Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp tại chi cục thuế thị xã từ sơn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.63 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế của mỗi
quốc gia. Ở Việt Nam, thuế GTGT chiếm xấp xỉ 30% tổng thu nội địa. Thuế
GTGT lại là sắc thuế tiêu dùng có liên quan đến hầu hết các doanh nghiệp và
các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Do vậy, quản lý thuế GTGT có ý nghĩa
rất quan trọng trong quản lý thuế. Ở cấp quản lý trực tiếp, nếu không hoàn
thành nhiệm vụ quản lý thuế GTGT thì dù có hoàn thành nhiệm vụ quản lý
các sắc thuế khác cũng không được coi là đã thành công trong quản lý thuế.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý thuế GTGT ở
Việt Nam thời gian qua cũng còn không ít hạn chế. Đây là khoản thu bị thất
thu cao và gian lận thuế diễn ra phổ biến. Vì vậy, vấn đề mang tính cấp thiết
đặt ra cho ngành Thuế là phải tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường công tác
quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp.
Trong thực tiễn quản lý thuế ở Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn, công tác
quản lý thuế GTGT đã đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn không ít hạn
chế, bất cập cần tìm giải pháp thích hợp để hoàn thiện hoạt động quản lý
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý thuế GTGT.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài luận văn “Hoàn thiện công tác
quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp tại Chi cục thuế Thị xã Từ
Sơn tỉnh Bắc Ninh” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thiết thực.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
thuế GTGT đối với các doanh nghiệp tại Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh.
Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thuế GTGT và quản lý thuế
GTGT.


- Đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Thị


xã Từ Sơn.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục
thuế Thị xã Từ Sơn, nhằm góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác
quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thị xã Từ Sơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý thuế GTGT đối
với các doanh nghiệp. Luận văn không nghiên cứu công tác quản lý thuế GTGT
đối với hộ kinh doanh cá thể và các tổ chức kinh tế khác ngoài doanh nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tại Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Nghiên cứu thực trạng giai đoạn
2011 - 2013.
4. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
* Về lý luận
Luận văn hệ thống hóa, góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận về
quản lý thuế GTGT.
* Về thực tiễn
Luận văn đánh giá, làm rõ thực trạng công tác quản lý thuế GTGT đối
với các doanh nghiệp tại Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn, chỉ ra những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý thuế
GTGT đối với các doanh nghiệp tại Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn.
Luận văn đề xuất một hệ thống các quan điểm, phương hướng và giải
pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp tại
Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn.


5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày thành 4

chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thuế giá trị gia tăng;
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu;
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý thuế GTGT đối với các doanh
nghiệp tại Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn;
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT đối với
các doanh nghiệp tại Chi cục thuế Thị xã Từ Sơn.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế GTGT
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT
Thuế GTGT, thuật ngữ tiếng Anh gọi tắt là VAT (Value Added Tax), là
một dạng của thuế bán hàng. Tại một số quốc gia như Australia, Canada, New
Zealand, Singapore thì thuế này được gọi là "Goods and services tax" (viết tắt
GST) nghĩa là thuế hàng hóa và dịch vụ. Thuế GTGT là một loại thuế gián
thu, được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp nó
cho cơ quan quản lý thuế của nhà nước là những người bán hàng hóa, dịch vụ.
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu. Năm 1918 người đầu tiên
nghĩ ra thuế này là một người Đức tên là CARL FRIEDRICH VON
SIEMENS. Mặc dù vậy, ông không thuyết phục được Chính phủ Đức áp dụng
vào thời bấy giờ. Nước đầu tiên trên thế giới áp dụng thuế GTGT là Pháp, bắt
đầu áp dụng thí điểm trong một số ngành cá biệt từ 01/07/1954 và đến
01/01/1968 đưa vào áp dụng chính thức. Ngay từ những năm đầu thuế GTGT
được áp dụng ở Pháp đã đáp ứng được hai mục tiêu cơ bản là đảm bảo số thu
kịp thời vào NSNN và khắc phục tình trạng trùng lắp của thuế doanh thu
trước đây. Do có những ưu việt nổi trội, nên ngày càng có nhiều nước trên thế

