Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về vốn điều lệ trong công ty cổ phần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ HẢI CHÂU

PH¸P LUËT VÒ VèN §IÒU LÖ
TRONG C¤NG TY Cæ PHÇN ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ HẢI CHÂU

PH¸P LUËT VÒ VèN §IÒU LÖ
TRONG C¤NG TY Cæ PHÇN ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Hải Châu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VỐN ĐIỀU LỆ TRONG CÔNG TY
CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VỐN ĐIỀU LỆ TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN ......................................................................... 6
1.1.

Những vấn đề chung về công ty cổ phần........................................... 6

1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần ................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần .............................................................. 7

1.2.

Khái lược về vốn trong công ty cổ phần ........................................... 8

1.2.1. Tổng quan khái niệm về vốn ................................................................. 8
1.2.2. Vốn điều lệ trong công ty cổ phần ........................................................ 9
1.3.

Những vấn đề chung về pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của
công ty cổ phần .................................................................................. 11

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của công ty
cổ phần ................................................................................................ 11
1.3.2. Các bộ phận cấu thành của pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của
công ty cổ phần ................................................................................... 13
1.3.3. Những yêu cầu cơ bản cần phải có đối với pháp luật điều chỉnh
vốn điều lệ của công ty cổ phần .......................................................... 15
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 19


Chương 2: NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỐN ĐIỀU LỆ CỦA CÔNG
TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 ................. 20
2.1.

Quy định chung về vốn điều lệ trong công ty cổ phần .................. 20

2.1.1. Vốn điều lệ trong công ty cổ phần ...................................................... 20
2.1.2. Đối tượng góp vốn .............................................................................. 32
2.1.3. Tài sản góp vốn và định giá tài sản góp vốn ....................................... 33
2.2.


Các loại cổ phần ................................................................................ 35

2.3.

Vấn đề thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký
doanh nghiệp ..................................................................................... 37

2.4.

Cơ chế quản lý, sử dụng vốn điều lệ ................................................ 42

2.5.

Các trường hợp thay đổi vốn của công ty cổ phần ........................ 43

2.5.1. Giảm vốn điều lệ trong công ty cổ phần ............................................. 44
2.5.2. Tăng vốn điều lệ công ty cổ phần ....................................................... 47
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 52
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ DƯỚI GÓC NHÌN
PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI QUY ĐỊNH VỀ VỐN
ĐIỀU LỆ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN CỦA LUẬT
DOANH NGHIỆP 2014 .................................................................... 53
3.1.

Thực tiễn việc triển khai chế định vốn pháp định trong mối liên
hệ với vốn điều lệ trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay ........ 54

3.1.1. Gia tăng thường xuyên các ngành, nghề phải có vốn pháp định
trong khi có một số ngành nghề không cần thiết ................................ 54

3.1.2. Mức vốn pháp định không có tính ổn định ......................................... 56
3.1.3. Vấn đề giám sát, quản lý doanh nghiệp trong việc duy trì mức
vốn pháp định chưa được quy định cụ thể .......................................... 57
3.1.4. Một số kiến nghị.................................................................................. 58
3.2.

Vấn đề về cơ chế giám sát tiến độ góp vốn và chế tài xử lý........... 59


3.2.1. Việc xác định số vốn thực tế của doanh nghiệp khi đăng ký là bao
nhiêu còn bỏ ngỏ, cơ chế giám sát tiến độ góp vốn chưa chặt chẽ....... 60
3.2.2. Chế tài xử lý các vi phạm còn quá yếu ............................................... 63
3.2.3. Một số kiến nghị.................................................................................. 64
3.3.

Cần có chế tài cụ thể trong việc việc định giá tài sản góp vốn...... 65

3.3.1. Một số điểm hạn chế từ quy định của pháp luật về định giá tài sản ........ 66
3.3.2. Một số kiến nghị.................................................................................. 67
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTCP:

Công ty cổ phần


CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
DN:

Doanh nghiệp

DNNN:

Doanh nghiệp nhà nước

DNTN:

Doanh nghiệp tư nhân

LCT:

Luật công ty

LDN:

Luật doanh nghiệp

LĐT:

Luật đầu tư

NH:

Ngân hàng

TTCK:


