biến đổi tế bào của niêm mạc dạ dày sang trạng thái
biểu mô ruột với sự xuất hiện tế bào hình đài tiết nhầy và tế bào hấp thu, có xu
hướng hình thành nhung mao và mâm khía ở phía ngọn tế bào. Có 2 loại dị sản
ruột chính: dị sản ruột non và dị sản ruột già.
10
- Loạn sản: là những thay đổi thứ phát của niêm mạc dạ dày do những thay
đổi về cấu trúc mô và tế bào ở các mức độ khác nhau.
+ Những bất thường của tế bào: nhân TB không đều nhau về kích thước,
hình dạng, tăng nhiễm sắc, tăng tỷ lệ nhân và bào tương.
+ Những bất thường của sự biệt hoá: giảm tiết nhầy một phần hay hoàn
toàn và tăng số lượng tế bào kém biệt hoá.
+ Những rối loạn về cấu trúc: các khe và tuyến ít nhiều bị biến dạng, bờ
không đều với những nụ lồi vào lòng tuyến.
1.3.3.2. Phân loại mô bệnh học
- Viêm nông mạn tính: TB biểu mô bề mặt có thể thay đổi. Tế bào viêm
xâm nhập ở 1/3 trên của niêm mạc, không vượt quá vùng khe. Viêm nông có thể
phục hồi hoàn toàn hoặc trong một số trường hợp là giai đoạn mở đầu của viêm
teo.
- Viêm teo mạn tính: là sự phối hợp các tổn thương của biểu mô, của các
khe, các tế bào chính và sự xâm nhập tế bào viêm vào toàn bộ niêm mạc dạ dày,
đặc biệt có sự giảm thể tích và số lượng các tuyến. Có thể phân làm 3 mức độ
viêm teo mạn tính: viêm teo mạn tính nhẹ, viêm teo mạn tính vừa và viêm teo
mạn tính nặng.
1.4. Hình thái và dịch tễ học của loét dạ dày tá tràng [9]
1.4.1. Loét cấp
Các ổ loét dạ dày cấp thường nhỏ, kích thước thường dưới 1cm, hình tròn
và ít khi ăn qua niêm mạc. Đáy ổ loét có màu nâu xám do sự giáng hóa của máu
chảy ra. Khác với loét dạ dày mạn tính, loét cấp do stress có thể gặp ở bất cứ vị
trí nào của dạ dày. Có thể chỉ xuất hiện một ổ loét đơn độc, nhưng thường là
nhiều ổ khắp dạ dày- tá tràng. Các nếp niêm mạc xung quanh vùng ổ loét đa số
là bình thường, vùng rìa và đáy ổ loét mềm mại.
Hình thái mô bệnh học của loét cấp dạ dày tổn thương hình thành rõ rệt ở
nền loét và bờ ổ loét với các mức độ khác nhau tuỳ giai đoạn phát triển của
bệnh.
Nền ổ loét đang hoạt động từ trong ra ngoài gồm 4 lớp:
11
+ Lớp hoại tử:
Là tổ chức hoại tử gồm các mảnh vụn tế bào đang bị thoái hóa, chất như
mủ và bạch cầu đa nhân thoái hóa lẫn với những sợi tơ huyết.
+ Lớp phù dạng tơ huyết:
Được coi là một tổn thương đặc trưng. Do tác dụng của acid HCL, nhuộm
Van Gieson các sợi tạo keo sẽ bắt màu da cam rõ. Ở lớp này có xâm nhiễm các
loại tế bào viêm không đặc hiệu với các bạch cầu đa nhân chiếm ưu thế.
+ Lớp mô hạt:
Được hình thành với những tế bào xơ non, sợi tạo keo, nhiều huyết quản
tân tạo và xâm nhiễm các tế bào viêm, trong đó chủ yếu là bạch cầu đơn nhân.
+ Lớp xơ hoá:
Mô hạt còn lại trên một sẹo xơ chắc hơn hoặc có chứa hạt tạo keo. Đặc
điểm của seo xơ là có hình quạt rộng và có thể phát triển tới sát thanh mạc. Các
mạch máu thành bị dày lên rõ rệt với sự xâm nhiễm viêm bao quanh và đôi khi
bị huyết khối. Các bó thần kinh phì đại. Cả hai thay đổi này có lẽ là thứ phát.
Bờ ổ loét và vùng kế cận của loét dạ dày tá tràng hầu hết có viêm niêm
mạc mạn tính.