giới đưa thuế GTGT vào áp dụng.
Người tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thường
không được hoàn lại thuế GTGT khi mua hàng (trừ những trường hợp đặc
biệt), nhưng các doanh nghiệp thì có thể được hoàn lại thuế GTGT đối với
nguyên vật liệu và dịch vụ mà họ mua để tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ tiếp
theo để trực tiếp hay gián tiếp bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Theo cách
này, tổng số thuế phải thu ở mỗi công đoạn trong dây chuyền kinh tế là một tỷ


lệ cố định đối với phần GTGT được công đoạn kinh doanh đó thêm vào trong
sản phẩm.
Hiện nay, khái niệm thuế GTGT có nhiều cách tiếp cận khác nhau, mỗi
khái niệm đưa ra đều được nhìn nhận trên một góc độ, một khía cạnh nào đó
của thuế GTGT. Theo Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 của Việt
Nam thì “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch
vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
Nhìn chung có thể hiểu: “Thuế GTGT là sắc thuế đánh trên phần giá
trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình
luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng” [18, tr43].
Từ cách hiểu như trên, thuế GTGT có các đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thuế GTGT là sắc thuế thuộc loại thuế gián thu. Đây là sắc thuế có cơ
sở tính thuế là phần thu nhập đem tiêu dùng trong hiện tại của người tiêu
dùng. Xét dưới góc độ pháp lý, thuế gián thu là thuế mà người chịu thuế và
người nộp thuế không cùng là một, người nộp thuế là người bán hàng hóa,
dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Chẳng hạn, chính
quyền đánh thuế vào công ty (công ty nộp thuế) và công ty lại chuyển thuế
này vào chi phí tính vào giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối tượng chịu thuế
là người tiêu dùng cuối cùng. Ví dụ: thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt... được thu từ nhà sản xuất, người bán hàng với kỳ vọng
chúng sẽ được chuyển sang cho người tiêu dùng. Nói cách khác, Nhà nước

gián tiếp thu khoản thuế này của người tiêu dùng thông qua người bán hàng
hóa và cung cấp dịch vụ.
Thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rất rộng, áp dụng cho hầu hết các
hàng hóa, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong tất cả
các ngành nghề, ở tất cả các giai đoạn.
Thuế GTGT có tính lũy thoái so với thu nhập. Thuế GTGT đánh vào
hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là người thực sự phải


trả khoản thuế đó, không phân biệt thu nhập cao hay thấp đều phải trả số thuế
như nhau do số thuế phải trả được tính trên giá bán của hàng hóa, dịch vụ chứ
không tính trên thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, nếu
so sánh giữa số thuế phải trả so với thu nhập thì người nào có thu nhập cao
hơn thì tỉ lệ thấp hơn và ngược lại.
Thuế GTGT là sắc thuế tiêu dùng nhiều giai đoạn không trùng lắp.
Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh
nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Tổng số thuế thu
được của tất cả các giai đoạn đúng bằng số thuế tính trên giá bán của người
tiêu dùng cuối cùng.
Thuế GTGT có tính trung lập về kinh tế cao. Thuế GTGT không phải
là yếu tố chi phí mà đơn thuần là yếu tố cộng thêm ngoài giá bán của người
cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Thuế GTGT không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi kết
quả kinh doanh của người nộp thuế, bởi quá trình tổ chức và phân chia các
chu trình kinh tế, sản phẩm được luân chuyển qua nhiều hay ít giai đoạn thì
tổng số thuế GTGT phải nộp của tất cả các giai đoạn không thay đổi.
Thuế GTGT thường được đánh theo nguyên tắc “điểm đến”, quyền
đánh thuế thuộc về quốc gia nơi hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng, bất kể nó
được sản xuất ở đâu.
1.1.1.2. Vai trò của thuế GTGT
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách mà

còn là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của hệ thống bộ máy
quản lý Nhà nước. Nhà nước sử dụng thuế nhằm hướng dẫn, điều tiết các lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, thực hiện chính sách phân phối và phân
phối lại, điều tiết thu nhập, giải quyết công bằng an sinh xã hội,... Trong đó,
thuế GTGT là một khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách
của Nhà nước, do đó thuế GTGT có vai trò rất to lớn, tác động đến mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội. Cụ thể là:


Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng của NSNN:
Thuế GTGT là công cụ tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời nguồn thu
cho NSNN. Thuế GTGT tập trng thu ngay từ khâu đầu (sản xuất hoặc nhập
khẩu), nên đảm bảo nguồn thu cho NSNN, hạn chế thất thu. Thuế GTGT
được tính và thu từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh
nên làm tăng nguồn thu và đảm bảo huy động kịp thời NSNN. Việc khấu trừ
thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hóa đơn mua hàng đã thúc đẩy người
mua phải đòi hỏi người bán xuất hóa đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị của
hoạt động mua bán, góp phần khắc phục được tình trạng thông đồng giữa
người mua và người bán để trốn, gian lận thuế, gây thất thu cho NSNN.
Thuế GTGT là công cụ điều tiết vĩ mô và vi mô:
Thuế GTGT điều tiết sản xuất và tiêu dùng. Luật thuế GTGT của mỗi
nước thường quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế
suất cao hay thấp vào các mặt hàng cụ thể, thông qua đó mà tác động và làm
thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, tác động tới việc lựa
chọn những hàng hóa, dịch vụ để sản xuất kinh doanh và tiêu dùng, nhằm góp
phần thực tế điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thuế GTGT khuyến khích hoạt động mở rộng đầu tư sản xuất. Trong
hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT mà doanh nghiệp
phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc

hoàn lại. Còn khi nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên
dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong
nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh
nghiệp thì doanh nghiệp cũng không phải nộp thuế GTGT. Đồng thời việc
thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư đã làm cho giá thành các công trình
đầu tư đã làm cho giá thành các công trình đầu tư trong nước giảm rất nhiều.
Do đó, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, thúc
đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hóa.


Thuế GTGT góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu
được áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0%, số thuế GTGT đầu vào mà doanh
nghiệp đã nộp thì sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại, vì vậy nó là
động lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, tăng cường sự hợp
tác thương mại giữa các nước trên thế giới. Thuế GTGT tạo điều kiện cho
hàng hóa xuất khẩu có thể cạnh tranh dễ dàng hơn trên thị trường quốc tế do
được hoàn thuế nên doanh nghiệp có thể bán ra nước ngoài với giá thấp hơn
nhờ đó có lợi thế trong cạnh tranh về giá. Từ đó, giúp doanh nghiệp mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội.
Thuế GTGT khuyến khích tăng hiệu quả sản xuất. Trong nền kinh tế thị
trường, giá cả hàng hóa được bán ra phụ thuộc rất nhiều yếu tố cung cầu, nó
phải được người tiêu dùng chấp nhận, người sản xuất khó có thể thay đổi giá
cả theo ý mình. Do đó, việc Nhà nước đánh thuế sẽ làm giảm doanh thu thuần
của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không cố gắng nâng cao hiệu quả sản
xuất để giảm bớt chi phí. Điều đó đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn cải
tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
Thuế GTGT thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán, kế
toán, phát triển quan hệ thanh toán. Việc doanh nghiệp được phép khấu trừ
thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào cùng với việc thực hiện hoàn thuế
GTGT của Nhà nước đã khuyến khích các doanh nghiệp tự giác ghi chép,

quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ, thúc đẩy việc hoàn thiện công tác hạch
toán, kế toán tại đơn vị. Ngoài ra, thuế GTGT góp phần phát triển hệ thống
thanh toán. Việc thuế GTGT đòi hỏi những doanh nghiệp có hàng hóa xuất
khẩu phải thanh toán không dùng tiền mặt thì mới được hoàn thuế và đòi hỏi
doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải thanh toán không
dùng tiền mặt đối với những khoản mua hàng hóa, dịch vụ trên ngưỡng quy
định góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua hệ thống
ngân hàng.