Thị trường chứng khoán


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là một đất nước có nền kinh tế đang phát triển. Công cuộc
đổi mới được khởi xướng kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến
nay đã được gần 30 năm cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kinh tế
Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, chuyển đổi dần từ nền kinh
tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là kể từ
khi gia nhập WTO kèm theo các cam kết đã ký, nền kinh tế của Việt Nam
ngày càng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, pháp luật, với
tư cách là một thành tố của kiến trúc thượng tầng phải làm thế nào để có thể
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh nhưng bền vững?
Luật doanh nghiệp 1999 và 2005 là hai thành tựu pháp luật có thể đánh
giá là khá hoàn thiện của hệ thống pháp luật nước ta, tuy khó tránh khỏi thiếu
sót nhưng đã thực hiện được chức năng điều chỉnh và quản lý cho các chủ thể
kinh doanh kinh doanh làm giàu cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển và
hội nhập, diễn biến khó lường của tình hình chính trị, xã hội trên thế giới cũng
có nhiều tác động đến nền kinh tế, qua 8 năm thực hiện, LDN 2005 cũng được
thay thế bằng LDN 2014 với hy vọng mang đến một hệ thống quy phạm hoàn
thiện hơn, hợp lý hơn, vừa làm cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cảm
thấy được sự an tâm khi tham gia thị trường, vừa là một công cụ để nhà nước
có thể quản lý một cách hiệu quả.
Trong các loại hình công ty, mô hình CTCP với những ưu điểm được
cho là rất lớn là một loại hình chiếm số lượng rất lớn trong tổng số các doanh
nghiệp đã được thành lập ở Việt Nam. Trong kinh doanh, khi khởi sự, yếu tố
vốn là vô cùng quan trọng. Quy định thế nào về vốn đặc biệt là vốn điều lệ

cho hợp lý là bài toán không đơn giản. Chính vì vậy, nhu cầu tìm hiểu, tiến tới

1


hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật liên quan đến loại hình doanh
nghiệp này, đặc biệt là các quy định về vốn điều lệ có ý nghĩa to lớn cả trên
phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Mặt khác, dù đã du nhập rất nhiều các quy
định, chế định từ luật công ty của các nước tiên tiến trên thế giới, nhưng thực
tiễn áp dụng các quy định này vào môi trường kinh doanh nước ta vẫn còn
nhiều bất cập. Vì thế, pháp luật về vốn mà đặc biệt là vốn điều lệ trong CTCP
ở Việt Nam vẫn cần có những nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc nhằm hoàn
thiện hơn nữa.
Vì những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về vốn điều lệ
trong công ty cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật chuyên
ngành kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề trong nước
Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về loại hình CTCP cũng
như vốn trong CTCP ở các cấp độ khác nhau như sách báo, tạp chí khoa học
chuyên ngành, luận văn, báo cáo, như: Nguyễn Thanh Bình (2000), “Mối quan
hệ giữa các loại vốn trong công ty theo Luật doanh nghiệp Việt Nam”, Dân
chủ và Pháp luật, số 4/2000, tr.31 - 33, 47; Hoàng Thị Giang (2005), “Cấu trúc
vốn của công ty cổ phần - các giải pháp nhằm hoàn thiện Luật doanh nghiệp
1999 dưới góc độ cấu trúc vốn”, Nhà nước và Pháp luật, số 7/2005, tr.30 - 32,
39; Dương Anh Sơn (2006), “Cần thiết phải có cơ chế giám sát vốn điều lệ
trong Luật doanh nghiệp”, Nghiên cứu lập pháp, số 10/2006, tr.56 - 59, 62;
Phạm Hoài Huấn (2011), “Vốn điều lệ của công ty từ quy định của Nghị định
102/2010/NĐ-CP, Nghiên cứu lập pháp, số 1/2011, tr. 50 - 53; Từ Thanh Thảo
(2011), “Bàn về chế định vốn điều lệ công ty cổ phần”, Nhà nước và Pháp luật,
số 8/2011, tr.36 - 42; Nguyễn Quốc Vinh (2012), “Quy định về vốn điều lệ

công ty và thông lệ quốc tế”, Nghiên cứu lập pháp, số 1, 2/2012, tr. 97 - 100,
105; Từ Thanh Thảo (2013), “Pháp luật về vốn điều lệ công ty và thông lệ

2


quốc tế”, Nhà nước và Pháp luật, số 12/2013, tr. 35 - 44; Công trình khóa luận
tốt nghiệp có: Nguyễn Thùy Dương (2006); “Những khía cạnh pháp lý cơ bản
về vốn trông công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005”; Luận văn thạc sỹ
luật học có: Nguyễn Phương Anh (2012), “Chế độ pháp lý về vốn trong công ty
cổ phần theo pháp luật Việt Nam”… Nhìn chung, các nghiên cứu, công trình
khoa học nói trên đã đánh giá một các khái quát về quy định về vốn trong
CTCP nói chung và vốn điều lệ trong CTCP nói riêng. Các nghiên cứu này
cũng đã nhận xét về những ưu điểm cũng như nhược điểm của pháp luật Việt
Nam hiện hành các quy định này. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào chuyên
sâu về riêng vấn đề vốn điều lệ trong CTCP, đặc biệt là những thay đổi kể từ
khi LDN 2014 có hiệu lực thi hành.
Do vậy, đề tài “Pháp luật về vốn điều lệ trong công ty cổ phần ở Việt
Nam” là công trình nghiên cứu được thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sỹ về
vốn điều lệ trong CTCP trên cơ sở nghiên cứu các quy định mới của Luật
doanh nghiệp 2014, nghiên cứu trong luận văn cũng có nhiều ý nghĩa lý luận
và thực tiễn trong khoa học pháp lý của Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu pháp luật về vốn và vốn điều lệ trong CTCP.
Thứ hai, phân tích rõ những quy định cụ thể về vốn và vốn điều lệ
trong CTCP ở Việt Nam, làm rõ hơn về ý nghĩa của các quy định đó, đánh giá
ưu điểm và sự hạn chế của chúng, đồng thời có sự so sánh đối chiếu trong mối
tương quan chung của các quy định pháp luật về vấn đề quản lý vốn công ty
cổ phần trên thế giới cũng như hoàn cảnh kinh tế, xã hội, truyền thống kinh
doanh và tâm lý dân tộc của mỗi nước.

