Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu nghành kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.98 KB, 41 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau đổi mới đến nay, kinh tế Việt Nam đã thay da đổi thịt và đang có
nhiều khởi sắc trên con đường tiến lên xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, hòa mình
vào sự phát triển rạng rỡ của văn minh thế giới. Trải qua rất nhiều thăng trầm
của thời kỳ xây dựng đất nước sau chiến tranh, Việt Nam đã lựa chọn mô hình
phát triển toàn diện với mục tiêu trở thành một “con hổ của kinh tế châu Á”
trong tương lai.Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem
như tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai
đoạn phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác
nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế,
cơ cấu khu vực thể chế,… Trong đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất vì nó phản
ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành là một nội dung quan
trọng của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, vừa
là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định,
vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội của một
quốc gia, một tỉnh lên một trình độ mới. Trong từng giai đoạn 5-10 năm để phục
vụ cho chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và kế hoạch 5 năm của quốc gia, cơ
cấu ngành kinh tế và sự chuyển dịch của nó cần được xem xét một cách tổng
quát để rút ra các ưu nhược điêm, phát hiện các điểm mạnh, xu hướng chuyển
dịch và các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhanh hơn. Để
đi theo chiến lược mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế có hiệu quả, vấn đề chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở trong nước có ý nghĩa rất lớn. Bởi, sản xuất trong
nước cần phải được dịch chuyển sao cho vừa khai thác được những tiềm năng,
lợi thế của đất nước, vừa sản xuất được những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị


trường thế giới. Trong bối cảnh chung là phân công lao động quốc tế ngày một
sâu sắc, sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu cũng vô cùng gay gắt, lại muốn
phát triển được sản xuất của đất nước theo một chiến lược chung, việc lựa chọn
cơ cấu kinh tế hợp lý, đem lại hiệu quả cao là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, ngày
nay các nước thực hiện công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu đi sau không thể
sử dụng nguyên mẫu của các mô hình sẵn có bởi dưới tác động của những nhân
tố mới, những lợi thế so sánh truyền thống không còn được đánh giá cao như
2


trước đây, nên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đi sau cũng cần
phải được nhận thức lại nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hiện đại, cân đối, năng
động và tăng trưởng nhanh một cách bền vững hơn.
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong phát
triển kinh tế nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010”. Dưới đây là những kiến thức em tích lũy
được sau quá trình nghiên cứu môn học cùng với sự tham khảo tài liệu và sự
hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn. Bài viết có thể còn nhiều
thiếu sót nên em rất mong nhận được những góp ý quý báu của thày cô để bài
viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3


Chương 1:
Lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành trong phát triển
kinh tế
I. Các vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1. Cơ cấu ngành kinh tế

1.1. Khái niệm
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có
quan hệ, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế thường gồm 3 phương diện hợp thành. Đó là cơ cấu ngành kinh
tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ, trong đó cơ cấu ngành
kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất.
Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế,
thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng
giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những
mục tiêu cụ thể.
1.2. Nội dung:
Cơ cấu ngành kinh tế bao gồm những nội dung sau:
Trước hết đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành . Số lượng ngành
kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công
lao động xã hội. Căn cứ vào đó các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực
hay 3 ngành gồm: Khu vực I bao gồm các ngành nông-lâm-ngư nghiệp ; Khu
vực II bao gồm ngành công nghiệp và xây dựng ; Khu vực III gồm các ngành
dịch vụ.
Thứ đến cơ cấu ngành thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành
vói nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số
lượng thể hiện ở tỷ trọng ( tính theo GDP, lao động, vốn…) của mỗi ngành trong
tổng thể nền kinh tế. Còn mặt chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của

4


từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Mối
quan hệ của các ngành cả số và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày
càng trở nên phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân

công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
2.1. Khái niệm
Quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác
ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp với môi trường, điều kiện phát triển gọi là
sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao
gồm cả sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành và vị trí, mối
quan hệ giữa những ngành đó với nhau. Nội dung củ sự chuyển dịch là cải tạo
cơ cấu cũ, lạc hậu thành cơ cấu mới tiên tiến, hiện đại và phù hợp hơn.
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc của các bộ phận
hợp thành nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng có hướng đích, mục tiêu”. Từ
khái niệm cho chúng ta thấy rằng, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả
cũng chính là quá trình thay đổi cấu trúc của các ngành nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ trong GDP
2.2 Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành:
Ở trong nước đó là:
(1) Các lợi thế về điều kiện tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát
triển ngành sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình
độ nguồn nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước.
(2) Tiếp đến, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ
sở để sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu cả về số lượng và chất lượng hàng
hóa, từ đó dẫn đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các ngành nghề trong
nền kinh tế.
(3) Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia
có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ cấu
5


