Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 106 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

DNG TH THU HNG

PHáP LUậT Về GIảI QUYếT TRANH CHấP TàI SảN TRí TUệ
TRONG DOANH NGHIệP ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

DNG TH THU HNG

PHáP LUậT Về GIảI QUYếT TRANH CHấP TàI SảN TRí TUệ
TRONG DOANH NGHIệP ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. NGễ HUY CNG

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Dƣơng Thị Thu Hƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG DOANH NGHIỆP ............... 6
1.1.

Khái luận và bản chất của tài sản trí tuệ ......................................... 6

1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ ....................................................................... 6

1.1.2. Các đặc điểm của tài sản trí tuệ .......................................................... 10
1.1.3. Phân loại tài sản trí tuệ ....................................................................... 16
1.1.4. Vai trò của tài sản trí tuệ đối với doanh nghiệp ................................. 20
1.2.

Tranh chấp tài sản trí tuệ và nhu cầu giải quyết tranh chấp
tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp .................................................. 23

1.2.1. Tranh chấp tài sản trí tuệ .................................................................... 23
1.2.2.

Nhu cầu giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp ........... 34

1.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong
doanh nghiệp ...................................................................................... 39
1.3.

Pháp luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ ... 53

1.3.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp ................................................ 53
1.3.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về giải quyết tranh chấp ................. 59
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM........................................................................................ 61


2.1.

Tổng quan về cấu trúc và nguồn của pháp luật Việt Nam về
giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ ............................................... 61


2.1.1. Cấu trúc pháp luật về giải quyết tranh chấp ....................................... 61
2.1.2. Nguồn của pháp luật để giải quyết tranh chấp ................................... 63
2.2.

Các quy định về hình thức giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ..... 66

2.2.1. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng ......................... 66
2.2.2. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải .................................. 68
2.2.3. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài .................................. 69
2.2.4. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án .................................... 71
2.3.

Các vụ việc liên quan tới các hình thức giải quyết tranh chấp
tài sản trí tuệ ..................................................................................... 75

2.4.

Nguyên nhân của những bất cập trong pháp luật giải quyết
tranh chấp tài sả trí tuệ trong doanh nghiệp ở Việt Nam ............ 81

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT ..................................................................................... 84
3.1.

Cơ sở kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống và chính trị liên
quan đến giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ .............................. 84

3.2.


Các định hƣớng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp tài sản trí tuệ ............................................................................ 86

3.3.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
tài sản trí tuệ ..................................................................................... 88

3.3.1. Trong lĩnh vực lập pháp ..................................................................... 88
3.3.2. Trong lĩnh vực hành pháp .................................................................. 89
3.3.3. Trong lĩnh vực tư pháp ....................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADR

Phương thức giải quyết tranh châp thay thế
(Alternative Dispute Resolution)

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(Association of South East Asia Nation)

BLDS

Bộ luật dân sự


BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

DSB

Cơ quan giải quyết tranh châp của WTO

DSM

Cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

SHTT

Sở hữu trí tuệ

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

WIPO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(World Intellectual Property Office)


WTO

Tổ chức thương mại thế giới
(World Trade Organization)


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1: Danh sách 10 thương hiệu đắt giá nhất năm 2015

22

Bảng 1.2: Thống kê số liệu xử lý xâm phạm quyền SHCN trong

38

5 năm gần đây
Số hiệu hình

Tên hình

Hình 1.1: Ảnh xâm phạm kiểu dáng công nghiệp (ảnh sưu tầm)

Trang

37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh xã hội ngày càng được công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
nền kinh tế thị trường phát triển, mở cửa hội nhập với kinh tế văn hóa thế
giới, kinh tế tri thức đóng vai trò ngày một quan trọng. Các sản phẩm được
tạo ra từ hoạt động lao động bằng“chất xám” của con người luôn thu được
nhiều giá trị lợi ích to lớn đối với doanh nghiệp. Nhiều quốc gia nhiều quốc
gia trên thế giới đã quan tâm đến việc bảo vệ các sản phẩm trí tuệ của mình từ
rất lâu nhưng vấn đề này cũng mới được Việt Nam quan tâm khi tiến vào hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản pháp
luật nào quy định cụ thể về đối tượng là tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp.
Thế nhưng trên thực tế cho thấy “tài sản trí tuệ” đang dần đóng vai trò và có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc tạo nên giá trị kinh tế không nhỏ cho
doanh nghiệp không chỉ Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu như
có những tài sản được doanh nghiệp xác định giá trị một cách dễ dàng như
vật, tiền, các loại giấy tờ có giá, bất động sản thì tài sản trí tuệ không phải lúc
nào cũng có thể dễ dàng xác định giá trị thực sự của nó. Hơn thế nữa, giá trị
kinh tế của tài sản trí tuệ đôi khi mang lại quá lớn khiến cho không chỉ khiến
cho các doanh nghiệp hay thậm chí trong chính nội bộ doanh nghiệp cũng có
thể dẫn đến phát sinh những bất đồng tranh chấp. Lợi ích nhiều khi không
phải là tài sản đó được định giá bao nhiêu mà chính là giá trị kinh tế lâu dài
của tài sản đó mang lại.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp không còn là điều mới mẻ và cũng được pháp luật ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau tùy từng lĩnh vực tranh chấp. Tuy