Thứ ba, kiến nghị một vài vấn đề cho việc tiếp tục hoàn thiện các quy
định pháp luật liên quan đến việc quy định về vấn đề vốn điều lệ trong mô
hình CTCP ở Việt Nam.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là các quy phạm pháp luật quy định về vốn
trong CTCP theo LDN 2005 và LDN 2014, đồng thời là một số đạo luật về
công ty của nước ngoài như: Luật công ty Nhật Bản 2006, Luật công ty Trung
Quốc 2005 và một số nước khác…. Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn
thi hành, đồng thời còn nghiên cứu những công trình khoa học có trước đó về
các vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn luận văn thạc sỹ cũng như mục tiêu đề ra từ trước, luận
văn này không có tham vọng nghiên cứu quá chi tiết, quá nhiều các vấn đề mà
tập trung vào một số vấn đề lớn, chính yếu chủ yếu là quy định về vốn điều lệ,
số vốn tối thiểu cần có trong việc kinh doanh một số ngành nghề, việc giám
sát tiến độ góp vốn cũng như trách nhiệm của cổ đông trong việc đảm bảo tiến
độ góp vốn… trong CTCP nhằm qua đó có một cái nhìn tổng quan về vấn đề
nêu trên trong mô hình CTCP theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành, đồng thời có so sánh đối chiếu với những quy định của một số đạo luật
về công ty của nước ngoài, từ đó rút ra một số kinh nghiệm, kiến nghị lập
pháp để tiếp tục nghiên cứu và hoàn hiện pháp luật về lĩnh vực trên trong
công ty cổ phần ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khi viết luận
văn, trong đó chủ yếu là phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử lôgic, đối chiếu so sánh.

6. Đóng góp khoa học của đề tài
Vốn là không thể thiếu trong kinh doanh, những vấn đề về vốn luôn có
tầm ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của một doanh nghiệp. Việc nghiên cứu

4


sâu về chế định vốn trong một môi trường pháp luật luôn có nhiều biến động
như ở nước ta đặc biệt lồng ghép vào đó những so sánh với pháp luật nước
ngoài là rất cần thiết.
Việc nghiên cứu này mong muốn sẽ đóng góp những ý kiến lý luận
trong quá trình góp vốn, tăng giảm vốn và tất cả những vấn đề liên quan đến
vốn điều lệ trong CTCP ở Việt Nam. Qua đó có thể góp phần vào quá trình
xây dựng và sửa đổi hoàn thiện pháp luật hiện nay của nhà nước ta.
Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hơn những đổi mới trong quy định
của pháp luật hiện hành về vốn điều lệ trong CTCP tại Việt Nam trong LDN
2014 trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ với
kinh tế thế giới. Đi sâu vào nghiên cứu và chỉ ra những bất cập, hạn chế của
quy định trong LDN 2005, những điểm mới của LDN 2014 và những kiến
nghị, đề xuất nhằm góp phần là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
CTCP ở Việt Nam đặc biệt là về vấn đề vốn điều lệ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về vốn điều lệ trong công ty cổ phần và pháp
luật về vốn điều lệ trong công ty cổ phần.
Chương 2: Nội dung pháp luật vốn điều lệ trong công ty cổ phần theo
Luật doanh nghiệp 2014.
Chương 3: Một số đề xuất, kiến nghị dưới góc nhìn phân tích những
điểm mới quy định về vốn điều lệ trong công ty cổ phần

của Luật doanh nghiệp 2014.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VỐN ĐIỀU LỆ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ VỐN ĐIỀU LỆ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Những vấn đề chung về công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần (CTCP) ra đời vào khoảng thế kỷ XVII cùng với sự
phát triển mở đầu nền đại công nghiệp cơ khí của các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. CTCP phát triển mạnh mẽ nhất trong thế kỷ XIX, khi nền
kinh tế tư bản phát triển như vũ bão và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đòi
hỏi phải có nhiều vốn đầu tư mới có thể hoạt động có hiệu quả.
Ở Việt Nam cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, CTCP
đã từng bước hình thành và phát triển, được ghi nhận trong LCT 1990, LDN
1999, LDN 2005 và LDN 2014.
Điều 110, Luật doanh nghiệp 2014 quy định về CTCP:
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối
thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và
khoản 1 Điều 126 của Luật này.