Thuế GTGT là công cụ kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh:
Vai trò này hình thành ngay trong quá trình tổ chức thực hiện luật thuế
GTGT. Để thu được thuế và đảm bảo thực hiện đúng luật thuế, cơ quan thuế
và các cơ quan hữu quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy
mô và tình hình hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Từ đó, cơ quan
thuế sẽ phát hiện ra những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của các cá
nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh, cũng như phát hiện ra những khó khăn mà
các cơ sở gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Thuế GTGT còn thúc
đẩy việc mua bán hàng hóa sử dụng đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Như vậy, qua công tác quản lý thuế có thể kiểm tra, kiểm soát toàn
diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt công tác
quản lý Nhà nước.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về quản lý thuế GTGT
1.1.2.1. Khái niệm quản lý thuế GTGT
Quản lý là một phạm trù để chỉ những mối quan hệ và sự tác động qua
lại giữa các chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý nhằm đạt được những
mục tiêu đề án trong điều kiện có sự biến đổi của môi trường. Tùy theo yêu
cầu, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu mà ta có thể hiểu chủ thể quản lý và đối
tượng bị quản lý ở những chừng mực nhất định.

Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì chủ thể quản lý đó là
bộ máy quản lý nhà nước, thống nhất từ trung ương đến địa phương, thực hiện
quản lý trên mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội,... Đối tượng bị
quản lý (đối tượng quản lý) là con người và cộng đồng người đang và sẽ tham
gia vào các quan hệ xã hội, mà trong đó quan hệ kinh tế được nổi lên như là
một vấn đề chủ yếu của quản lý.
Quan hệ quản lý không những mang tính chất kinh tế mà còn có tính tổ
chức, tính chất tâm lý xã hội... Tính đa diện đó của quản lý kinh tế quy định
tính tổng hợp, tính liên ngành, liên bộ phận của bất kỳ cơ cấu tổ chức nào.


Quản lý thuế GTGT là hoạt động quản lý nhà nước của của cơ
quan thuế tác động đến người nộp thuế GTGT để đảm bảo thực thi pháp
luật về thuế GTGT với mục đích thu đúng, thu đủ, thu kịp thời thuế
GTGT cho NSNN.
Do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên thuế GTGT được áp dụng ở
các quốc gia cũng có những đặc điểm khác nhau, vì vậy công tác quản lý thuế
GTGT ở mỗi nước có những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện ở nước đó.
Ngay cả công tác quản lý thuế GTGT trong mỗi quốc gia ở các cấp khác nhau
cũng có sự khác nhau tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của
mỗi cấp, mỗi bộ phận.
Trong công tác quản lý thuế GTGT, cơ quan thuế phải phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan hữu quan như Kho bạc, Hải quan, Quản lý thị trường, Ủy
ban nhân dân quận, Sở kế hoạch đầu tư... để đảm bảo quản lý triệt để và phát
triển nguồn thu.
1.1.2.2. Nội dung quản lý thuế GTGT
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà nội dung quản lý thuế GTGT
có thể được nhìn nhận khác nhau. Dưới góc độ các công đoạn quản lý
theo đối tượng thì nội dung quản lý thuế GTGT bao gồm: (1) Quản lý
người nộp thuế; (2) Quản lý căn cứ tính thuế; (3) Quản lý thu nộp thuế; và

(4) Quản lý hoàn thuế GTGT. Dưới góc độ thực hiện các chức năng của
cơ quan thuế để quản lý thuế thì nội dung quản lý thuế GTGT bao gồm:
(1) Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế GTGT; (2) Quản lý đăng ký và kê
khai thuế GTGT; (3) Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về thuế GTGT;
(4) Đôn đốc thu nộp thuế GTGT; (5) Cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính về thuế GTGT; và (6) Giải quyết tố cáo khiếu nại về thuế GTGT.
Khi thực hiện mỗi chức năng quản lý nêu trên có thể tác động đến từng
yếu tố cụ thể của người nộp thuế hoặc tác động đến nhiều yếu tố cụ thể
của người nộp thuế GTGT. Cụ thể như sau:


a) Nội dung của quản lý thuế GTGT xét theo công đoạn quản lý
- Quản lý người nộp thuế GTGT
Quản lý người nộp thuế GTGT là nắm bắt đầy đủ số lượng người nộp
thuế GTGT thuộc phạm vi quản lý. Đồng thời, để quản lý người nộp thuế
GTGT, cơ quan thuế phải nắm được hệ thống thông tin về người nộp thuế. Hệ
thống thông tin về người nộp thuế bao gồm những thông tin, tài liệu liên quan
đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Như vậy, cơ quan thuế phải nắm bắt
đầy đủ thông tin định danh về người nộp thuế GTGT trong phạm vi quản lý;
nắm bắt những thông tin cơ bản có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của người nộp thuế GTGT.
Thông tin về người nộp thuế là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh
giá mức độ chấp hành pháp luật của người nộp thuế, ngăn ngừa, phát hiện vi
phạm pháp luật về thuế.
Người nộp thuế có trách nhiệm cung cấp cung cấp thông tin theo quy
định của pháp luật. Cơ quan thuế phải tiếp nhận và lưu trữ thông tin do người
nộp thuế cung cấp. Đồng thời, cơ quan thuế phải tự mình thu thập, tìm hiểu
thông tin về người nộp thuế để từ đó kiểm chứng tính chính xác và đầy đủ của
thông tin mà người nộp thuế cung cấp, làm cơ sở để quản lý thuế.
- Quản lý căn cứ tính thuế

Căn cứ tính thuế là yếu tố để xác định nghĩa vụ thuế của người nộp
thuế. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT.
Giá tính thuế là một trong hai yếu tố để xác định thuế GTGT đầu ra và
thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Đến lượt nó, giá tính thuế GTGT lại được
dựa trên số lượng hàng hóa bán ra và giá bán đơn vị hàng hóa, dịch vụ. Đối
với người bán, thuế GTGT đầu ra được xác định bằng giá tính thuế GTGT
nhân với thuế suất thuế GTGT. Phần thuế GTGT đầu ra của người bán chính
là thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của người mua nếu đáp ứng đủ điều
kiện về khấu trừ.


Người nộp thuế có trách nhiệm tự kê khai các căn cứ tính thuế, tức là tự
xác định đúng số lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra, thuế suất của hàng hóa, dịch
vụ bán ra, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và dựa vào phương pháp tính
thuế theo quy định của pháp luật để tự xác định số thuế phải nộp.
Cơ quan thuế có trách nhiệm thu nhận tài liệu, hồ sơ khai thuế; hướng
dẫn, hỗ trợ người nộp thuế kê khai đúng căn cứ tính thuế. Cơ quan thuế cũng
có trách nhiệm thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để kiểm tra, đối chiếu nhằm
ngăn ngừa tình trạng kê khai không đúng căn cứ tính thuế nhằm mục đích
gian lận của người nộp thuế.
- Quản lý thu nộp thuế
Trên cơ sở số thuế tự kê khai hoặc do cơ quan thuế ấn định trong những
trường hợp được quy định của pháp luật, người nộp thuế có trách nhiệm tự
nộp thuế vào Kho bạc nhà nước.
Trách nhiệm của cơ quan thuế trong công đoạn này là phải đôn đốc
nhắc nhở người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ người nộp thuế GTGT vào ngân
sách nhà nước. Trường hợp người nộp thuế cố tình dây dưa không nộp thuế
thì phải tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế theo quy định của pháp luật.
- Quản lý hoàn thuế

Pháp luật về thuế GTGT quy định các trường hợp hoàn thuế, thời hạn
giải quyết hoàn thuế và các điều kiện, hồ sơ thủ tục để hoàn thuế. Trên cơ sở
văn bản và hồ sơ đề nghị hoàn thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế có trách
nhiệm tiếp nhận, kiểm tra và thực hiện các thủ tục để hoàn thuế cho người
nộp thuế. Bằng việc thực hiện các thao tác nghiệp vụ quản lý (Thu nhận hồ
sơ, đối chiếu thông tin, kiểm tra hồ sơ tại cơ quan thuế, kiểm tra tại trụ sở của
người nộp thuế, kiểm tra trước và sau hoàn thuế…), cơ quan thuế có trách
nhiệm đảm bảo số thuế hoàn cho người nộp thuế là đúng luật.