1


nhiên, vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp chưa
được pháp luật thực sự quan tâm đến.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp
tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình nhằm nghiên cứu các vấn đề chủ yếu của pháp luật về giải quyết tranh
chấp tài sản trí tuệ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và từ đó kiến nghị
các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về vấn đề này.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này thực sự mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến pháp luật về giải quyết tranh chấp, đây không còn là vấn
đề mới và các quy định pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp lại nằm
rải rác ở rất nhiều các lĩnh vực như giải quyết tranh chấp đất đai; giải quyết
tranh chấp lao động; giải quyết tranh chấp tài sản trong kinh doanh…. đã có
không ít các đề tài luận văn nghiên cứu các vấn đề này. Tuy nhiên, trong bối
cảnh các quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, tài sản trí tuệ đang ngày
càng được coi trọng, mang lại nhiều giá trị lợi ích cho doanh nghiệp thì pháp
luật về giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp đang ngày càng
được quan tâm, vẫn còn nhiều quy định pháp luật còn thiếu sót chưa đề cập
đến việc giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ.
Luận văn của tác giả sẽ tập trung phân tích đối tượng “tài sản trí tuệ” –
một đối tượng mới chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật hiện
nay, đồng thời nhấn mạnh vai trò và ý nghĩa thực tiễn của đối tượng này trong
doanh nghiệp; phân tích các tranh chấp thường phát sinh liên quan đến tài sản
trí tuệ và chứng minh được nhu cầu thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp
đối tượng này trong giai đoạn hiện nay; thông qua việc áp dụng thực tế, tác
giả đưa ra các định hướng và biện pháp hoàn thiện pháp luật cho việc giải
quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp ở Việt Nam.


2


Trong khi đó, việc đánh giá, xem xét một cách có hệ thống các quy
định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp
tài sản trí tuệ là hết sức cần thiết để góp phần hoàn thiện lĩnh vực pháp luật
còn mới mẻ này ở Việt Nam. Do đó, đề tài mang tính mới và có nhiều ý
nghĩa trên thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về tài sản trí
tuệ - một đối tượng mới chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp
luật; vấn đề về các tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp và phương
thức giải quyết các tranh chấp đó; các quy định pháp luật Việt Nam liên quan
đến giải quyết tranh chấp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, áp dụng
riêng đối với tài sản trí tuệ và thực tiễn áp dụng các phương thức giải quyết
tranh chấp liên quan đến tài sản sở hữu trí tuệ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật và thực tiễn thực thi pháp
luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp trong trong hoạt động kinh doanh
thương mại của doanh nghiệp và đặc biệt với đối tượng là tài sản trí tuệ. Luận
văn tập trung nghiên cứu nội dung của từng phương thức giải quyết tranh
chấp và chỉ ra ưu điểm cũng như hạn chế của từng phương thức để áp dụng
trong việc giải quyết tranh chấp đối tượng này. Trong quá trình nghiên cứu,
tác giả có liên hệ và tham khảo pháp luật một số quốc gia trên thế giới về cách
thức giải quyết tranh chấp vấn đề này.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về tài sản trí tuệ,
các tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp và phương thức giải quyết
tranh chấp áp dụng đối với đối tượng này; đánh giá các quy định của pháp

luật Việt Nam, phân tích và đối chiếu việc áp dụng trên thực tế các phương

3


thức giải quyết tranh chấp và chỉ ra ưu điểm và hạn chế của từng phương thức
khi áp dụng với tài sản trí tuệ. Từ đó tác giả đưa ra những định hướng và đề
xuất một số kiến nghị hoàn thiện các các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành được áp dụng trong lĩnh vực này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản
- Làm sáng tỏ quan niệm về tài sản trí tuệ và các tranh chấp tài sản trí tuệ
thường xảy ra trong doanh nghiệp.
- Phân tích từng phương thức giải quyết tranh chấp và chỉ ra ưu điểm cũng
như hạn chế khi áp dụng đối với giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh
nghiệp tại Việt Nam.
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề giải
quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thực tiễn áp
dụng các phương thức giải quyết tranh chấp này đối với tài sản trí tuệ.
- Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các phương thức giải quyết
tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp.
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về
phương thức giải quyết tranh chấp hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp
cùng với các báo cáo tổng kết, rà soát, đánh giá thực tiễn, các bài viết, ý kiến
tranh luận của các chuyên gia và các công trình nghiên cứu khác… Tài liệu
tham khảo từng nội dung cụ thể được trích dẫn trong Luận văn.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn được tác giả vận dụng các
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để phân tích, làm
sáng tỏ những vấn đề cần được nghiên cứu.