+ Biểu mô phủ và khe ở vùng bờ loét và vùng lân cận có tổn thương
thoái hóa và tái tạo mạn tính. Tế bào thóai hóa trở nên dẹt thấp, giảm chế tiết, tế
bào tái tạo kiềm tính hơn. Sự tái tạo biểu mô có thể dẫn tới dị sản ruột, loạn sản
và phát triển thành ung thư. Các tuyến có thể bị teo, số lượng và thể tích đều
giảm. Tế bào viêm mạn tính xâm nhập khắp nơi ở khoảng kẽ. Ở thể hoạt động
có bạch cầu đa nhân và hầu hết thấy có vi khuẩn H. Pylori.
Sau khi loét đã lành, viêm vẫn tồn tại và việc không xẩy ra loét tái phát có
liên quan tới sự cải thiện của viêm dạ dày. Đặc điểm này giúp phân biệt giữa
loét dạ dày tá tràng với viêm trợt cấp tính hoặc loét do stress, vì cả hai trường
hợp sau không thấy viêm niêm mạc vùng kế cận .
+ Cơ niêm tăng sinh và khuyếch tán. Nói chung cơ niêm thường dầy
lên ở vùng gần bờ ổ loét thường tách ra thành những dải phát triển khuếch tán
12
vào mô liên kết ở niêm mạc hoặc hạ niêm mạc , nhưng có khi sợi cơ teo đét hoặc
biến hẳn và được thay thế bằng tổ chức xơ tân tạo.
+ Hạ niêm mạc xơ hoá. Các sợi tạo keo tăng sinh cùng với tế bào lẫn
tế bào viêm làm cho hạ niêm mạc dày lên.
+ Lớp cơ bị kéo lên do tổ chức xơ làm sẹo. Ổ loét mới tổ chức xơ chưa
phát triển nhiều và chưa có làm sẹo, nên sự co kéo lớp cơ ở đáy và quanh ổ loét
chưa xảy ra.
-Trong quá trình tiến triển, một loét dạ dày tá tràng mạn tính thường có
những đợt hoạt động và những giai đoạn lui bệnh. Đặc điểm cơ bản của đợt hoạt
động là tổn thương hoại tử trên nền tổ chức sẹo đã được sửa chữa của đợt trước
do vậy có thể gây chảy máu hoặc thủng. Trong giai đoạn lui bệnh sẽ hình thành
nụ thịt và có thể lấp đầy ổ loét hình thành sẹo đỏ và dần dần xơ hóa thành sẹo
trắng. Sẹo sẽ được biểu mô phủ tái tạo che lấp hoàn toàn (loét nhỏ) hoặc một
phần (loét lớn)
Nhưng dù một ổ loét đã được lấp kín hoặc được biểu mô che phủ, thì nốt
xơ sẹo vẫn là bằng chứng rõ ràng cùa một quá trình tổn thương trước.
1.4.2. Loét sẹo
-Biểu mô phủ ổ mỏng, tế bào không bình thường mà teo đét, nhỏ thấp.
-Cơ niêm và dưới niêm mạc thiếu hay biến thành mô xơ.
-Các tuyến không có hay gặp rất ít.
-Huyết quản không hoàn toàn bình thường, không có tình trạng xung
huyết.
1.4.3. Loét mạn
- Vị trí:
Thường gặp ở tá tràng hơn ở dạ dày, tỉ lệ khoảng 1/3. Hầu hết các loét
hành tá tràng xảy ra ở đoạn đầu của tá tràng. Thành trước của tá tràng hay bị hơn
thành sau.
13
Loét dạ dày thường gặp ở bờ cong nhỏ, ở chính giữa hoặc xung quanh
vùng ranh giới giữa niêm mạc thân vị và hang vị, ở thành trước, thành sau hoặc
dọc bờ cong lớn ít gặp hơn.
- Số lượng:
Thông thường đa số bệnh nhân chỉ có một ổ loét đơn độc, rất hiếm khi có
hai ba ổ hoặc hơn. Nhưng có tới 10-20% số bệnh nhân loét dạ dày đồng thời với
loét tá tràng.
- Kích thước:
Những tổn thương nhỏ < 0.3cm hầu hết là các trợt nông, các tổn thương
>0.6cm thì hầu như chắc chắn là loét. Khoảng 50% các ổ loét dạ dày tá tràng có
đường kính < 2cm và 75% là < 3cm, nhưng cũng có khoảng 10% các ổ loét lành
tính lớn > 4cm. Tuy nhiên, có những loét ung thư có thể < 4cm đường kính, cho
nên về mặt kích thước khó phân biệt được giữa một ổ loét lành tính với một ổ
loét ác tính.