Cơ quan thuế vừa có trách nhiệm giải quyết hoàn thuế đảm bảo về thời
gian và đơn giản hóa về thủ tục để đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế, lại
phải có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra để đảm bảo hoàn thuế đúng quy định
pháp luật, chống gian lận qua hoàn thuế GTGT.
b) Nội dung quản lý thuế GTGT xét theo việc thực hiện chức năng quản
lý thuế
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế
Cơ quan thuế có trách nhiệm chuyển tải thông tin về pháp luật thuế nói
chung và thuế GTGT đến mọi thành viên trong xã hội bằng những hình thức,
biện pháp cụ thể. Bằng hoạt động, cơ quan thuế làm cho người nộp thuế hiểu
nghĩa vụ phải thực hiện, từ đó cung cấp đầy đủ thông tin cho cơ quan thuế.
Chức năng này có tác động đến nhiều công đoạn thực hiện nghĩa vụ thuế của
người nộp thuế, tác động đến việc đăng ký thuế, nộp hồ sơ khai thuế, xác
định căn cứ tính thuế và nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
- Hỗ trợ người nộp thuế
Cơ quan thuế tạo những điều kiện tốt nhất để người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ thuế như: hướng dẫn kê khai, giải đáp vướng mắc… Chẳng hạn như,
cơ quan thuế hướng dẫn doanh nghiệp cách thức tập hợp và lập bảng kê hàng
hóa, dịch vụ mua vào; bảng kê khai hàng hóa, dịch vụ bán ra… Cán bộ thuế
cũng phải hướng dẫn người nộp thuế sử dụng các phần mềm hỗ trợ kê khai

thuế hoặc hướng dẫn người nộp thuế cách thức nộp hồ sơ khai thuế GTGT
qua mạng. Chức năng quản lý này giúp người nộp thuế khai đúng về hình
thức và thực hiện đúng các thủ tục thuế theo quy định của pháp luật.
- Quản lý kê khai thuế, nộp thuế
Bằng việc thực hiện nội dung cụ thể của chức năng này, cơ quan thuế
nắm bắt toàn bộ tình trạng đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và nợ thuế
của người nộp thuế. Đây là cơ sở để cơ quan thuế nhắc nhở, đôn đốc người
nộp thuế thực hiện các nghĩa vụ đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế theo
quy định của pháp luật.


- Thanh tra, kiểm tra người nộp thuế và xử lý vi phạm về thuế GTGT
Thanh tra, kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan thuế kiểm soát, đối
chiếu, đánh giá tính đúng đắn, trung thực trong hoạt động kê khai thuế và
thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Cơ quan thuế thực hiện trên cơ
sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc
chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để
xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế được thực hiện thường
xuyên đối với các hồ sơ thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các
thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật về thuế của người
nộp thuế.
Khi kiểm tra hồ sơ thuế, công chức quản lý thuế thực hiện việc đối
chiếu, so sánh nội dung trong hồ sơ thuế với các thông tin, tài liệu có liên
quan, các quy định của pháp luật về thuế.
Cơ quan thuế cũng thực hiện thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của người
nộp thuế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế cho phép
công chức thuế tiếp cận đầy đủ hơn các tài liệu, hồ sơ có liên quan đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế làm cơ sở xác định đúng đắn
căn cứ tính thuế của người nộp thuế.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế giúp cơ quan thuế phát hiện những
sai phạm của người nộp thuế khi thực hiện các nghĩa vụ về thuế với nhà nước
như: sai phạm hoặc sai sót trong đăng ký thuế, trong kê khai thuế, trong xác
định căn cứ tính thuế. Từ đó, truy thu thuế nhằm đảm bảo thực hiện đúng
pháp luật về thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng. Thanh tra, kiểm tra thuế
cũng có tác động cảnh báo, ngăn ngừa các hành vi trốn thuế và gian lận thuế.
Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế, cơ quan thuế cũng hướng dẫn
người nộp thuế thực hiện đúng nghĩa vụ thuế.


Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế phát hiện và xử
lý các vi phạm về thuế. Các vi phạm về thuế bao gồm: Vi phạm các thủ tục
thuế; chậm nộp tiền thuế; khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc
tăng số tiền thuế được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế.
- Đôn đốc thu nộp thuế
Đây là hoạt động của cơ quan thuế nhắc nhở người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Đây chính là nội dung quản lý thu
nộp thuế của cơ quan thuế đối với người nộp thuế.
- Cưỡng chế thuế
Đây là hoạt động mà cơ quan thuế dùng các cách thức, biện pháp buộc
người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế, thực hiện quyết định hành chính thuế.
Các cách thức cưỡng chế thuế thường được thực hiện là: Trích tiền từ tài
khoản ngân hàng; khấu trừ vào tiền lương, thu nhập; thu tiền từ bên thứ ba;
đình chỉ sử dụng hóa đơn; đình chỉ làm thủ tục hải quan; kê biên tài sản. Đây
chính là nội dung của hoạt động quản lý thu nộp thuế.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế
Cơ quan quản lý thuế khi nhận được khiếu nại về việc thực hiện pháp
luật về thuế phải xem xét, giải quyết trong thời hạn theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
Cơ quan quản lý thuế nhận được khiếu nại về việc thực hiện pháp luật

về thuế có quyền yêu cầu người khiếu nại cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan
đến việc khiếu nại; nếu người khiếu nại từ chối cung cấp hồ sơ, tài liệu thì có
quyền từ chối xem xét giải quyết khiếu nại.
Cơ quan quản lý thuế phải hoàn trả số tiền thuế, số tiền phạt thu không
đúng cho người nộp thuế, bên thứ ba theo thời hạn do pháp luật quy định.
1.1.2.3. Quy trình quản lý thuế GTGT đối với doanh nghiệp
a) Quy trình quản lý đăng ký thuế
Quy trình này hiện hành được ban hành kèm theo Quyết định số
443/QĐ-TCT ngày 29/04/2009 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.


Có 4 bước phải thực hiện trong quy trình, đó là:
- Lập và nộp hồ sơ cho cơ quan thuế
- Tiếp nhận và kiểm tra thủ tục hồ sơ đăng ký thuế
- Nhập và xử lý thông tin đăng ký thuế
- Trả kết quả cho NNT
Công tác quản lý đăng ký thuế có vai trò giúp người nộp thuế thức hiện
các quy định về đăng ký thuế của Luật quản lý thuế và các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế. Ngoài ra công tác quản lý
đăng ký thuế còn giúp cán bộ thuế nắm rõ số lượng, loại hình doanh nghiệp
tồn tại trên địa bàn từ đó đưa ra những biện pháp quản lý phù hợp.
b) Quy trình quản lý khai thuế, nộp thuế và kế toán thuế
Quy trình này được ban hành kèm theo Quyết định số 1864/QĐ -TCT
ngày 21/12/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
* Quy trình quản lý kê khai thuế gồm có các bước cơ bản sau:
- Quản lý tình trạng kê khai thuế của NNT
- Xử lý hồ sơ khai thuế
- Xử lý vi phạm về việc nộp hồ sơ khai thuế
* Quy trình kế toán thuế gồm có các bước cơ bản sau:
- Kế toán thu NSNN

- Kế toán theo dõi thu nộp thuế của NNT
Quản lý kê khai thuế là công tác hết sức quan trọng, nhằm có thể quản
lý chặt chẽ việc nộp tờ khai, kê khai thuế của các doanh nghiệp, tránh tình
trạng nộp tờ khai hoặc kê khai sai số thuế phải nộp gây thất thu cho NSNN.
Công tác này cần được đặc biệt chú trọng nhất là trong giai đoạn thực hiện cơ
chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp như hiện nay.
c) Quy trình miễn thuế, giảm thuế
Quy trình này được ban hành kèm theo Quyết định số 1444/QĐ-TCT
ngày 24/10/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.