2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
6


3. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để
huy động vốn; [45, Điều 110].
Theo đó “CTCP là một loại hình đặc trưng của loại hình công ty đối
vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần,
người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của Công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà công ty sở hữu”.
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần
Qua các quy định của LDN 2014 về CTCP có thể thấy CTCP có một số
đặc điểm sau:
Một là, CTCP là một pháp nhân, tồn tại độc lập với các chủ thể khác,
thể hiện cả về tư cách chủ thể cũng như về tài sản.
Hai là, CTCP có cấu trúc vốn mềm dẻo, linh hoạt, cấu trúc vốn “mở”,
vốn điều lệ của công ty được chia thành các cổ phần, các cổ phần được tự do
chuyển nhượng trong công ty cũng như ngoài công ty (trừ trường hợp điều lệ
công ty hoặc pháp luật có quy định khác). Công ty có khả năng huy động
nguồn vốn thông qua phát hành chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Ba là, CTCP có tính chất đối vốn điển hình. Những vấn đề và quản lý
nội bộ và quyền lợi của cổ đông được giải quyết cơ bản dựa trên nguyên tắc
đối vốn. Các cổ đông tham gia vào công ty không quan tâm đến nhân thân của
nhau mà chỉ trên cơ sở cổ phần.
Bốn là, với cấu trúc vốn và tính chất thành viên riêng của mình, CTCP
đòi hỏi một cơ cấu tổ chức chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông cũng
như các chủ thể có quan hệ với công ty.
Thông qua các đặc điểm trên của CTCP có thể nói những vấn đề về vốn
có liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành, phát triển, hoạt động cũng như

quản trị CTCP, là một vấn đề quan trọng, không thể tách rời, cần phải được
nghiên cứu rõ ràng và cụ thể.

7


1.2. Khái lược về vốn trong công ty cổ phần
1.2.1. Tổng quan khái niệm về vốn
Vốn có vai trò cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ nhà đầu tư nào trên thế
giới khi ra thương trường. Để tiến hành hoạt động kinh doanh bất kỳ một chủ
thể kinh doanh nào cũng cần có vốn. Hoạt động kinh doanh nhìn từ góc độ tài
chính là quá trình tạo lập và sử dụng vốn. Một doanh nghiệp muốn bắt đầu tạo
lập hoặc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần sử dụng vốn. Để thực
hiện các hoạt động kinh doanh, vốn là nhân tố cơ bản, là điều kiện vật chất
không thể thiếu đối với một chủ thể kinh doanh. Vốn là điều kiện quyết định
sự sống còn của doanh nghiệp.
Hiện nay, vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều cách hiểu
khác nhau, sau đây là một số quan điểm:
Theo nghĩa rộng thì: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố
trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các
kiến thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về
trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán bộ
công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp. Quan điểm này
có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó
khăn phức tạp nhất là khi nước ta trình độ quản lý kinh tế còn chưa cao và
pháp luật chưa hoàn chỉnh.
Theo nghĩa hẹp thì: vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi
doanh nghiệp, mỗi quốc gia.
Một cách nhìn khác, vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào

lưu thông nhằm mục đích kiếm lời, tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ.
Theo quan điểm của Marx, nhìn nhận dưới giác độ các yếu tố sản xuất,
ông cho rằng: “Vốn chính là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một
đầu vào của quá trình sản xuất” [72].
8


Còn Paul Samuelson, một đại diện tiêu biểu của các học thuyết kinh tế
hiện đại cho rằng đất đai và hàng hóa là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn
và hàng hóa là kết quả của quá trình sản xuất. Vốn bao gồm các hàng hóa lâu
bền được sản xuất ra và được sử dụng như các đầu vào hữu ích cho quá trình
hoạt động sản xuất sau đó [72].
Theo Đại từ điển kinh tế Trung Quốc vốn là: “toàn bộ giá trị chiếm
dụng mà doanh nghiệp trả thù lao cho người lao động trong quá trình sản xuất
kinh doanh”. Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà Xuất bản Đà Nẵng thì:
“vốn là tổng thể nói chung những tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng
tiền dùng trong sản xuất, kinh doanh nói chung trong hoạt động sinh lời”.
Theo Luật Công ty của các nước trong khối Asean như: Thái Lan, Malaysia,
Philippin, Singapore thì vốn được coi là khoản tiền có thể đầu tư hoặc thực sự
được đầu tư vào công ty bằng việc bán cho các chủ đầu tư những cổ phần thể
hiện lợi ích, quyền sở hữu của họ trong công ty [23].
Theo luật sư Nguyễn Ngọc Bích (2009) thì “Dưới góc độ kinh tế, vốn
là một phương tiện kinh doanh; còn dưới góc độ pháp lý, vốn là số tiền để
đảm bảo cho công ty trả nợ.”
Tóm lại, vốn là toàn bộ giá trị mà doanh nghiệp đưa vào hoạt động sản
xuất kinh doanh để thu lợi nhuận.
Không có vốn thì không thể bắt đầu kinh doanh, do vậy, có thể nói vốn
như là nền móng trước khi các nhà đầu tư muốn xây nhà thì cần phải chú ý đến
vấn đề nền móng có vững chắc hay không. Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng để
có thể hiện thực hóa mong muốn xây nhà của các nhà đầu tư. CTCP là loại hình