kinh tế mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác động, chi
phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tác động gián tiếp lên

tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các định hướng phát triển, đầu tư, những
chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển các ngành nghề nhằm bảo đảm
sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra trong từng giai đoạn nhất định.
(4) Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho
phép sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức nào...
Bên cạnh những nhân tố tác động từ bên trong, những nhân tố tác
động từ bên ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm có:
(1) Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến
động của chính trị, kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là các
nước lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh hưởng đến
nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ... buộc các quốc gia phải điều
chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của mình nhằm bảo đảm lợi
ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung của thị trường thế giới.
(2) Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ
đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công lao
động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị trường rộng
lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, cho phép các nước
có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao đổi các nguồn lực, vốn,
kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả...
(3) Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng
nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực sản
xuất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước .
Dưới tác động tổng hợp của các nhân tố trên, các ngành kinh tế ( bao gồm
3 ngành chính: nông, lâm nghiệp, thủy sản - còn gọi là nông nghiệp; công
nghiệp, xây dựng - còn gọi là công nghiệp; và dịch vụ) phát triển một cách
không đồng đều, tạo nên những tỷ lệ khác nhau trong cơ cấu ngành kinh tế của
các nước.
6



2.3. Ý nghĩa nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình
phát triển
Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì chuyển dịch cơ cấu
theo ngành được xem là quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa
học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội…Trạng thái cơ
cấu ngành biểu hiện trình độ phát triển của một quốc gia. Quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh
tế. Ngược lại tính bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả
năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp.
Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì
việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế
tương đối và khả năng cạnh tranh quốc gia, là cơ sở cho sự chủ động tham gia
và thực hiện hội nhập thắng lợi.
II. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong phát triển kinh tế
1. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành:
(1) Do yêu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, trên cơ sở thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành
tựu khoa học hiện đại.
Cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức
là cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.
Phải hiện đại hóa các ngành để nâng cao năng suất cũng như chất lượng
sản phẩm, hàng hóa. Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa, tự động hóa từng
bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sự nghiệp CNH-HĐH đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các
ngành công nghiệp (vì đây là ngành tạo ra tư liệu sản xuất). Là đòn neo để cải
tạo phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế nông-lâm- ngư nghiệp.
Sử dụng kỹ thuật công nghệ cao sẽ làm tăng năng suất lao động xã hội,
tăng sức cạnh tranh hàng hóa, nền kinh tế thị trường phát triển. ngành dịch vụ

phải được quan tâm chú trọng đặc biệt.

7


Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, của nền kinh tế từ đó tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế ở thế chủ động.
(2) Do yêu cầu phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa
Quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế ( CN-NN-DV ) đặc
biệt là những ngành có hàm lượng khoa học cao, sự xuất hiện của các vùng sản
xuất chuyên canh không tập trung không chỉ là biểu hiện của sự phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật trong quá trình CNH-HĐH mà
còn làm cơ cấu kinh tế thay đổi hợp lý.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay đòi hỏi các
ngành kinh tế trọng yếu CN-NN-DV cần có phương hướng chuyển dịch cơ cấu
hợp lý và hiện đại thông qua áp dụng khoa học-kỹ thuật-công nghệ tiên tiến. Sự
phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp sẽ tạo ra tư liệu sản xuất cho ngành nông
nghiệp để ngành nông nghiệp ngày càng sản xuất được nhiều sản phẩm chất
lượng tốt và lực lượng tập trung trong ngành này giảm đi. Mạng lưới dịch vụ với
tư cách một ngành kinh tế phát triển có thể phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của
ngành nông nghiệp và công nghiệp.
(3) Do yêu cầu tất yếu của việc nâng cao sức cạnh tranh chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Mở cửa nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta.
Trong việc mở cửa phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên
trọng điểm, giảm thiểu tư liệu sản xuất cũng như hàng hóa nhập khẩu. Mở rộng
quan hệ quốc tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế,
giúp có sự hỗ trợ về vốn, trao đổi khoa học công nghệ và trau dồi thêm nguồn
nhân lực…

2. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
(1) Giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ

8


Xu hướng có tính quy luật chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
ngành là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Muốn
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải
qua các bước: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công - nông nghiệp để
từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nội dung cụ thể của xu
hướng này thể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi trong khi đó tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng kể cả GDP và lao động. Hiện nay
tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ, Nhật chỉ còn
khoảng 1 – 2 % , ở Đức, Canada là 4 – 5 % . Tại các nước NICs, con số này chỉ
còn từ 9 – 15 % .
(3) Tốc độ tăng của ngành dịch vụ có xu hướng cao hơn tốc độ tăng của
ngành công nghiệp
Một xu hướng khác cho thấy khi nền kinh tế bước sang những giai đoạn
phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ ngày càng cao hơn so với tốc
độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công nghiệp tỷ trọng các ngành
sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng chiếm ưu thế, tỷ trọng các
ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần. Đối với
ngành dịch vụ, các ngành dịch vụ có chất lượng cao như: tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, giáo dục, y tế, du lịch sẽ có tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao.
Ở các quốc gia thu nhập cao thì tỷ trọng của ngành dịch vụ chiếm trong GDP lên
đến 71%, trong đó Mỹ là 75%, Nhật 68%, Úc 71%... tỷ trọng này ở các nước thu
nhập thấp chỉ đạt khoảng 50%.
(3) Tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày
càng lớn và gia tăng với tốc độ nhanh, giảm dần tỷ trọng các ngành sử dụng

nhiều lao động
Nhìn chung nền kinh tế đang tăng trưởng theo chiều rộng trên cơ sở gia
tăng đầu vào và phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động phổ
thông trong khi năng suất, cải tiến kỹ thuật và tiến bộ khoa học công nghệ áp
dụng trong ngành hầu như không đáng kể. Các ngành công nghiệp sử dụng vốn
nhiều như công nghiệp khai thác tài nguyên, cơ khí vẫn chủ yếu sử dụng công

9


nghệ thô sơ, lạc hậu, được đánh giá là trình độ công nghệ thấp và trung bình.
Đây chính là bước đầu tạo tiền đề về nguồn lực và vốn đầu tư cho giai đoạn tiếp
theo, tập trung phát triển theo chiều sâu.
(4) Xu thế mở của cơ cấu kinh tế.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ nhà nước nào cũng đều quan tâm xác định
cho nền kinh tế của nước mình phát triển theo hướng có lợi nhất và phấn đấu đạt
được cơ cấu kinh tế đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, và qua những thực tiễn, hầu
hết các nước hiện nay đều lựa chọn mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nước mình theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm phát huy mọi lợi thế của đất
nước, tham gia được vào sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới, tận
dụng mọi cơ hội đem lại của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày
càng sâu rộng.
3. Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
3.1. Các dạng cơ cấu ngành trong các giai đoạn phát triển của Rostow
Nhà lịch sử kinh tế nổi tiếng của Mỹ Walter W. Rostow đã đưa ra trong
cuốn “ Các giai đoạn phát triển kinh tế” một mô hình nổi tiếng về những bước
khởi đầu quá trình phát triển kinh tế hiện đại ở 6 lục địa – mô hình Rostow.
Theo mô hình này, quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia làm 5
giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu kinh tế theo ngành đặc
trưng thể hiện bản chất của giai đoạn ấy. Cụ thể từng giai đoạn được phân tích

như sau:
Giai đoạn xã hội truyền thống:
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là: ngành nông nghiệp giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm quốc gia. Ở thời
kỳ này năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật kém, nền kinh tế
còn đơn điệu. Cơ cấu ngành nông nghiệp thuần túy.
Giai đoạn “ chuẩn bị cất cánh ’’:

10


Được coi là thời kỳ quá độ giữa thời kỳ truyền thống với cất cánh. Giai đoạn
này chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho cất cánh như: phát triển các ngành
phi nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, ngoại thương… Đặc trưng cơ bản của
giai đoạn này là: tồn tại song song cả khu vực kinh tế truyền thống và khu vực
kinh tế hiện đại. Chú trọng phát triển công nghiệp và mở rộng xuất khẩu. Bắt
đầu xuất hiện tầng lớp chủ các doanh nghiệp. Cơ cấu ngành của giai đoạn này là
cơ cấu nông - công nghiệp.
Tỷ trọng các ngành trong 2 giai đoạn đầu là:
NN : 40 – 60 %
CN : 10 – 20 %
DV : 10 – 30 %
Giai đoạn cất cánh:
Đây là giai đoạn trung tâm trong sự phân tích các giai đoạn phát triển của
Rostow. Nền kinh tế xuất hiện các ngành mũi nhọn có tác động thúc đẩy tăng
trưởng nền kinh tế thông qua tác động dây chuyền làm các ngành khác phát triển
theo. Tầng lớp chủ doanh nghiệp có khả năng thay đổi phương pháp sản xuất và
ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất. Cơ sở hạ tầng phát triển nhanh. Tỷ lệ
đầu tư trong giai đoạn này ở mức ít nhất chiếm 10% GDP. Cơ cấu ngành kinh tế
đã chuyển thành công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Theo Rostow giai đoạn

này kéo dài khoảng 20-30 năm.
Giai đoạn cất cánh được Rostow xem là giai đoạn then chốt nhất. Để chuyển
qua giai đoạn này cần phải trải qua giai đoạn chuẩn bị cất cánh với những điều
kiện tiên quyết như sau:
+ Tỷ lệ đầu tư trong tổng sản phẩm quốc gia trên 20%
+ Phải có ngành công nghiệp mũi nhọn tạo động lực dây chuyền cho các
ngành công nghiệp khác cùng phát triển.
+ Phải có một thể chế chính trị-xã hội đủ mạnh và phù hợp để thúc đẩy
phát triển khu vực kinh tế hiện đại, mở rộng kinh tế đối ngoại và huy động mạnh
mẽ các nguồn vốn trong nước.
Giai đoạn “trưởng thành’’:

11


Trong giai đoạn này các ngành công nghiệp nặng hiện đại bắt đầu chiếm
ưu thế ( điện, hóa chất, luyện kim…). Tỷ lệ đầu tư lên tới 20%. Nhu cầu xuất
nhập khẩu tăng mạnh. Sự phát triển thị trường trong nước hòa nhập vào thị
trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế - xã hội có sự thay đổi theo hướng phát triển toàn
diện, đời sống vất chất tinh thần của người dân được nâng cao. Các chủ doanh
nghiệp tham gia vào quản lý nhà nước và phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế của
giai đoạn này là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Theo Rostow giai đoạn
này kéo dài khoảng 60 năm.
Tỷ trọng các ngành trong 2 giai đoạn tiếp theo này là:
NN : 15 – 25 %
CN : 25 – 35 %
DV : 40 – 50 %
Giai đoạn “tiêu dùng cao’’:
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển khi mà đại đa số dân
chúng thỏa mãn những nhu cầu cần thiết. Đặc trưng của giai đoạn này thể hiện

trên 3 khía cạnh sau:
(1) Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh dẫn đến gia tăng nhu cầu
tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cao cấp.
(2) Cơ cấu lao động thay đổi, tăng tỷ lệ dân số đô thị và lao động có trình
độ chuyên môn cao.
(3) Các chính sách kinh tế hướng vào nâng cao phúc lợi xã hội.
Theo Rostow đây là giai đoạn kéo dài nhất, ngay cả nước Mỹ cũng mất
đến 100 năm để chuyển từ giai đoạn trưởng thành sang giai đoạn này. Cơ cấu
ngành kinh tế của giai đoạn này là cơ cấu công nghiệp và dịch vụ.
Tỷ trọng các ngành trong giai đoạn tiêu dùng cao là :
NN : <10 %
CN : 35 – 40 %
DV : 50 – 60 %
3.2. Lý thuyết nhị nguyên ( Mô hình hai khu vực của Lewis)

12


Lý thuyết này do A. Lewis chủ xướng. Lý thuyết này cho rằng ở các nền
kinh tế có hai khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực truyền thống, chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp và có đặc trưng là rất trì trệ, năng suất lao động rất
thấp (năng suất lao động biên tế xem như bằng không) và lao động dư thừa;
khu vực công nghiệp hiện đại có đặc trưng năng suất lao động cao và có khả
năng tự tích lũy. Do lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động
thặng dư từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp không gây ảnh
hưởng gì đến sản lượng nông nghiệp. Do có năng suất lao động cao và tiền
công cao hơn nên khu vực công nghiệp thu hút lao động dư thừa từ khu vực
nông nghiệp chuyển sang, và do lao động trong khu vực nông nghiệp quá dư
thừa và tiền công thấp hơn nên các ông chủ công nghiệp có thể thuê mướn
nhiều nhân công mà không phải tăng thêm tiền công, lợi nhuận của các ông

chủ ngành càng tăng; giả định rằng toàn bộ lợi nhuận sẽ được đem tái đầu tư
thì nguồn tích lũy để mở rộng sản xuất trong khu vực công nghiệp ngày càng
tăng lên.
Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là để thúc đẩy sự
phát triển, các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công nghiệp
hiện đại bằng mọi giá mà không quan tâm đến khu vực truyền thống. Sự tăng
trưởng của khu vực công nghiệp tự nó sẽ thu hút hút hết lượng lao động dư
thừa trong nông nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên, nền kinh tế sẽ
chuyển sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
3.3. Mô hình 2 khu vực của Harry Oshima:
Dựa trên nghiên cứu của 2 mô hình 2 khu vực của Athus Lewis và của
trường phái Tân cổ điển và đặc điểm riêng của các nước châu Á gió mùa (nền
nông nghiệp mang tính chất thời vụ cao nên lao động thất nghiệp cũng có tính
chất thời vụ); Harry Oshima đã quan tâm đến việc đầu tư phát triển nền kinh tế
theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: tạo việc làm trong thời gian
nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp, phù hợp với khả
năng vốn, trình độ kỹ thuật của nông thôn giai đoạn đầu. Cụ thể là đa dạng hoá
sản xuất nông nghiệp, xen canh, tăng vụ, mở rộng chăn nuôi, trồng cây lâm