- Hình thái:
Ổ loét dạ dày tá tràng có hình tròn, bầu dục, bờ gọn, niêm mạc rìa ổ loét
có thể nhô về phía lòng ổ loét, đặc biệt là ở mép trên của chu vi ổ loét. Những
loét mới, niêm mạc vùng rìa thường bằng với niêm mạc xung quanh không có
riềm rõ. Bờ loét thoai thoải tạo cho ổ loét có hình nón hay hình lòng chảo, nắn
còn mềm mại do tổ chức xơ chưa phát triển. Niêm mạc vùng quanh ổ loét
thường hơi nề, xung huyết do viêm, chưa xuất hiện những nếp gấp qui tụ hướng
về phía ổ loét. Với những loét cũ tiến triển nhiều năm, niêm mạc rìa có thể gồ
cao một chút. Còn những loét có bờ gồ cao rõ thì ít khi là lành tính đó là đặc
trưng của các tổn thương ác tính. Bờ loét cũ thường thẳng đứng tạo cho ổ loét có
hình chiếc cốc, nắn chắc do tổ chức đã phát triển. Niêm mạc vùng xung quanh ổ
loét có ít biến đổi, thường có phù nề và xung huyết. Các nếp nhăn của niêm mạc
nhận biết rõ, nhưng có xu hướng qui tụ về phía ổ loét.
Những ổ loét cũ tiến triển nhiều năm với những giai đoạn hoại tử và xơ
hóa kế tiếp sẽ dấn đến loét trai. Miệng loét nhẵn hoặc méo mó không đều, nhiều
góc cạnh nhăn nhúm. Niêm mạc rìa loét có thể gồ cao và bị co kéo theo hướng
14
tâm về ổ loét. Loét thường rộng và sâu, bờ thẳng đứng, nhẵn, trắng, rắn chắc ở
mức độ khác nhau. Niêm mạc vùng xung quanh ổ loét bao giờ cũng có tổn
thương rõ: khi thì các nếp nhăn xẹp, niêm mạc mỏng, khi nhăn rúm, các nếp gấp
thô, cao hướng tâm về ổ loét.
Độ sâu của các ổ loét khác nhau, từ những tổn thương bề mặt chỉ ở niêm
mạc và cơ niêm, cho tới những loét sâu đáy nằm trong lớp cơ hoặc sát tới thanh
mạc hoặc xuyên thủng thành dạ dày và đáy ổ loét được tạo thành do tụy, mỡ
mạc nối hoặc do gan sát đó dính bít vào. Cũng có khi ổ loét thông thủng vào
khoang phúc mạc.
Đáy ổ loét thường mềm và sạch vì pepsin tiêu hủy tất cả các dịch rỉ.
1.4.4. Dịch tễ học của viêm loét dạ dày tá tràng
Tỷ lệ mắc bệnh loét cho đến nay chưa được biết rõ, nó thay đổi tùy từng
thời kỳ và tùy từng nước, Murgas ( 1973) ước tính 3,5 - 12% dân số. Ở Châu Âu
cuối thế kỷ XX tỷ lệ loét không thay đổi nhưng loét tá tràng xuất hiện nhiều
hơn. Tại Mỹ, Silen W, Bralow S.P. cho rằng khoảng 10% dân số Mỹ bị loét dạ
dày. Còn các nước phương tây tỷ lệ hiện mắc loét tá tràng ở người lớn khoảng
8%, loét dạ dày 2%. Tỷ lệ mới mắc hàng năm loét tá tràng là 0, 12%, loét dạ dày
0,03% dân số (Dive, 1986).
Ở Việt Nam từ 1962 - 1985 qua các cuộc điều tra khám sức khỏe nhân
dân vào nhiều thời điểm, nhiều địa phương khác nhau trên miền Bắc chủ yếu
dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng một số tác giả cho biết tỷ lệ mắc bệnh loét dạ dày tá tràng từ 4,6 - 8,2%, có địa phương thấp hơn từ 1,8 - 3.1% dân số, trung bình
ước tính 5 - 7% dân số. Trong quân đội tỷ lệ loét dạ dày tá tràng ước tính 6%
quân số.