4


Các phương pháp nghiên cứu chính để giải quyết vấn đề được tác giả
sử dụng trong luận văn bao gồm: phân tích; so sánh; thống kê và tổng hợp.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ
trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản trí tuệ
trong doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp ở Việt Nam.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái luận và bản chất của tài sản trí tuệ
1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ
Trong xu thế xã hội ngày càng được công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xu
hướng hội nhập ngày càng được mở rộng hơn, nền kinh tế tri thức đang dần
đóng vai trò quan trọng và chủ lực của xã hội. Không một ai có thể phủ nhận
những giá trị đến từ thành quả của hoạt động lao động trí tuệ trong sự phát

triển của kinh tế xã hội. Một sản phẩm được tạo ra sau một quá trình nghiên
cứu tìm tòi với một mục đích nhất định sẽ luôn đạt được hiệu quả không ngờ.
Trong bất kỳ doanh nghiệp nào, nhu cầu đòi hỏi khả năng sáng tạo và
đổi mới là điều luôn được đánh giá cao. Chủ doanh nghiệp luôn mong muốn
có được những người lao động không chỉ làm được việc, đáp ứng những yêu
cầu đề ra mà còn phải biết phát triển khả năng của mình. Một doanh nghiệp
muốn phát triển thì cần phải có những người lao động làm việc bằng khả năng
tư duy sáng tạo của mình, đóng góp nên sự thành công của doanh nghiệp.
Những khó khăn gặp phải là điều không thể tránh khỏi đối với bất kỳ ai, bất
kỳ doanh nghiệp nào. Để giải quyết và cùng vượt qua được những khó khăn
đó thì đòi hỏi những người lao động ở những vị trí chuyên môn phải biết suy
nghĩ, tìm ra các cách thức, biện pháp mới giải quyết phù hợp (đôi khi nó
chính là những sáng kiến góp phần tạo nên giá trị không nhỏ cho doanh
nghiệp). Do đó, yêu cầu đòi hỏi khả năng sáng tạo và đổi mới tư duy luôn là
điều cần thiết và chú trọng trong việc phát triển doanh nghiệp.
Khi nhìn vào một doanh nghiệp, để đánh giá một doanh nghiệp là uy
tín, khẳng định giá trị thực sự của doanh nghiệp đó, đôi khi người ta sẽ không

6


dựa trên tổng giá trị tài sản vật chất mà doanh nghiệp đó đang hiện có (sở
hữu) như công ty có bao nhiêu trang thiết bị, máy móc, văn phòng được trang
hoàng đẹp đẽ ra sao mà là những yếu tố mang đặc tính hình tượng, nét riêng
biệt của công ty với bên ngoài. Danh tiếng của công ty trên thị trường như thế
nào? điều này thể hiện qua chất lượng sản phẩm/dịch vụ mà công ty mang lại
cho người tiêu dùng, niềm tin của họ đối với hàng hóa/dịch vụ của công ty
(uy tín, danh tiếng); Phương thức kinh doanh tạo nên sự khác biệt với các đối
thủ cạnh tranh và đem lại hiệu quả trong quá trình tiêu thụ sản phẩm mà chỉ
những người nghiên cứu, phát triển của Công ty mới nắm được (bí mật kinh

doanh); Một sản phẩm với cái tên dễ nhớ, thu hút, tạo ấn tượng với người tiêu
dùng giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm ngày một tăng lên (nhãn hiệu hàng
hóa); Hay thậm chí là một thiết kế mới cho bao bì sản phẩm mới tung ra thị
trường không chỉ đẹp, bắt mắt mà còn tiện ích, dễ dàng sử dụng cũng tạo nên
ấn tượng không nhỏ (kiểu dáng công nghiệp). Có thể thấy, để tạo ra được
những dấu ấn riêng biệt làm nên sự phát triển của một doanh nghiệp, mặc dù
không tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định nhưng các yếu tố nêu trên
đã tạo nên giá trị không nhỏ cho doanh nghiệp và trở thành một phần tài sản
riêng thuộc về doanh nghiệp.
Thuật ngữ “Tài sản trí tuệ” không còn là điều mới mẻ với nhiều người.
Tuy nhiên, để có được một định nghĩa chính thức là gì thì cho đến nay vẫn
chưa có một văn bản pháp luật quy định cụ thể. Trước khi đưa ra một khái
niệm để hiểu được thế nào là “Tài sản trí tuệ”, cần xác định “tài sản trí tuệ” là
loại tài sản nào trong khối tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản trong doanh nghiệp được phân chia thành hai loại chính: tài sản
vô hình và tài sản hữu hình. Trong đó, “tài sản hữu hình” là loại tài sản có thể
nhìn thấy được, thông thường là máy móc, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng; “tài sản
vô hình” là loại tài sản bao gồm cả nguồn nhân lực, các bí quyết kỹ thuật, kế

7


hoạch kinh doanh, các ý tưởng, chiến lược, thương hiệu, kiểu dáng công
nghiệp, các kết quả vô hình khác được tạo ra bởi các tài năng sáng tạo và đổi
mới của công ty. Tài sản vô hình thường không tồn tại dưới một hình thái vật
chất mà tồn tại dưới dạng là quyền tài sản (trong đó có quyền SHTT).
Đối với các tài sản hữu hình, người ta hoàn toàn có thể xác định được
giá trị của nó dù ở bất kỳ ở thời điểm nào, nhưng đối với tài sản vô hình thì
khó có thể xác định giá trị của nó một cách chính xác và phù hợp tùy thuộc
vào từng thời điểm.