công ty đối vốn chính vì vậy vấn đề về vốn lại càng trở nên phức tạp.
1.2.2. Vốn điều lệ trong công ty cổ phần
1.2.2.1. Khái niệm vốn điều lệ
Sự hình thành và phát triển của CTCP cũng gắn liền với sự hình thành
của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. “Công ty cổ phần là một loại hình
9


kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất
cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm
cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” [5, tr.18]. Cũng như các chủ thể
kinh doanh khác, để thực hiện các hoạt động kinh doanh CTCP cũng cần có
vốn, đó là điều bắt buộc. Vốn của CTCP là một vấn đề phức tạp, không chỉ
liên quan đến bản chất kinh tế, khả năng tài chính mà còn là yếu tố xác định
vị thế, năng lực cạnh tranh của CTCP trên thị trường cũng như hàng loạt các
vấn đề khác. Vốn điều lệ là số vốn do các cổ đông góp cam kết góp trong một
thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty.
Cụ thể, Vốn điều lệ trong CTCP là tổng mệnh giá số cổ phần đã bán
các loại. Tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp, vốn điều lệ là tổng giá trị mệnh
giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi trong Điều lệ công ty.
1.2.2.2. Đặc điểm của vốn điều lệ trong công ty cổ phần
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá
trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu.
Mỗi cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc
góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có
thể mua nhiều cổ phần. Căn cứ vào phạm vi số vốn góp (tỷ lệ phần trăm cổ
phần trong vốn điều lệ) công ty có thể xác định trách nhiệm về các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
là một đặc điểm quan trọng và khác biệt nhất để phân biệt mô hình CTCP so
với các mô hình công ty khác. Đối với các mô hình công ty khác vốn điều lệ

không được chia thành các phần bằng nhau.
- Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ trong
quá trình sản xuất kinh doanh, việc phát hành cổ phiếu phải tuân theo trình tự,
thủ tục theo luật định, đây là điểm thuận lợi của CTCP mà các mô hình công
ty khác không có. Trong quá trình kinh doanh, việc huy động thêm vốn để mở
rộng sản xuất hay để thực hiện chiến lược phát triển của công ty là không hề
10


dễ dàng, tuy nhiên, CTCP có thể thông qua hình thức phát hành cổ phiếu để
huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau nhằm tạo lập vốn cho quá trình sản
xuất. Như vậy, CTCP có thể chủ động, linh hoạt trong quá trình tạo lập vốn
phù hợp với nhu cầu, điều kiện của công ty.
- Vốn điều lệ hiện không có định mức tối thiểu, trừ một số ngành nghề
kinh doanh cần vốn pháp định thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp
định, đây cũng là xu hướng thay đổi của hệ thống pháp luật nhiều nước trên thế
giới hiện nay. Các quốc gia đã thực hiện xóa bỏ hoặc giảm yêu cầu về vốn tối
thiểu là Áo, Benin, Trung Quốc (Trung Quốc đã bãi bỏ yêu cầu về vốn tối thiểu
để thành lập doanh nghiệp, từ đó cũng lược bỏ thủ tục về xác nhận vốn tối thiểu
từ công ty kiểm toán, không yêu cầu lập tài khoản trước khi đăng ký, không yêu
cầu ký quỹ tại ngân hàng và các giấy tờ xác minh liên quan), Cộng hòa Céch,
Đan-mạch, Moldova, Ý, São Tomé and Príncipe (Nước Dân chủ Cộng hòa São
Tomé and Príncipe là quốc gia Châu Phi có nhiều những cải cách đáng kể quốc
gia này đã bãi bỏ quy định về vốn tối thiểu và giấy phép kinh doanh khi tiến
hành đăng ký thành lập doanh nghiệp), Senegal, Togo [31].
- Tài sản dùng để góp vốn điều lệ bao gồm: tiền Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ,
công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty.
- Tỷ lệ góp và số vốn do các nhà đầu tư tự quyết định lấy tùy theo năng
lực thực tế cũng như quy mô ngành nghề kinh doanh của công ty.