Loét dạ dày tá tràng có thể thuyên giảm rồi lại tái phát, phần lớn được
chuẩn đoán vào tuổi trung niên hoặc cao hơn, song những bệnh này có thể họ đã
bị lần đầu tiên từ tuổi thanh niên. Trẻ em và người lớn có tỷ lệ bệnh thấp. Riêng
phụ nữ hay bị nhất vào thời kỳ mãn kinh hoặc tiền mãn kinh. Các ổ loét có thể
xảy ra mà không có biểu hiện để nhận biết được và sau thời gian hàng tuần đến
15
hàng tháng ổ loét mới được hàn gắn thậm chí liền sẹo với việc có hoặc không
được điều trị. Tuy nhiên xu hướng chung là các ổ loét vẫn còn tiến triển. Do vậy
một " bệnh nhân đã một lần bị loét dạ dày tá tràng thì luôn luôn là bệnh nhân
loét dạ dày tá tràng". Vì vậy rất khó xác định chính xác số liệu về tỷ lệ bệnh
đang hoạt động. Dựa vào những nghiên cứu giải phẫu bệnh ( khám nghiệm tử
vong) và những khảo sát về quần thể, số liệu ước đoán với một tỷ lệ 6 - 14% đối
với nam và 2- 6 % đối với nữ bị bệnh này. Tỷ lệ nam trên nữ đối với loét hành tá
tràng khoảng 3/1 và với loét dạ dày là khoảng 1,5- 2/1.
Những nghiên cứu hàng chục năm qua cho thấy không rõ vì sao có sự
giảm đáng kể về tỷ lệ loét tá tràng, song tỷ lệ loét dạ dày ít thay đổi. Ảnh hưởng
về mặt di truyền dường như ít hoặc không có vai trò trong loét dạ dày tá tràng.
Về chủng tộc cũng không có sự khác nhau đáng kể. Những điểm khác nhau về
mặt dịch tễ học giữa loét dạ dày và loét tá tràng gây lên sự hoài nghi rằng loét dạ
dày và loét tá tràng là những bệnh khác nhau. Tuy nhiên do việc thiếu hiểu biết
về bệnh sinh của bệnh loét dạ dày tá tràng đã hạn chế những cố gắng phân biệt
cặn kẽ giữa loét dạ dày và loét tá tràng.
1.5. Liên hệ lâm sàng [9]
1.5.1. Triệu chứng
Hầu hết các loét dạ dày tá tràng gây cắn rứt vùng thượng vị, nóng rát hoặc
đau. Đau có xu hướng vào ban đêm. Kinh điển thì đau thường giảm nhờ các chất
kiềm hoặc thức ăn. Đôi khi với những loét sâu, đau thường xuyên ra sau lưng,
lan lên trên bên trái hoặc lan lên ngực. Buồn nôn, nôn và sút cân là những biểu
hiện phụ thêm.
1.5.2. Chẩn đoán
Có nhiều phương pháp để chẩn đoán loét dạ dày tá tràng và việc phát hiện
sớm ung thư dạ dày là vô cùng quan trọng.
- Phương pháp nội soi: ngày nay nhờ sự ra đời và cải tiến không ngừng
các máy nội soi dạ dày ống mềm đã giúp cho chẩn đoán viêm loét dạ dày tá
16
tràng ngày càng chính xác hơn và đã phát hiện được ung thư giai đoạn sớm bằng
hai phương pháp:
- Phương pháp tế bào học: tế bào học chải qua máy nội soi và tế bào học
áp mảnh sinh thiết được áp dụng phổ biến hơn cả. Các phương pháp này đơn
giản, rẻ tiền và cho kết quả nhanh, độ chính xác tới 80-85%.
- Phương pháp mô bệnh học sinh thiết: khi soi dạ dày kết hợp với sinh
thiết làm xét nghiệm mô bệnh học là phương pháp không thể thiếu được trong
chẩn đoán ung thư dạ dày, đặc biệt là phát hiện ung thư giai đoạn sớm.
1.5.3. Biến chứng
- Chảy máu: khá phổ biến. Thường là chảy máu nhỏ, nôn ra máu cũng
thường gặp. Chảy máu do rách một động mạch, chảy máu do thoát mạch. Nhiều
điểm chảy máu nhỏ dẫn đến hiện tượng rỉ máu vào đáy ổ loét và lòng dạ dày.
- Thủng: nguyên nhân cơ bản do hoại tử mô, nhất là trong các đợt tiến
triển cấp. Thủng gây viêm phúc mạc.
- Chít hẹp: do sự xơ hóa dưới và quanh ổ loét, niêm mạc bi co kéo làm
cho dạ dày bị chít hẹp kiểu dạ dày hai túi hay dạng đồng hồ cát. Những loét xơ
trai ở môn vị hay ở hành tá tràng sát môn vị rất dễ dẫn đến hẹp môn vị.