Theo điều 163 Bộ Luật dân sự 2005 (BLDS), “tài sản bao gồm: vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. “Quyền tài sản là các quyền trị giá được bằng
tiền và có thể giao dịch trong dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ” [33, Điều 181].
Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là một trong các quyền tài sản theo quy định
của pháp luật.
Khi đã xác định “tài sản trí tuệ” cũng là một loại tài sản, cũng giống
như các loại tài sản khác, “tài sản trí tuệ” hoàn toàn có thể được sở hữu, trao
đổi hoặc tặng cho, mua bán chuyển nhượng như các loài tài sản thông thường.
Thêm vào đó, nếu một tài sản trí tuệ đáp ứng đủ các điều kiện bảo hộ theo
pháp luật quy định thì nó sẽ trở thành đối tượng sở hữu trí tuệ như sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh...
Theo nghĩa thông dụng, tài sản trí tuệ được hiểu là tất cả các sản phẩm
của hoạt động trí tuệ: các ý tưởng sáng tạo, các tác phẩm văn học và nghệ
thuật, các công trình nghiên cứu khoa học, giải pháp hữu ích, sáng chế, phần
mềm máy tính, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu... Có thể thấy, tài sản trí tuệ
là một dạng của tài sản vô hình.
Theo Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO, “Tài sản trí tuệ” (tên tiếng
Anh: intellectual assets – IA) là những sáng tạo của trí tuệ bao gồm các sáng
chế, các tác phẩm văn học nghệ thuật, các biểu tượng, các tên gọi, các hình
ảnh và các thiết kế được sử dụng trong thương mại [52].
8


Trong khi đó pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có một định nghĩa trực
tiếp nào về “Thế nào là tài sản trí tuệ?” mà nó chỉ được hiểu một cách gián
tiếp thông qua định nghĩa về Quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005. Tại Luật SHTT: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của các
tổ chức, cá nhận đối với tài sản trí tuệ, bao gồm các quyền tác giả và quyền
liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng” [35, Điều 4, Khoản 1]. Theo đó, tài sản trí tuệ có thể là đối

tượng của quyền sở hữu trí tuệ nếu tài sản đó thỏa mãn các điều kiện theo
pháp luật quy định. Tuy nhiên, bên cạnh những đối tượng này thì vẫn còn rất
nhiều những đối tượng khác không được pháp luật ghi nhận nhưng cũng có
thể là tài sản trí tuệ. Ví dụ: phương thức kinh doanh, tổ chức sản xuất, cơ sở
dữ liệu khách hàng, bản vẽ thiết kế công trình kiến trúc, mỹ thuật, kỹ thuật,
bản báo cáo thông tin cơ sở dữ liệu...
Tóm lại, “tài sản trí tuệ” có phạm vi rộng hơn “quyền sở hữu trí tuệ”.
Tài sản trí tuệ của một doanh nghiệp là bất kỳ các dữ liệu, thông tin hoặc bí
quyết, tri thức nào đó mà một doanh nghiệp có thể sở hữu hoặc chiếm hữu
một cách hợp pháp, thông qua hoạt động sáng tạo và đổi mới bên trong doanh
nghiệp hoặc tiếp nhận chuyển giao từ bên ngoài. Tài sản trí tuệ sẽ là đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ khi đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ không chỉ ghi nhận
quyền sở hữu của chủ sở hữu mà còn bảo vệ cả quyền nhân thân của tác giả
đã trực tiếp tạo ra chúng như quyền đứng tên tác phẩm đối với các đối tượng
thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả. Tài sản trí tuệ còn có thể được chuyển
giao quyền sở hữu (hay còn gọi là chuyển nhượng) hoặc chuyển giao quyền
sử dụng (hay còn lại là li-xăng). Tài sản trí tuệ được sử dụng càng lâu thì càng
tạo nên giá trị không như các tài sản vật chất thông thường khác có thể bị
khấu hao trong quá trình sử dụng.

9


1.1.2. Các đặc điểm của tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản đặc biệt, nó không thực sự tồn tại dưới
một hình thức vật chất cụ thể. Điều đó cũng chính là lý do vì sao người ta lại
phân loại nó là loại tài sản vô hình. Để thấy được đặc điểm nổi bật của tài sản
trí tuệ, chúng cần được đặt ra so sánh với một tài sản thông thường để thấy
được sự khác biệt cũng như đặc điểm của chúng:

 Một là, tài sản trí tuệ có tính vô hình
Nếu tài sản thông thường là tài sản hữu hình mà ai cũng có thể nhìn
thấy được dưới một dạng vật chất cụ thể thì tài sản trí tuệ là một loại tài sản
đặc biệt, nó được hình thành từ sự sáng tạo, suy nghĩ của con người mà không
được nhìn thấy một cách cụ thể dưới dạng vật chất. Người ta chỉ có thể nhìn
thấy tài sản trí tuệ thông qua một hình thức thể hiện nào đó trên vật chất.
Ví dụ: một bản vẽ thiết kế kiến trúc của một tòa nhà: bản vẽ này được
tạo nên nhờ ý tưởng, suy nghĩ của kiến trúc sư dựa trên kiến thức, tư duy trí
tuệ và kinh nghiệm của mình phác thảo từng chi tiết, bộ phận cho tòa nhà đảm
bảo cả về mặt kỹ thuật và an toàn cho người thi công sau này. Sản phẩm tạo
thành là một tòa nhà với kiến trúc uy nghi và độc đáo. Tòa nhà sau khi được
xây xong là một dạng tài sản vật chất hữu hình, còn bản vẽ thiết kế kiến trúc
là hình thức thể hiện ra bên ngoài của ý tưởng sáng tạo nhưng lại đem đến giá
trị cho sản phẩm vật chất tạo thành. Chính vì lẽ đó, bản vẽ thiết kế được nói là
mang tính vô hình khi giá trị của nó chỉ được thể hiện thông qua một tài sản
vật chất hữu hình.
 Hai là, tài sản trí tuệ có giá trị tăng dần trong quá trình sử dụng
Nếu như tài sản thông thường ngày càng bị hao mòn theo thời gian sử
dụng thì ngược lại, tài sản trí tuệ lại ngày càng gia tăng giá trị khi được sử
dụng một cách rộng rãi phổ biến và lâu dài. Với đặc tính vô hình, luôn chứa
đầy sự sáng tạo và mới mẻ, tài sản trí tuệ không bao giờ bị hao mòn bởi bất
10


kỳ sự tác động nào. Đơn giản như một chiếc túi xách khi mua về, thời gian sử
dụng của chiếc túi xách này phụ thuộc vào cách thức sử dụng nó. Là một tài
sản hữu hình (vật chất cụ thể), chiếc túi xách hoàn toàn có thể bị hao mòn sau
nhiều năm sử dụng. Nó có thể bị cũ, rách, phai màu, thậm chí hỏng phải mang
đi sửa hoặc không sử dụng nữa. Tuy nhiên, đối với một tài sản trí tuệ như
“nhãn hiệu hàng hóa”, giá trị của nó sẽ ngày càng gia tăng khi mà qua thời

gian nó chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Dù là sản phẩm xuất phát từ
công ty đã có vị thế trên thị trường hay chỉ xuất phát từ một công ty nhỏ chưa
được nhiều người biết đến, chỉ cần sản phẩm mang tên nhãn hiệu hàng hóa đó
đến với người tiêu dùng và có thể khẳng định được chất lượng, mẫu mã đẹp
với tên gọi thu hút dễ nhớ thì theo thời gian, nhãn hiệu đó sẽ ngày càng được
nhiều người biết đến. Dần dần, khi sản phẩm có chiếm được lòng tin của
người tiêu dùng và sau nhiều năm hoạt động kinh doanh, sản phẩm mang tên
nhãn hiệu hàng hóa có thể trở thành thương hiệu của doanh nghiệp. Ví dụ như
thương hiệu bánh Trung thu Kinh đô, thương hiệu thời trang Zara, H&M;
thương hiệu ô tô Mercedes...
Ngày nay, các thương hiệu này luôn được định giá với một giá trị rất
lớn vì nó chính là hình ảnh của doanh nghiệp, đồng thời có những thương
hiệu đã trở thành thương hiệu nổi tiếng. Doanh nghiệp càng có được sự ủng
hộ của người tiêu dùng thì thương hiệu của họ ngày càng vững mạnh. Do
đó, có thể thấy nếu biết cách sử dụng và phát triển tài sản trí tuệ của mình
một cách hợp lý thì giá trị mà nó mang lại theo thời gian sẽ ngày càng được
đánh giá cao.
 Ba là, tài sản trí tuệ có thể có nhiều đối tượng sử dụng cùng lúc
Tài sản trí tuệ được bảo hộ một cách nghiêm ngặt bằng cách không một
cá nhân/ tổ chức nào được xâm phạm đến quyền của chủ sở hữu tài sản đó
(mà người ta vẫn gọi một cách thông thường là “bảo hộ độc quyền”). Mặc dù
11


vậy, trong trường hợp nếu chủ sở hữu tài sản đó tiến hành chuyển giao quyền
sử dụng (hay nói một cách chính xác là “cấp li-xăng”) cho các chủ thế khác
thì tài sản trí tuệ này có thể được sử dụng bởi nhiều người. Không giống như
tài sản hữu hình chỉ một chủ thể được sử dụng tài sản đó trong một khoảng
thời gian – không gian nhất định, thì tài sản trí tuệ có thể được sử dụng bởi
nhiều khác cùng lúc. Hoặc thông qua hình thức nhượng quyền thương mại, tài