13


nghiệp. Đồng thời để nâng cao năng suất lao động cần đầu tư xây dựng hệ thống
kênh mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng
hoá, hệ thống giáo dục và điện khí hoá nông thôn. Kết thúc khi nông nghiệp có
quy mô lớn.
Giai đoạn 2: Hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển
đồng thời cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ theo chiều rộng. Bên cạnh
việc tiếp tục phát triển đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, cần phát triển những

ngành công nghiệp, dịch vụ cần nhiều lao động và các ngành thu hút nhiều lao
động. Nhờ đó vừa giải quyết lao động dư thừa vừa mở rộng thị trường cho
ngành công nghiệp. Kết thúc khi tăng trưởng việc làm nhanh hơn tăng trưởng
lao động, tiền lương thực tế tăng.
Giai đoạn 3: Thực hiện phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm
giảm cầu lao động. Công nghiệp trong nước bắt đầu vươn ra nước ngoài, dịch vụ
phát triển phục vụ công nông nghiệp tăng mạnh làm thiếu lao động. Đẩy mạnh
đầu tư đưa khoa học công nghệ vào nhằm thay thế lực lượng lao động đang dần
trở nên thiếu hụt. Các ngành sử dụng ít lao động đang dần thay thế các ngành sử
dụng nhiều lao động trong cơ cấu kinh tế.
Mô hình của Oshima là mô hình tiến bộ nhất và cũng gần gũi nhất với
điều kiện Việt Nam. Bởi vậy những kết luận mô hình đưa ra rất đáng lưu tâm.
Theo đó, cơ cấu đầu tư biểu hiện những ưu tiên của nền kinh tế trong từng giai
đoạn. Chính nó quyết định cơ cấu kinh tế. Do đó kiến nghị mà Oshima đưa ra là
sử dụng sự thay đổi từng bước trong cơ cấu đầu tư để mang lại chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
3.4. Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu (của Moise Syrquin):
Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy quá trình phát triển
kinh tế cũng đồng nghĩa với quá trình chuyểh dịch cơ cấu kinh tế, từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên một nền kinh tế công nghiệp hóa và dần
chuyển sang một nền kinh tế mà trong đó dịch vụ đóng vai trò quan trọng nhất
hay còn gọi là một nền kinh tế đã phát triển. Có thể tóm tắt lý thuyết chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của M. Syrquin gồm ba giai đoạn: (1) sản xuất nông
nghiệp, (2) công nghiệp hóa, và (3) nền kinh tế phát triển.
Giai đoạn 1: có đặc trưng chính là sự thống trị của các hoạt động của khu

vực khai thác, đặc biệt là nông nghiệp, như là nguồn lực chính trong việc gia
14



tăng sản lượng của các hàng hóa khả thương (tradables). Mặc dù khu vực khai
thác thông thường có tốc độ tăng trưởng chậm hơn khu vực chế biến nhưng ở
mức thu nhập bình quân đầu người thấp, thì sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng
đó được bù trừ hoàn toàn bởi nhu cầu hạn chế về các mặt hàng công nghiệp
chế biến. Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng kinh tế chung khá chậm mà
một trong những nguyên nhân chính là do tỷ trọng tương đối cao của khu vực
nông nghiệp trong tổng giá trị gia tăng (hay GDP).
Nếu xét ở mặt cung, thì trong giai đoạn 1 có những đặc trưng chính là tỷ
lệ tích lũy tư bản còn khiêm tốn nên tỷ lệ đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng cao
của lực lượng lao động, và tốc độ tăng trưởng tổng năng suất nhân tố (TFP) rất
thấp, và nhân tố sau cùng này tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
chung hơn là yếu tố tỷ lệ đầu tư thấp.
Giai đoạn 2 hay là giai đoạn công nghiệp hóa: có đặc điểm nổi bật là tầm

quan trọng trong nền kinh tế đã được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực chế biến và chỉ tiêu chính để đo lường sự dịch chuyển này là tầm quan
trọng của khu vực chế biến trong đóng góp và tăng trưởng kinh tế chung ngày
càng tăng lên. Sự dịch chuyển này xuất hiện ở các nước có mức thu nhập bình
quân đầu người cao hơn hay thấp hơn, phụ thuộc vào yếu tố nguồn tài nguyên
sẵn có cũng như chính sách ngoại thương của các nước đó.
Xét ở mặt cung, sự đóng góp vào tăng trưởng của nhân tố tích lũy tư bản
vẫn được giữ ở mức cao trong hầu hết giai đoạn 2 do có sự gia tăng mạnh của
tỷ lệ đầu tư.
Giai đoạn 3: là giai đoạn của một nền kinh tế phát triển. Sự chuyển tiếp từ

giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 có thể được hiểu theo nhiều cách. Nếu xét về mặt
cầu, thì trong giai đoạn này độ co giãn theo thu nhập của hàng công nghiệp chế
biến đã giảm đi; và ở một thời điểm nào đó, tỷ trọng của khu vực công nghiệp
trong cơ cấu nhu cầu nội địa bắt đầu giảm xuống. Mặc dù xu hướng này có thể
bị lấn át ở một giai đoạn nào đó bởi xuất khẩu vẫn tiếp tục gia tăng ở mức cao,

nhưng cuối cùng nó đều được phản ảnh qua việc giảm sút tỷ trọng của khu vực
công nghiệp trong cơ cấu GDP hay trong cơ cấu lực lượng lao động. Khu vực
dịch vụ trở thành khu vực quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ

15


cấu GDP cũng như cơ cấu lao động. Sự thay đổi này xuất hiện rất rõ ràng ở tất
cả các nước công nghiệp phát triển trong suốt 20 năm qua.
Ở mặt cung, sự khác biệt chủ yếu giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 là sự
suy giảm trong đóng góp vào tăng trưởng của cả hai nhân tố sản xuất tư bản và
lao động theo cách tính qui ước. Ðóng góp vào tăng trưởng của nhân tố tư bản
(vốn) giảm xuống bởi cả hai yếu tố tốc độ tăng trưởng chậm hơn và tỷ trọng
ngày càng thấp hơn. Hơn nữa, vì có sự suy giảm trong tốc độ gia tăng dân số,
chỉ có một vài nước phát triển là có sự gia tăng đáng kể trong lực lượng lao
động. Như vậy, trong giai đoạn này, nhân tố đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng
là nhân tố tổng năng suất nhân tố (Total Factor Productivity - TFP).
Ở những nước phát triển hơn, tăng trưởng TFP có tác động lan tỏa đến
toàn nền kinh tế rộng lớn hơn so với trong giai đoạn 2. Thay đổi dễ nhận thấy
nhất là trong khu vực nông nghiệp, mà đã từ khu vực có tăng trưởng năng suất
thấp trở thành khu vực có năng suất lao động cao nhất trong hầu hết các nền
kinh tế phát triển (đơn cử một ví dụ là ở Mỹ, dân số lao động trong nông
nghiệp chỉ chiếm 1% tổng dân số lao động nhưng có thể cung cấp đủ lượng
thực cho cả nước). Nguyên nhân nội tại là do sự tiếp tục dịch chuyển của lao
động từ nông nghiệp sang các khu vực khác và chênh lệch về tiền lương giữa
khu vực nông nghiệp và các khu vực khác ngày càng được thu hẹp lại, mà đã
thúc đẩy sự thay thế của tư bản cho lao động cũng như đẩy mạnh những cải
tiến về công nghệ.
Có thế nói rằng, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của M. Syrquin là một bức
tranh tổng thể khá chính xác về sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên

thế giới thời kỳ hiện đại. Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới thời gian qua đã
cho thấy rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới đã và đang chuyển
qua bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ
Giai đoạn 2: Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ
Giai đoạn 3: Công nghiệp – Dịch vụ – Nông nghiệp
Giai đoạn 4: Dịch vụ – Công nghiệp – Nông nghiệp

16


Như thế, tầm quan trọng của khu vực dịch vụ tại bất cứ quốc gia nào trên
thế giới cũng tuỳ thuộc phần lớn vào giai đoạn phát triển đương thời.

17


Chương 2:
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ
2001– 2010
I. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ 2001 – 2010
1. Chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành
Cơ cấu lao động là tiêu chí phản ánh rõ chất lượng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Trong giai đoạn 2001- 2010 cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo
hướng tích cực: Tăng lao động ở khu vực công nghiệp - xây dựng (17,4%) và
khu vực thương mại - dịch vụ (24,7 %), giảm lao động ở khu vực nông nghiệp
(57,9%).
- Xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến
đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và công nghiệp
- xây dựng.

Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001-2005 (%)

2000
2001
2002
2003
2004
2005
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00

GDP
Nông - lâm – thủy
sản
24,53 23,24 23,03 22,54
Công nghiệp – xây
dựng
36,73 38,13 38,49 39,47
Công nghiệp chế
biến
18,56 19,78 20,58 20,45
Dịch vụ
38,73 38,63 38,48 37,99
Bảng 1 : Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế 2001-2005

18

21,81

20,70


40,21

40,80

20,34
37,98

20,70
38,50


Biểu đồ 1 : Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
2006-2010
(Đơn vị tính: %)
Từ năm 2000 đến năm 2005 tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản giảm
3,8 điểm phần trăm, còn tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 3,7 điểm
phần trăm. Xét chung trong giai đoạn 2001-2005, sự chuyển dịch cơ cấu giữa 3 khu
vực không mạnh như trong giai đoạn 5 năm 1996-2000. Mục tiêu đặt ra cho khu
vực dịch vụ đến năm 2005 chiếm tỷ trọng khoảng 41-42% GDP đã không đạt
được, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Cơ cấu
kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp và
dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và
xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,56% trong năm 2006; khu vực dịch vụ
tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ

19


21,02% xuống còn 20,36%. Tuy rằng mức độ đóng góp của 3 ngành này đều
giảm so với năm 2005.

Bước vào năm 2007 chúng ta có thuận lợi cơ bản là sau hơn 20 năm đổi
mới thế và lực của nền kinh tế nước ta cũng như những kinh nghiệm tổ chức,
quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều đã
được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn
và rộng hơn vào kinh tế thế giới.
Riêng năm 2008 có xu hướng tăng tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và
thủy sản, đây chỉ là xu hướng tạm thời phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam lúc
đó (khủng hoảng tài chính làm ảnh hưởng đến ngành công nghiệp và dịch vụ,
trong khi đó nông nghiệp lại được mùa sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn
so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây).
Năm 2009, cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo xu hướng tăng khu vực
công nghiệp - xây dựng ( từ 39,73% năm 2008 lên 40,24% ) và dịch vụ (từ
38,17% năm 2008 lên 38,85% năm 2009), giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm và
thủy sản ( từ 22,1% năm 2008 còn 20,91% ). Xu hướng chuyển dịch này vẫn chưa
rõ rệt. Nguyên nhân được giải thích là do bước sang năm 2009 kinh tế Việt Nam
vẫn chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính của năm 2008. Do vậy cơ cấu
kinh tế của năm 2008 vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều đến xu hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế những tháng đầu năm 2009.
2. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành:
Trong giai đoạn 2001-2010 cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch
theo hướng ngày càng tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng, giảm dần tỷ trọng
của khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Đây là sự chuyển dịch đúng hướng vì
nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khu vực nông nghiệp
- Trong khu vực nông - lâm - thủy sản, sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm, chủ
yếu theo sự chuyển dịch giữa hai nhóm ngành nông nghiệp và thủy sảnTrong nội
bộ cơ cấu ngành trong giai đoạn này cũng đã chú ý đến tăng sản xuất những
ngành có giá trị cao phục vụ xuất khẩu như sản xuất cao su, hồ tiêu, điều chè
tăng từ 8,3 đến 14,4% do mở rộng diện tích và tăng năng suất năm 2007. Đặc

20


biệt là sản xuất và xuất khẩu gạo (Việt Nam là nước có giá trị xuất khẩu gạo lớn
thứ hai thế giới).

21


Biểu đồ 2
(Đơn vị tính : %)

Số liệu trên cho thấy trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong ngành nông
nghiệp, trong ngành nông nghiệp thì sản xuất lương thực luôn chiếm tỷ trọng lớn
dao động từ 56,4% đến 57,5%, giá trị sản xuất cây công nghiệp cũng chiếm tỷ
trọng đáng kể.
(%)
Năm

2006

2007

2008


bộ
2009
Cây lương thực
57,5

56,5
56,83
56,39
Rau đậu
8,41
8,82
8,58
8,78
Cây công nghiệp
25,46
25,64
25,64
25,6
Cây ăn quả
8,63
9, 04
8,95
9,23
Kết quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển
dịch trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích trồng lúa sang trồng
các loại cây khác có năng suất và giá trị kinh tế cao hơn.
Khu vực công nghiệp và xây dựng:
Khu vực công nghiệp và xây dựng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp chế biến và tỷ trọng của ngành xây dựng. Ngành điện, ga và nước
giữ được tỷ trọng ổn định. Tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác có xu hướng
giảm. Tuy nhiên, tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng không đáng kể, từ 59,2%
năm 2000 lên 59,7% năm 2005, do các ngành công nghiệp gia công lắp ráp
22



chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất công nghiệp. Giá trị sản xuất công
nghiệp những năm vừa qua tăng trưởng nhanh nhưng chủ yếu là tăng ở các
ngành may mặc, giầy da, lắp ráp ô tô, lắp ráp ti vi, lắp ráp xe máy có giá trị tăng
thêm chỉ chiếm 10-15% giá trị sản xuất. Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp
chế biến không ngừng tăng qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong nhóm
ngành công nghiệp- xây dựng (biểu đồ 2). Điều này phù hợp với hoàn cảnh hiện
nay của việt nam, phát triển ngành sử dụng nhiều lao động, đòi hỏi trình độ kỹ
thuật không cao.
Hàm lượng công nghệ trong nhóm ngành công nghiệp không cao. Xét về
cơ cấu, giá trị ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào ngành sử dụng tài nguyên
thô, hàm chứa ít công nghệ (chiếm tới hơn 50%). Tỷ trọng ngành có hàm lượng
công nghệ trung bình và cao luôn đứng ở mức 25%, so sánh với hơn 60% ở Thái
Lan, Malaysia và Trung Quốc, sau quá trình tăng mạnh giá trị gia tăng công
nghiệp của các nước này qua các năm.