- Ung thư hóa: loét tá tràng không có ung thư hóa. Loét dạ dày bất kể kích
thước vị trí, thời gian đều phải cảnh giác. Tuy nhiên các loét lớn, loét trai và bờ
cong nhỏ nhất là ở đoạn ngang đáng ngại hơn cả.
1.6. Các kỹ thuật chẩn đoán loét dạ dày tá tràng
Có rất nhiều phương pháp sử dụng các kỹ thuật khác nhau để chẩn đoán
loét dạ dày tá tràng. Tuy nhiên hai kỹ thuật hay được áp dụng đó là chụp dạ dày
có chuẩn bị và kỹ thuật nội soi dạ dày bằng ống mềm.
Chụp dạ dày chuẩn bị: cho bệnh nhân uống baryte cản quang, hình ảnh
tổn thương của dạ dày tá tràng có thể quan sát thấy các vết cản quang được tạo
nên do baryte chui vào vùng mặt tổn thương của dạ dày tá tràng trên các phim
chụp niêm mạc hay chụp đối quang kép. Tuy nhiên chụp dạ dày tá tràng khi cho
17
bệnh nhân uống baryte có thể bỏ sót khi các tổn thương thể hiện trên phim chụp
không điển hình.
Nội soi dạ dày bằng ống mềm là kỹ thuật được sử dụng khá rộng rãi. Kỹ
thuật này cho kết quả nhanh chóng và hiệu quả cao do tổn thương được quan sát
trực tiếp qua màn hình. Qua ống nội soi người ta có thể sinh thiết các tổn thương
nghi ngờ ác tính hoặc cũng có thể tiến hành sinh thiết chẩn đoán mô bệnh hoặc
một cách rộng rãi nhằm sàng lọc, chẩn đoán sớm các trường hợp ung thư giai
đoạn đầu. Vì thế có thể giảm chi phí điều trị và kéo dài cuộc sống cho người
bệnh. Tuy nhiên nội soi dạ dày bằng ống mềm cũng mang đến cảm giác khó
chịu và sợ hãi nhất định cho bệnh nhân [3], [7], [8], [19].
1.7. Những nghiên cứu về viêm loét dạ dày hành tá tràng
Có rất nhiều đề tài nghiên cứu về loét dạ dày hành tá tràng được tiến hành
trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Đặc biệt là nghiên cứu về ý nghĩa cũng như
vai trò của Helicobacter pylori trong quá trình bệnh lý dạ dày.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng: tỷ lệ mắc bệnh trên thế giới chiếm khoảng 5%10% dân số. Ở Việt Nam tỷ lệ bệnh nhân mắc chứng bệnh loét dạ dày tá tràng
cũng nằm trong tỷ lệ chung của thế giới (5%-6%) [26], [27], [28].
Tỷ lệ nhiễm Helicobacter pylori tăng dần theo tuổi bệnh nhân và đạt
khoảng 50% ở những người trên 50 tuổi. Ở trẻ em viêm loét dạ dày tá tràng
nhiễm H.pylori cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể [11], [17], [30].
Điều tra hiện tượng nhiễm trùng H. pylori ở 336 trẻ em với các triệu
chứng tiêu hoá được nội soi dạ dày, Cục y tế , Trung tâm ung thư đại học
Howad, Hoa kỳ nhận thấy: Tỷ lệ nhiễm H. pylori là 44,9% (169/376) ở trẻ em
với các triệu chứng trên đường tiêu hóa. Không có khác biệt thống kê tỷ lệ
nhiễm giữa nam và nữ (P> 0,05). Tỷ lệ nhiễm H. pylori trong 3 đến 7-năm cũ, 8
đến 12-năm tuổi và 13 trẻ em 16 tuổi là 39,5% (47/119), 41,0% (55/134), và
54,5% (67/123), với sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tuổi khác nhau (χ2 =
6,76, P <0,05). Tỷ lệ H. pylori dương tính cao hơn đáng kể ở trẻ em những
người trong nhà trẻ hoặc sinh hoạt tập thể và ăn uống đầy đủ thời gian hơn so
với những người không (53,6% so với 40,6%, p <0,05). Tỷ lệ H. pylori tích cực
18
trong các gia đình có thu nhập cao thấp hơn so với ở giữa để các gia đình có thu
nhập thấp (36,9% so với 48,3%, P <0,05). Ngoài ra, tỷ lệ H. pylori dương tính ở
trẻ em có cha mẹ giáo dục tốt là thấp hơn so với những người có cha mẹ đã
không nhận được giáo dục cao hơn (39,5% so với 50,8%, p <0,05). Tỷ lệ nhiễm
H. pylori ở trẻ em có tiền sử gia đình của bệnh tiêu hóa cao hơn đáng kể hơn so
với những người không có tiền sử gia đình bệnh tiêu hóa (52,9% sovới 41,2%, p
<0,05) [27].
Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ khác nhau ảnh hưởng đến sự phát triển
bệnh loét dạ dày tá tràng trong một dân số Brazil [58], các tác giả nhận thấy:
Trong số 1466 bệnh nhân trình nội soi, 1060 (72,3%) tỷ lệ viêm dạ dày mạn tính
(CG) nam / nữ = 506/554, tuổi trung bình (năm) ± SD = 51,2 ± 17,81, 88
(6,0%). Loét tá tràng (DU) [nam / nữ = 54 / 34, tuổi trung bình (năm) ± SD =
51,4 ± 17,14, và 75 (5.1%). loét dạ dày (GU) nam / nữ = 54/21, tuổi trung bình
(năm) ± SD = 51,3 ± 17,12 và được bao gồm trong các so sánh phân tích. Giới
tính và tuổi cho thấy không có tác dụng phát hiện trên CG tỷ lệ (tổng χ ² = 2,1, P
= 0,3423). Sex [tỷ lệ tỷ lệ (OR) = 1,8631, p = 0,0058] nhưng không tuổi (OR =
0,9929, p = 0,2699) được liên kết với DU và cả hai tham số có một ảnh hưởng
rất quan trọng trên loét dạ dày (GU) (tổng χ ² = 30,5, P <0,0001).
Các kết quả mô bệnh học cho thấy một đóng góp đáng kể của người già
cho cả hai teo (OR = 1,0297, p <0,0001) và chuyển sản ruột (OR = 1,0520, p
<0,0001). Sự hiện diện của H. pylori liên quan đáng kể với giảm tuổi (OR =
0,9827, p <0,0001) và với tỷ lệ DU (OR = 3,6077, p <0,0001). Sự phổ biến của
m1 trong DU ý nghĩa thống kê (OR = 2,3563, p = 0,0018), nhưng không phải
trong CG (OR = 2,678, P = 0,0863) và GU (OR = 1,520, P = 0,2863) [58].
Ở Việt Nam, các thống kê cho thấy số bệnh nhân (BN) chảy máu do
LDDTT chiếm 36,9% tổng số BN chảy máu tiêu hoá nói chung, tỉ lệ này còn có
thể thay đổi tùy theo từng bệnh viện trong cả nước. Trong số các ca cấp cứu,
nguyên nhân hàng đầu là do chảy máu ổ LDDTT. Ngày nay, các tác giả trong
nước và trên thế giới đều thống nhất H. pylori là nguyên nhân chính dẫn đến loét
DDTT. Nhiều nghiên cứu trong vòng hơn 10 năm trở lại đây cho thấy tỉ lệ
19
nhiễm H.pylori ở bệnh loét DDTT là 78,7%, đặc biệt loét hành tá tràng chiếm
từ 67,7 đến 95% [9].
Theo Phạm Thanh Hải, Phạm Văn Nhiên, Phạm văn Thiệu [11], [16]
nghiên cứu hình ảnh nội soi của các bệnh nhân loét DDHTT tại bệnh viện hữu
nghị Việt Tiệp Hải Phòng thấy: loét HTT tỷ lệ BN nam chiếm 60,2% và nữ là
39,8%. Loét cũ chiếm phần 72,4%, loét 1 ổ chiếm hơn 80% số bệnh nhân loét dạ
dày hành tá tràng; đặc biệt tỷ lệ nhiễm HP khá cao, từ 72-98,9%.
Theo Ngô Thị Hoàng Anh [1] tỷ lệ loét DDHTT ở nam là 57,1% và nữ là
42,9%; còn theo nghiên cứu của Lê Hùng Vương [19] tỷ lệ nam/nữ là 2.6/1
nghiên cứu trên 215 bệnh nhân loét DDHTT.
Nghiên cứu của Trịnh Tuấn Dũng [7] trên 725 loét dạ dày có 80% 01 ổ
loét, 13,3% hai ổ loét và 03 ổ loét chiếm 3,4-8%.
Đánh giá kết quả nội soi của các bệnh nhân đến làm thủ thuật nội soi thực
quản dạ dày tại phòng nội soi tiêu hoá của bệnh viện Đại học Y Hải Phòng, các
tác giả chỉ ra rằng: Viêm niêm mạc dạ dày, viêm hạng vị kết hợp với viêm HTT
là tình trạng hay gặp nhất trong các trạng thái bệnh lý của DDHTT, tỷ lệ bệnh
nhân loét DDHTT chiếm 4,55% trong tổng số 1623 bệnh nhân đến làm thủ
thuật, [14].