sản trí tuệ của doanh nghiệp cũng có thể được chuyển giao quyền sử dụng khi
nó là một trong những đối tượng nhượng quyền. Mỗi doanh nghiệp đều
những tầm nhìn phát triển khác nhau, có doanh nghiệp thì muốn đi lên bằng
hình ảnh của riêng mình, có doanh nghiệp lại chỉ muốn dựa vào danh tiếng có
sẵn của doanh nghiệp khác để được hưởng lợi. Trong trường hợp tiến hành
hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhận nhượng quyền sẽ được sử
dụng mô hình kinh doanh (cách bày trí, sắp xếp cửa hàng, vật dụng sử dụng),
phương thức kinh doanh, phương thức quản lý, công thức nấu ăn riêng mang
nét đặc trưng của bên nhượng quyền (hay chính là bí mật kinh doanh), thương
hiệu của bên nhượng quyền. Tất cả các yếu tố như “mô hình kinh doanh,
phương thức kinh doanh, công thức nấu ăn bí mật, thương hiệu” đều được coi
là tài sản trí tuệ của bên nhượng quyền. Với hình thức nhượng quyền, bên chủ
sở hữu sẽ có thể nhượng quyền cho rất nhiều bên cùng sử dụng phương thức
này để cùng thu được lợi ích. Hay một minh chứng khác cho việc tài sản trí
tuệ có thể sử dụng cùng lúc bởi rất nhiều chủ thể khác nhau. Chính là các
chương trình phần mềm (một trong những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ)
– nó chính là các sản phẩm trí tuệ của các doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực
công nghệ thông tin. Giả sử công ty chuyên thiết lập phần mềm tạo ra một
phần mềm kế toán chuyên dụng giúp được kế toán của các doanh nghiệp khác
tiết kiệm được thời gian và quản lý công việc của mình. Khi đó, phần mềm
này có thể được chuyển giao quyền sử dụng cho rất nhiều công ty có nhu cầu

12


sử dụng trong hoạt động quản lý sổ sách kế toán của mình. Có thể thấy, đây
cũng là một trong những điểm khác biệt nổi trội của một tài sản trí tuệ so với
tài sản thông thường.
 Bốn là, tài sản trí tuệ mang tính chất phái sinh
Khi một tài sản trí tuệ được tạo thành, được khai thác và sử dụng rộng

rãi thì lợi ích vật chất mà nó mang lại vô cùng lớn, không bị giới hạn như tài
sản hữu hình. Dựa trên một tài sản trí tuệ có sẵn có thể tạo nhiều tài sản trí tuệ
mới, phục vụ cho nền tảng tri thức không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho
toàn xã hội. Tính phái sinh của tài sản trí tuệ thể hiện ở chỗ: dựa vào tài sản
trí tuệ có sẵn ban đầu, những tài sản trí tuệ mới được tạo ra dựa trên nền tảng
cái cũ nhưng có bản chất khác biệt hoàn toàn, không giống với cái cũ. Dường
như mỗi tài sản trí tuệ được tạo ra cũng là một động lực mạnh mẽ cho các nhà
nghiên cứu phát triển ngày các tài sản trí tuệ sau đó. Ngày nay khắp nơi trên
thế giới đều sử dụng “bút bi” để ghi lại thông tin một cách dễ dàng, thay vì
phải sử dụng bút lông, bút mực như trước kia.. không tiện lợi và dễ bị bẩn, bị
nhòe. Năm 1931, Ông Ladislao Biro là người đầu tiên sáng chế ra chiếc “bút
bi” giúp con người có thể sử dụng dễ dàng và tiên lợi. Sau sự ra đời của chiếc
bút bi, dựa trên giải pháp kỹ thuật sẵn có, người ta nghiên cứu và chế tạo ra
nhiều kiểu dáng bút bi với kích thước, chất lượng tốt hơn, phù hợp hơn. Bút
bi chỉ là một hình thức thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể của giải pháp kỹ
thuật mà Ông Ladislao Biro đã nghiên cứu và chế tạo. Chiếc bút bi ngày nay
có thể viết được nhiều màu mực khác nhau, có thể tích hợp cả những tính
năng công nghệ hiện đại như camera, đèn laze tạo nên tính khác biệt nhiều so
với chiếc bút bi thông thường.
Bên cạnh những đặc điểm chung của tài sản trí tuệ nêu trên thì đối với
một số tài sản trí tuệ được pháp luật ghi nhận bảo hộ như “sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp” có hai đặc điểm riêng biệt sau đây:
13


Thứ nhất là tính sáng tạo: Tính sáng tạo là đặc điểm nổi bật của sáng
chế/ kiểu dáng công nghiệp. Đây là một trong những điểm khác biệt của tài
sản trí tuệ so với các tài sản trí tuệ. Tính sáng tạo là một trong các tiêu chí
quan trọng trong việc xác lập quyền bảo hộ đối với sáng chế/kiểu dáng công
nghiệp. Khi đó, tính sáng tạo phải cho thấy được với trình độ hiểu biết thông