1.3. Những vấn đề chung về pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của
công ty cổ phần
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của công
ty cổ phần
1.3.1.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của công ty cổ phần
Việc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp là một quá trình phức tạp,

11


có thể nảy sinh nhiều quan hệ xã hội khác nhau đối với các chủ thể khác nhau
chính vì vậy cần có pháp luật để điều chỉnh. Sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp với tính chất là các thực thể kinh tế - xã hội là cơ sở thực tiễn cho sự ra
đời và phát triển của pháp luật về doanh nghiệp, trong hệ thống các văn bản
pháp luật về doanh nghiệp thì hệ thống pháp luật điều chỉnh về vốn là một
phần là một bộ phận không thể thiếu.
Xét về mặt khách quan, tất cả những quy phạm pháp luật liên quan đến
vốn điều lệ của CTCP đã hình thành chế độ pháp lý về vốn điều lệ trong
CTCP. Do đó khái quát khái niệm về pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ trong
CTCP như sau:
Pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ trong CTCP là hệ thống các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình góp vốn điều lệ, quản lý sử dụng vốn điều lệ,
chuyển nhượng vốn điều lệ và những vấn đề khác liên quan đến sự thay đổi
của vốn điều lệ trong CTCP.
1.3.1.2. Đặc điểm pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của công ty cổ phần
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể thấy quy chế pháp lý về vốn
trong CTCP có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quy chế pháp lý về vốn trong CTCP thể hiện ý chí của Nhà
nước trong việc điều chỉnh các hoạt động về hình thành, quản lý, sử dụng vốn

điều lệ trong CTCP, mang tính bắt buộc chung cho mọi chủ thể kinh doanh.
Trong nền kinh tế hội nhập và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, hoạt đông
kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng sôi động với quy mô, phạm vi
ngày càng lớn. Việc quan tâm trú trọng quản lý về vốn là vấn đề đặc biệt quan
trọng, nhất là quản lý vốn đối với mô hình CTCP là mô hình của hầu hết các
tập đoàn kinh doanh lớn, có sức ảnh hưởng đến nền kinh tế hiện nay, đặc biệt
là trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

12


XHCN. Các hoạt động về hình thành, quản lý, sử dụng vốn điều lệ bản chất là
một quá trình phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp trong nội bộ công ty và cả với
các bên thứ ba, do vậy, rất cần phải có những quy định mang tính quy phạm,
qua đó là cơ sở vừa để nhà nước quản lý chung, vừa để các doanh nghiệp có
căn cứ để thực hiện.
Thứ hai, nó quy định quyền và nghĩa vụ của công ty, của các cổ đông
của công ty đối với vốn và tài sản của công ty. Việc góp vốn thành lập công ty
thể hiện ý chí đồng thuận của các cổ đông với mong muốn tham gia nền kinh
tế và kinh doanh tạo ra lãi suất từ số vốn bỏ ra. Đi kèm với những lợi ích và
các quyền lợi, các cổ đông cũng phải có những nghĩa vụ đối với công ty cũng
như đối với các bên thứ ba mà công ty hợp tác kinh doanh. Do vậy, các quyền
và nghĩa vụ này phải được quy định cụ thể và làm rõ trong quy chế pháp lý về
vốn trong CTCP và điều này cũng là điều bắt buộc cần phải có đối với hệ
thống pháp luật điều chỉnh về vốn nhằm hạn chế tranh chấp xảy ra và nếu như
có tranh chấp cũng có cơ sở đầy đủ để giải quyết.
Thứ ba, nội dung chủ yếu của quy chế pháp lý về vốn trong CTCP
được thể hiện chủ yếu và cụ thể trong điều lệ công ty, bao gồm những nội
dung cơ bản như: cấu trúc vốn, chủ thể góp vốn, huy động vốn, vấn đề chuyển
nhượng cổ phần, các trường hợp tăng, giảm vốn của công ty… Hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao giờ cũng phải dùng đến vốn, quyền và
nghĩa vụ của các cổ đông cũng thể hiện qua tỷ lệ phần vốn góp của họ trong
công ty, do vậy, các vấn đề liên quan đến vốn cũng cần phải được các cổ đông
biết, thống nhất và thông qua, thể hiện ở điều lệ công ty.
1.3.2. Các bộ phận cấu thành của pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ
của công ty cổ phần
Pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của CTCP là một hệ thống được cấu
thành từ hệ thống các văn bản pháp luật thuộc nhiều cấp độ hiệu lực khác nhau,