1.8. Nghiên cứu về yếu tố liên quan đến viêm loét dạ dày tá tràng
Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến VLDD-TT là chủ đề được nhiều
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Các yếu tố liên quan mà các tác giả
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào:
- Yếu tố là thức ăn gây kích thích như ớt, tiêu bắc
- Chế độ ăn ít chất xơ
- Uống trà/cà phê đặc, hút thuốc lá
- Uống bia/rượu
- Hành vi ăn uống như ăn quá nhanh, thức ăn thô
- Nghề phải thức khuya, nhiều áp lực
- Thuốc chống viêm dạng cortioid và không phải corticoid
- Yếu tố mang tính chất gia đình, di truyền…
20
Stefan Redéen và CS [56] nghiên cứu thuần tập để phát hiện bệnh
nhân viêm dạ dày và yếu tố liên quan cho thấy các yếu tố liên quan đó
là:
- Thuốc chống viêm dạng không có corticoid
- Hút thuốc lá
- Uống bia/rượu
Padmavathi GV [50] nghiên cứu ở sinh tại 100 trường đại học vùng xa ở
Pamphlet, lứa tuổi sinh viên từ 17-25 để phát hiện tỷ lệ VLDD-TT và tìm các
yếu tố liên quan. Tác giả đã tiến hành phân tích đơn biến và sau đó là đa biến để
tìm ra các yếu tố liên quan đến VLDD-TT như sau:
-
Hút thuốc lá/xì gà
-
Uống rượu
-
Thức mang tính kích thích
-
Sử dụng thuốc chống viêm corticoid và không phải corticoid
-
Tình trạng căng thẳng
-
Nuốt phải dị vật
-
Bị nhiễm khuẩn như nhiễm vi khuẩn H. pylor
S.M. Cazacu [54] cũng thấy sự có mặt của Ig kháng lại H. pylori có liên
quan đến VLDD-TT. Ngoài ra tác giả còn thấy có nhiều yếu tố liên quan đến
bệnh VLDD-TT trong nghiên cứu của mình. Các yếu tố đó là:
- Tuổi cao
- Sống ở nông thôn
- Thói quen hút thuốc lá
- Uống rượu
Theo Nhóm bác sỹ [51] khi là tổng quan về các yếu tố nguy cơ đến bệnh
VLDD-TT đã cho thấy các yếu tố nguy cơ đó là tuổi trên 40, nhiễm H. pylori, sử
dụng thuốc chống viêm không có corticoid, sử dụng xì gà, uống rượu, bệnh nhân
phải trải qua các đại phẫu/bị mắc bệnh trầm trọng và tiền sử gia đình có người
VLDD-TT.
21
Young Eun Joo [62] nghiên cứu cho thấy ngoài các yếu tố là thức ăn,
nhiễm vi khuẩn H. pylori, sử dụng corticoid, kháng viêm không phải corticoid,
hút thuốc lá, uống rượu bi, tác giả còn tìm thấy mối liên quan giữa học vấn của
bệnh nhân thấp với bệnh VLDD-TT.
Ngoài các tác giả trên, các tác giả như Boreiri M [25], Gao L [32],
Gherasim S [33], Hori K [35], Nneli RO [47] và Zang L [63] là các tác giả
nghiên cứu về tỷ lệ VLDD-TT và các yếu tố liên quan đều dựa vào nghiên cứu
nội soi dạ dày cũng có các kết luận:
- Chế độ ăn ít xơ
- Chế độ ăn kích thích
- Uống rượu/bia
- Uống trà/cà phê
- Hút thuốc lá/xì gà
- Nhiễm H. pylori
- Tuổi cao
- Học vấn thấp
- Sống ở nông thôn
- Bệnh nhân có BMI cao trên 20
- Nghề nghiệp căng thẳng/thất nghiệp
- Không sử dụng thực phẩm giàu vitamin nhất là nhóm tan trong dầu/mỡ
- Sử dụng thuốc chống viêm nhóm corticoid, không có corticoid
Các tác giả cũng đưa ra khuyến cáo để giảm tỷ lệ mắc VLDD-TT, nên từ
bỏ lối sống lạm dụng nhiều bia/rượu, hút thuốc, chế độ ăn kích thích, uống nhiều
trà/cà phê. Nên giảm cân, ăn thức ăn tươi, nhiều xơ, vitamin. Tăng cường truyền
thông giáo dục sức khoẻ để cộng đồng hiểu biết về bệnh VLDD-TT và tự họ
phòng bệnh tật cho mình.