thường thì không thể tạo ra một sản phẩm trí tuệ. Chỉ những người phải có
chuyên môn sâu trong lĩnh vực nghiên cứu sản phẩm trí tuệ đó mới có thể
sáng tạo ra được, Khi đó, tính sáng tạo mới có thể tạo nên giá trị cho sản
phẩm. Một minh chứng điển hình về chiếc điện thoại di động thông minh
(smartphone): Vào khoảng thế kỷ 18 khi công nghệ thông tin chưa phát triển,
để đáp ứng nhu cầu liên lạc của con người khi ở cách xa nhau hàng nghìn cây
số, người ta nghiên cứu phát minh ra sản phẩm là “điện thoại” nhằm mục đích
có thể nói chuyện với nhau bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu. Tại thời điểm đó,
một chiếc điện thoại thông thường chỉ có chức năng nghe gọi và không có
tiện ích nào khác. Ngày nay, thời đại của công nghệ số, nhiều nhà nghiên cứu
đã cải tiến chiếc điện thoại di động với thiết kế nhỏ gọn, sang trọng hơn, tích
hợp nhiều tính năng mới như nghe nhạc, chụp ảnh, quay phim, đọc sách, truy
cập internet đọc tin tức, cập nhật thông tin xã hội ở khắp nơi trên thế giới, tìm
kiếm thông tin, địa chỉ,.. và rất rất nhiều tính năng hữu ích khác. Tất cả các
tính năng mà thông thường phải sử dụng thông qua nhiều vật dụng như ti vi,
loa đài, máy ảnh, máy quay, máy vi tính, sách báo..thì nay được tích hợp hết
chỉ trong duy nhất một sản phẩm. Chiếc điện thoại thông minh này ra đời đã
cho thấy được khả năng sáng tạo của con người là vô biên, tính sáng tạo đã
tạo nên giá trị cho sản phẩm được tạo thành và mang lại lợi ích kinh tế không
nhỏ cho doanh nghiệp. Tập đoàn Apple của Mỹ với sản phẩm là chiếc điện
thoại Iphone đã trở thành tập đoàn nổi tiếng nhất thế giới. Bên cạnh đó là các
đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực phát triển dòng điện thoại smart phone như

14


Samsung, Sony, LG,.. Cho đến nay, công cuộc chạy đua dòng điện thoại
smart phone có tính năng ưu việt nhất vẫn đang được Apple và Samsung cạnh
tranh hết sức quyết liệt. Đây chính là sự cạnh tranh giữa các nhà sáng tạo của
Hai tập đoàn này trong việc liên tục nghiên cứu, tìm kiếm và tạo ra được

những ứng dụng ngày càng mới mẻ và ngày một hiện đại hơn.
Thứ hai là tính đổi mới (tính mới): tính sáng tạo và tính mới là điều
kiện quan trọng không thể tách rời nhau trong sáng chế/kiểu dáng công
nghiệp. Tính mới trong tài sản trí tuệ được hiểu là sự thay đổi mang ý nghĩa
tích cực trong mỗi sản phẩm được tạo thành từ tài sản trí tuệ. Tính mới ở đây
chính là sự xuất hiện đầu tiên của sản phẩm trên thị trường. Tính mới là một
trong những điều kiện để sáng chế/kiểu dáng công nghiệp trở thành đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp. Tính mới của quyền sở hữu trí tuệ mang tính
tuyệt đối, tức là dù ở bất cứ đâu, trên bất kỳ nguồn thông tin nào, phạm vi địa
lý nào thì chỉ cần đối tượng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ xuất hiện trước thời
điểm nộp đơn thì sẽ bi coi là mất đi tính mới. Một sản phẩm trí tuệ hoàn toàn
có thể mất đi khả năng được bảo hộ khi tính mới được bộc lộ công khai dưới
bất kỳ hình thức nào. Tính mới phải có khả năng tạo nên sự khác biệt cho sản
phẩm cùng loại. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiện ích của con
người ngày một tăng cao. Sau khi nghiên cứu nhu cầu thực tế thường gặp phải
của các gia đình, các công ty chuyên thiết kế và sản xuất nội thất đã nghiên
cứu và tạo ra một sản phẩm có khả năng tích hợp nhiều chức năng, gọi là “nội
thất thông minh”. Sản phẩm này có khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng của
những gia đình mà có diện tích nhỏ hẹp. Một sản phẩm nội thất thông minh
bình thường có thể chỉ là một chiếc tủ sách, khi nào cần có thể thay đổi hình
dạng để tạo thành một bộ bàn ghế ăn trong nhà, thậm chí có thể trở thành bàn
trang điểm cho các chị em phụ nữ, hoặc hơn nữa có thể là một chiếc giường
ngủ. Như vậy, khác với sản phẩm là một chiếc bàn, chiếc tủ sách hay là chiếc

15


giường tách biệt độc lập nhau thông thường thì sản phẩm nội thất thông minh
là một kiểu dáng hoàn toàn mới. Tính mới này tạo nên nhiều lợi ích hơn cho
người sử dụng và khác biệt hoàn toàn so với các sản phẩm đơn lẻ thông