13


có mối quan hệ, liên quan chặt chẽ với nhau theo một nguyên tắc pháp lý
chung, đó là chứa đựng các quy phạm pháp luật thuộc nhiều cấp độ hiệu lực
khác nhau điều chỉnh tất cả nội dung có liên quan đến vốn điều lệ của CTCP.
Các bộ phận cấu thành của pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của CTCP
bao gồm:
- Các quy định chung về vốn điều lệ trong CTCP;
- Các quy định về các loại cổ phần: tên gọi, đặc điểm của các loại cổ phần;
- Các quy định về vốn pháp định;
- Các quy định về tăng, giảm vốn điều lệ: trường hợp nào được phép
tăng, giảm vốn của CTCP; trình tự, thủ tục phải áp dụng để tăng, giảm vốn
điều lệ trong CTCP;
- Các quy định về việc xử phạt các vi phạm liên quan đến vốn điều lệ;
Hệ thống pháp luật điều chỉnh về vốn của CTCP được hình thành
cùng với quá trình hình thành hệ thống pháp luật để điều chỉnh các loại
hình doanh nghiệp, xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh các vấn đề phát sinh
liên quan đến vốn của nhà nước cũng như nhu cầu có cơ sở pháp lý để tiến
hành hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường mà hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng

phong phú, quy định chi tiết về tất cả các vấn đề có liên quan đến vốn điều
lệ của các loại hình công ty, trong đó có CTCP. Các quy định này có trong
các văn bản quy phạm pháp luật gồm các Luật, Nghị định, Thông tư có nội
dung điều chỉnh về vốn điều lệ trong CTCP, đồng thời có thể có trong các
hiệp định, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Các văn bản pháp luật có thể rất phong phú, đa dạng và được ban hành
vào các thời điểm khác nhau, nhưng đều có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo
nên một chỉnh thể hệ thống pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của CTCP mà nội
dung cụ thể sẽ được phân tích tại Chương 2 của luận văn.

14


1.3.3. Những yêu cầu cơ bản cần phải có đối với pháp luật điều chỉnh
vốn điều lệ của công ty cổ phần
Với vai trò là bệ đỡ để các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, bền vững
và hiệu quả, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân và đảm bảo lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, doanh nghiệp và người tiêu dùng, quản lý việc sử dụng vốn một cách
hiệu quả, minh bạch, pháp luật điều chỉnh vốn điều lệ của CTCP cần phải đáp
ứng những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, hệ thống pháp luật về vốn phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp
pháp, đồng bộ, đảm bảo việc bình đẳng, minh bạch, công bằng.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật về vốn điều lệ trong CTCP trước tiên
phải bảo đảm tuân thủ tính tối cao của Hiến pháp và được ban hành theo đúng
các quy định của pháp luật, tiếp theo nữa là việc đảm bảo sự thống nhất và
đồng bộ. Trong cùng một phạm vi điều chỉnh, các văn bản pháp luật thường
không tồn tại biệt lập mà luôn có mối quan hệ với nhau, do vậy, khi đã tạo
thành một hệ thống pháp luật thì nội dung của các văn bản quy phạm pháp
luật tạo nên hệ thống đó cần phải có sự đồng bộ và thống nhất với nhau. Một

hệ thống pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn sẽ gây ra rất nhiều khó khăn vướng
mắc trong quá trình triển khai thực hiện do vậy rất khó để đi vào cuộc sống.
Việc minh bạch rõ ràng trong văn bản cũng rất quan trọng. Các quy định hệ
thống pháp luật pháp luật phải đảm bảo tính rõ ràng, rành mạch, dễ hiểu, đồng
thời phải được công khai cho để cộng đồng doanh nghiệp cùng biết và nắm
bắt được các quyền và nghĩa vụ của mình qua đó có cơ sở để tuân thủ nghiêm
túc và thực hiện theo các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay, cần phải tạo được
một môi trường kinh doanh bình đẳng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
và bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước và hệ thống pháp luật

15


chính là nơi thể hiện sự bình đẳng đó. Phải có pháp luật bình đẳng thì mới thu
hút được vốn của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước qua đó thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, cạnh tranh lành mạnh, có trật tự, kỷ cương, không phân biệt
đối xử giữa các ngành, nghề kinh doanh nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, kinh doanh.
Hai là, hệ thống pháp luật về vốn phải tạo ra cơ sở pháp lý phù hợp,
khả thi và có tính dự báo.
Đây là một yêu cầu vô cùng quan trọng và là yếu tố tiên quyết quyết
định sự thành công của hệ thống pháp luật quy định về một vấn đề nào đó, ở
đây là vốn điều lệ của CTCP. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng hiện
thực khách quan, không thấp hơn và cũng không cao hơn trình độ phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, tức là những quy định này phải phù hợp
với sự phát triển của CTCP hiện nay, đồng thời phù hợp với ý chí, nguyện
vọng của nhà đầu tư, các chủ thể kinh doanh cũng như của nhà nước, có như
vậy, hệ thống pháp luật này mới thể hiện được vai trò quản lý của mình, được
ủng hộ và tự nguyện thực hiện. Bên cạnh sự phù hợp, hệ thống văn bản phải