Biểu đồ 3 : Cơ cấu công nghệ trong xuất khẩu hàng công nghiệp Việt Nam
Nếu so sánh với các nước tại thời điểm có trình độ phát triển tương đương
(thông qua chỉ tiêu GDP bình quân đầu người ngang giá sức mua), Việt Nam
23


năm 2006 vẫn có năng lực công nghệ thấp hơn nhiều so với các nước ở thời
điểm trên dưới một thập kỷ trước. Ngành sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm
8,4% giá trị xuất khẩu, bằng 1/2 Trung Quốc (năm 1998), Thái Lan (năm 1986)
và bằng 1/3 Malaysia (năm 1980). Trong khi đó, tỷ trọng ngành có hàm lượng
công nghệ thấp của các nước ở thời điểm phát triển tương đương đều thấp hơn
nhiều so với Việt Nam (năm 2006).
Như vậy, chuyển dịch trong nội bộ cơ cấu ngành của Việt Nam tuy đã có
sự chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng tăng tỷ trọng những ngành sử
dụng nhiều lao động, những ngành phục vụ cho xuất khẩu như xuất khẩu gạo,

cây công nghiệp ( chè, cà phê, cao su..) nhưng chuyển dịch còn chậm và chưa
đẩy mạnh phát triển những ngành có giá trị công nghệ cao, làm cho năng lực
cạnh tranh của việt nam chưa cao
Khu vực dịch vụ:
Sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ vẫn diễn ra rất chậm. Hầu
hết các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo nhiều giá trị tăng thêm, đều
có tỷ trọng nhỏ trong GDP (ví dụ, ngành tài chính, ngân hàng, và bảo hiểm
chiếm chưa tới 2,0% GDP năm 2005). Xu hướng này đang hạn chế nhiều việc
nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam và gây bất lợi cho tăng trưởng, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phấn đấu
trở thành thành viên của WTO. Ngoài ra, nhiều lĩnh vực dịch vụ như tư vấn xúc
tiến đầu tư, pháp lý, công nghệ, và xuất khẩu lao động cũng chưa được khai thác
tốt hoặc còn kém phát triển.
Khu vực dịch vụ nhìn chung không tăng được tỷ trọng trong tổng sản
phẩm trong nước, chủ yếu là do những ngành dịch vụ có khả năng tạo nhiều
giá trị tăng thêm vẫn chưa được đầu tư thích đáng, nhất là đầu tư chiều sâu
cho các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ cảng biển, dịch vụ
hàng không, dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, trong
những năm vừa qua cũng đã có một số ngành tăng trưởng tương đối khá như:
thương mại; khách sạn, nhà hàng; vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; tài
chính, tín dụng.
II. Đánh giá kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ 2001-

24


2010
1. Những thành tựu
Thực tế nền kinh tế ở nước ta, trong những năm đổi mới cho thấy, những
thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tạo thêm nhiều việc làm,

nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Điều đó được thể hiện ở những
khía cạnh sau:
Một là: Cơ cấu kinh tế đã có những thay đổi theo hướng tích cực, từng
bước khai thác và phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành, từng thành phần
kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao qua các thời kỳ và qua các
năm.
Biểu đồ 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo ngành thời kỳ 2000- 2009

Nguồn: tính toán từ số liệu niên giám thống kê 2007- 2008 và báo cáo thực
hiện KH2009
Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp gần như ổn định trong
suốt 7 năm liền, năm 2009, có dấu hiệu khôi phục sau khi bị suy giảm khá nhiều ở
năm 2007 do ảnh hưởng suy thoái kinh tế. Tuy hai năm 2007 và 2009, tốc độ tăng
trưởng bị sụt giảm, nhưng nhìn chung, tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ có xu
hướng gia tăng nhanh hơn cả. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng giảm
khá nhiều theo thời gian. Do có sự thay đổi tích cực trong tốc độ tăng trưởng kinh
tế theo ngành, nên cơ cấu ngành kinh tế nước ta có dấu hiệu chuyển dịch theo xu
thế tích cực, trong đó: tỷ trọng khu vực công nghiệp tăng lên, tỷ trọng khu vực

25


×