thường. Sự khác biệt đó tạo nên tính mới cho sản phẩm nội thất thông mình
này. Để có thể trở thành một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (cụ thể là
kiểu dáng công nghiệp cho sản phẩm nội thất này) thì chủ sở hữu thiết kế ra
nó phải đảm bảo trước khi công khai sản xuất và kinh doanh trên thị trường
thì phải đăng ký bảo hộ.
1.1.3. Phân loại tài sản trí tuệ
Một đối tượng sở hữu trí tuệ nếu thỏa mãn các điều kiện bảo hộ độc
quyền theo pháp luật sở hữu trí tuệ và được doanh nghiệp xúc tiến đầy đủ các
biện pháp bảo hộ thì sẽ xác lập một quyền sở hữu trí tuệ (Intellectual property
right – IPR) cho doanh nghiệp như: Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu,
Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy
chứng nhận đăng ký bản quyền tác giả..
Tài sản trí tuệ bao gồm các tài sản thuộc đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ và các tài sản trí khác không được pháp luật ghi nhận bảo hộ. Một doanh
nghiệp có thể tạo ra nhiều đối tượng sở hữu trí tuệ, song nếu không quan tâm
đến việc vận dụng pháp luật sở hữu trí tuệ để biến các đối tượng sở hữu trí tuệ
thành các độc quyền thương mại, không xúc tiến các thủ tục để bảo hộ thì sẽ
không có được quyền sở hữu trí tuệ đối với chính các đối tượng sở hữu trí tuệ
đó. Hay nói một cách khác, doanh nghiệp đã tự từ bỏ một tài sản dưới dạng
quyền tài sản đối với thành quả của quá trình sáng tạo hoặc đầu tư cho sự
sáng tạo của chính mình.
Như vậy, tài sản trí tuệ có thể được phân thành 2 loại sau đây:
(i) Tài sản trí tuệ là các tài sản thuộc đối tượng thuộc quyền sở hữu
trí tuệ: Theo pháp luật Sở hữu trí tuệ hiện nay, có quy định ba nhóm đối
tượng sở hữu trí tuệ gồm [35, Điều 3]:
16


+ Đối tượng của quyền tác giả là các loại tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học; đối tượng thuộc quyền liên quan đến quyền tác giả gồm: buổi

biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, các chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa. Bảo hộ quyền tác giả thường có được một
cách tự động ngay từ khi tác phẩm được hoàn thành dưới một hình thức thể
hiện nào đó.
+ Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp gồm: nhãn hiệu, kiểu dáng
công nghiệp, sáng chế - giải pháp hữu ích, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, bí mật kinh doanh, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Không giống như
bảo hộ quyền tác giả được hình thành tự động ngay khi tác phẩm được hoàn
thành, quyền sở hữu công nghiệp chỉ được xác lập khi tiến hành đăng ký và
đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ.
 Nhãn hiệu (Trademark): Luật Sở hữu trí tuệ 2005 “Nhãn hiệu là dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các tổ chức, cá nhân
khác nhau” [35, Điều 4, Khoản 16]. Yếu tố cấu thành nên nhãn hiệu có thể là
từ ngữ, hình ảnh (logo) hoặc là sự kết hợp của từ ngữ và hình ảnh. Theo pháp
luật Việt Nam, nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được, trường hợp nhãn
hiệu là âm thanh, mùi vị thì không được bảo hộ.
 Kiểu dáng công nghiệp (Industrial Designs): Luật Sở hữu trí tuệ
2005 “ Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được
thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố
này” [35, Điều 4, Khoản 13]. Đối tượng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
không phải là sản phẩm cụ thể mà là kiểu dáng được ứng dụng trên các sản
phẩm đó. Các kiểu dáng muốn được bảo hộ thì phải đảm bảo được tính mới,
tính sáng tạo và có khả năng áp dụng được trong công nghiệp (tức là có thể
sản xuất với quy mô lớn).
 Sáng chế (Patent): theo Điều 4, khoản 12 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
17


“Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nằm
giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”

[35, Điều 4, Khoản 12]. Sáng chế được bảo hộ cũng phải đảm bảo tính mới,
tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Trong đó, tính sáng tạo là yếu
tố quan trọng.
 Tên thương mại (Trade Name): Luật Sở hữu trí tuệ 2005:
Tên thương mại là tên gọi của các tổ chức, cá nhân dùng
trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang
tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu
vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh quy định tại khoản này là khu
vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có
danh tiếng [35, Điều 4, Khoản 21].
 Bí mật kinh doanh (trade secret): Luật Sở hữu trí tuệ 2005, “Bí mật kinh
doanh là thông tin thu được từ hoạt động kinh doanh đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa
được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh” [35, Điều 4, Khoản 23].
Giá trị thương mại của thông tin đối với đối thủ cạnh tranh thể hiện ở giá trị
kinh tế mà đối thủ cạnh tranh phải trả để có được thông tin đó: đầu tư tài
chính, nhân lực cho hoạt động nghiên cứu, phát triển để có được thông tin đó
một cách hợp pháp.
 Thiết kế bố trí mạch tích hợp (Luật Sở hữu trí tuệ 2005) “Thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn (gọi là thiết kế bố trí) là cấu trúc không gian
của các phần tử mạch và mối liên kết các phần từ đó trong mạch tích hợp
bán dẫn” [35, Điều 4, Khoản 15].
 Chỉ dẫn địa lý (Geographical Indication): (Luật Sở hữu trí tuệ 2005)
“Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực,
địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể” [35, Điều 4, Khoản 22].
Danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng mức độ tín
18


×