có tính khả thi, tức là khi có quy định thì có thể thực hiện được, các quy định
không xa rời thực tiễn. Văn bản được ban hành không phải với mục đích lý
thuyết mà nhằm mục tiêu quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tạo lập và sử dụng vốn điều lệ trong CTCP. Đồng thời, hệ
thống văn bản này cũng cần được nghiên cứu để phù hợp với đặc thù kinh tế xã hội của đất nước, như hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các quy định của hệ thống pháp luật
cũng cần phải thể hiện nhất quán tư tưởng này. Ngoài ra hệ thống pháp luật
cũng phải có tính dự báo. Tính dự báo thể hiện ở chỗ hệ thống pháp luật về
vốn điều lệ trong CTCP không chỉ có khả năng giải quyết được những vấn đề
đang đặt ra đối với việc quản lý vốn hiện tại mà còn có khả năng giải quyết

16


được những vấn đề trong tương lai gần. Vì nền kinh tế luôn biến động và phát
triển không ngừng, do đó nếu hệ thống pháp luật không có tính dự báo thì sẽ
bị lạc hậu ngay sau khi ban hành và điều đó làm cho việc quản lý của nhà
nước trở nên khó khăn hoặc không có khả năng thực hiện được. Việc đảm bảo
tính dự báo của hệ thống pháp luật sẽ đảm bảo các quy định của pháp luật về
vốn điều lệ sẽ tồn tại trong một khoảng thời gian dài và tính ổn định. Sự ổn
định này sẽ đảm bảo sự ổn định trong việc điều chỉnh các quan hệ trong quá
trình tạo lập và sử dụng vốn điều đó tạo nên sự ổn định và phát triển của việc
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, các nhà làm luật ở Việt
Nam đã cố gắng hiện thực hóa những yêu cầu trên trong thời gian qua thông
qua hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chất lượng của hệ
thống pháp luật được thể hiện khá rõ qua khả năng thực hiện được văn bản
trong thực tiễn, việc xây dựng cũng được quan tâm đầu tư ngay từ đầu để đảm
bảo có khả năng giải quyết được các vấn đề phát sinh, đồng thời tiên liệu
được những v ấn đề sẽ phát sinh trong tương lai. Điều đó đã tăng “tuổi thọ”
của văn quy phạm pháp luật nên làm cho hệ thống pháp luật điều chỉnh về

vốn trong CTCP có tính ổn định và phù hợp, đồng thời mang tính khả thi
cũng như tính dự báo cao để các doanh nghiệp thực hiện, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp đồng thời cũng quy định cụ thể những việc
các doanh nghiệp không được làm và nghĩa vụ, trách nhiệm mà các doanh
nghiệp phải tuân thủ.
Ba là, hệ thống pháp luật cần có quy định ngăn ngừa, phòng chống rủi
ro và quy định các hình thức biện pháp xử phạt.
Yêu cầu này xuất phát từ nhu cầu quản lý của nhà nước, cần phải có
quy định ngăn ngừa hạn chế những vi phạm từ đầu qua đó làm cho các nhà
đầu tư chùn bước khi có ý định gian dối trong quá trình tạo lập và sử dụng
vốn cũng như làm cho nhà nước có cơ sở để xử phạt nếu vi phạm xảy ra. Hiện

17


nay, các quy định về ngăn ngừa, phòng chống rủi ro cũng như các biện pháp
xử phạt đã được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Về cơ bản, hầu hết các nước đều có pháp luật về doanh nghiệp, thành
lập doanh nghiệp trong đó có pháp luật về vốn và vốn điều lệ trong CTCP.
Tuy nhiên, do có sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa pháp
lý, về ngôn ngữ… nên yêu cầu cơ bản cần phải có đối với pháp luật điều
chỉnh vốn điều lệ cũng khác nhau và có những điểm khác biệt nhất định, như:
có nước có tính ổn định cao - có nước thường xuyên thay đổi; có nước quy
định chung ở một luật - có nước lại quy định riêng ở nhiều luật tương ứng với
mỗi loại hình doanh nghiệp; có nước quy định về thành lập doanh nghiệp ở
luật - có nước lại quy định cả những văn bản dưới luật; đặc biệt là ở một số
nước liên bang, pháp luật về thành lập doanh nghiệp được quy định tại luật
liên bang, sau đó tại các tiểu bang lại có những quy định riêng. Tuy nhiên, về
cơ bản, hệ thống pháp luật về vốn đặc biệt là vốn điều lệ trong CTCP ở các
nước hiện nay cũng đều được xây dựng dựa theo những yêu cầu trên nhằm

làm cơ sở cho việc quản lý hiệu quả vốn và vốn điều lệ trong CTCP.

18


×