22
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Là tất cả các bệnh nhân đến khám tiêu hóa và được nội soi dạ dày tại
Phòng khám nội khoa của Bệnh viện đa khoa Quốc tế Hải Phòng.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2013.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả .
2.2.1 Cỡ mẫu nghiên cứu
Chúng tôi áp dụng công thức tính cỡ mẫu:
n z12 /2 x
Trong đó:
px 1 p
d2
n: cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được.
p: Tỷ lệ viêm loét dạ dày hành tá tràng là 35% theo nghiên cứu trước
[6].
d: sai số mong muốn = 0,05
Z1-α/2: hệ số tin cậy với α = 0,05 thì Z1-α/2 =1,96.
3 : hiệu ứng mẫu
Tính ra cần 1047 bệnh nhân cần đưa vào nghiên cứu. Thực tế đã tiến hành
nội soi cho 1125 bệnh nhân.
23
2.2.2. Kỹ thuật thu thập thông tin
2.2.1.1. Quá trình sàng lọc
Bước 1. Hỏi bệnh để xác định bệnh nhân có hội chứng viêm loét dạ
dày
- Ợ hơi, ợ chua.
- Đầy bụng.
- Đau thượng vị.
- Nôn
Bước 2. Tiến hành nội soi dạ dày để xác định chẩn đoán
Tiêu chuẩn viêm, loét dạ dày hành tá tràng qua hình ảnh nội soi.
- Niêm mạc dạ dày mất tính nhẵn bóng, hơi lần sần, có từng mảng xuất
huyết, dễ chảy máu khi chạm đèn soi (viêm dạ dày xung huyết)
- Niêm mạc có nhiều trợt nông trên có giả mạc bám hoặc có các trợt nông
chạy dài trên các nếp niêm mạc (viêm dạ dày trợt phẳng)
- Niêm mạc dạ dày có các mắt gồ lồi lên trên bề mặt, ở đỉnh hơi lõm xuống
hoặc các nếp niêm mạc phù nề trên có trợt (viêm dạ dày trợt nổi).
- Dạ dày có những đốm xuất huyết hoặc các đám bầm tím do chảy máu
trong niêm mạc, hoặc có thể chảy máu vào lòng dạ dày (viêm dạ dày xuất
huyết).
- Các nếp niêm mạc dạ dày mỏng khi không bơm hơi căng và nhìn thấy các
mạch máu. Có thể nhìn thấy hình ảnh dị sản ruột biểu hiện dưới dạng các mảng
trắng (viêm dạ dày teo).
- Niêm mạc dạ dày mất tính chất nhẵn bóng, nếp niêm mạc nổi to, không
xẹp khi bơm căng hơi, trên có các đốm giả mạc bám (viên dạ dày tăng sản).
- Niêm mạc dạ dày phù nề xung huyết, các nếp niêm mạc phù nề, có dịch
mật trong dạ dày (viêm trào ngược).
Nếu bệnh nhân có lâm sàng và tiêu chuẩn nội soi được coi là ca bệnh,
bệnh nhân không có tiêu chuẩn nội soi và các bệnh nhân khám nội khác được
coi là nhóm chứng.
24
2.2.2.2. Bệnh án nghiên cứu (chuẩn đoán, điều trị) và phiếu điều tra (bảng
hỏi) người bệnh
2.3. Nội dung nghiên cứu
Theo mục tiêu:
2.3.1. Đặc điểm dịch tễ
- Tuổi
- Giới
- Nghề nghiệp
- Địa dư.
- Thời gian mắc bệnh.
2.3.2. Một số yếu tố liên quan
- Tuổi cao
- Công việc căng thẳng: thức đêm, suy nghĩ, nghề nghiệp nguy hiểm
- Chế độ ăn cay
- Uống rượu bia
- Hút thuốc lá/lào
- Tiền sử gia đình có người mắc bệnh
- Tiền sử uống nhóm coritcoid, aspirin, paracetamol
- Tiền sử viêm loét dạ dày
2.3.3. Kỹ thuật soi
2.3.3.1. Chuẩn bị dụng cụ, máy soi
Ống soi được khử trùng bằng cách ngâm vào dung dịch cidex.
Rửa bằng nước sạch và lau khô bằng vải mềm.
Bôi trơn bằng gell K.Y
Kiểm tra hơi và máy hút.
2.3.3.2. Chuẩn bị bệnh nhân
- Bệnh nhân nằm nghiêng trái, chân trái duỗi thẳng, chân gấp sát gường,
hai tay ôm vào bụng.
25