Quy trình miễn giảm thuế bao gồm 5 bước:
- Tiếp nhận hồ sơ miễn, giảm thuế
- Giải quyết hồ sơ miễn, giảm thuế
- Thẩm định quyết định miễn, giảm thuế
- Quyết định miễn, giảm thuế và thực hiện miễn, giảm thuế
- Báo cáo, lưu trữ hồ sơ miễn, giảm thuế
Miễn giảm thuế đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý thu thuế
GTGT, quy trình này được ban hành nhằm xác định rõ trách nhiệm của cơ
quan thuế và NNT trong quá trình thực hiện và xác định số thuế được miễn
giảm theo các quy định pháp luật thuế và Luật quản lý thuế.
d) Quy trình giải quyết hoàn thuế
Quy trình này được ban hành kèm theo Quyết định số 905/QĐ-TCT
ngày 01/07/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
Quy trình hoàn thuế bao gồm 5 bước sau:
- Tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế
- Phân loại hồ sơ hoàn thuế
- Giải quyết hồ sơ hoàn thuế
- Thẩm định pháp chế
- Quyết định hoàn thuế

Hoàn thuế là một thuộc tính ưu việt của thuế GTGT. Quy trình giải
quyết hoàn thuế nhằm hướng dẫn NNT thực hiện đúng các thủ tục hành chính
và các quy định của pháp luật thuế, Luật quản lý thuế về hoàn thuế, cơ quan
thuế thực hiện kiểm tra hồ sơ theo trình tự và nội dung quy định.
e) Quy trình kiểm tra thuế
Quy trình này hiện hành được ban hành kèm theo Quyết định số
528/QĐ - TCT ngày 29/05/2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
Quy trình kiểm tra thuế được tiến hành theo hai bước:
- Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế
- Kiểm tra thuế tại trụ sở NNT


Công tác kiểm tra thuế nhằm mục đích tăng cường kiểm tra giám sát hồ
sơ khai thuế của NNT nhằm chống thất thu thuế qua việc kê khai thuế, ngăn
chặn và xử lý kịp thời những vi phạm thuế. Bên cạnh đó, kiểm tra thuế giúp
nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp
a) Nhóm nhân tố chủ quan
Thứ nhất, chính sách và pháp luật thuế của nhà nước. Chính sách thuế
là hệ thống các quan điểm, phương hướng và biện pháp cơ bản để nhà nước
thực hiện điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư vào ngân sách nhà nước
qua các sắc thuế. Như vậy, chính sách thuế đúng đắn sẽ điều tiết hợp lý thu
nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội vào ngân sách nhà nước. Chính
sách thuế không hợp lý có thể điều tiết quá mức - tức là lạm thu hoặc bỏ sót
nguồn thu - tức là tạo ra thất thu thuế tiềm năng về thuế GTGT. Pháp luật thuế
là công cụ để nhà nước hiện thực hóa chính sách thuế. Bởi vậy, pháp luật thuế
không tốt có thể tạo ra tiền đề để xảy ra thất thu thuế thực, chẳng hạn như nếu
quy định pháp luật thuế GTGT không chặt chẽ có thể dẫn đến bị người nộp
thuế lợi dụng để tránh thuế hoặc trốn thuế.
Thứ hai, tính hiệu quả của các hoạt động nghiệp vụ quản lý của cơ quan

thuế. Quản lý thuế là trách nhiệm của nhiều cơ quan nhà nước có liên quan
nhưng trước hết và chủ yếu là trách nhiệm của cơ quan thuế. Mục tiêu của
quản lý thuế là phải đảm bảo để người nộp thuế kê khai đúng số thuế phải nộp
theo quy định pháp luật, tính thuế đúng luật, nộp thuế đúng luật - chính xác,
đầy đủ và kịp thời theo quy định pháp luật. Nhân tố chủ quan tiên quyết ảnh
hưởng đến quản lý thuế GTGT chính là tính hiệu quả của các hoạt động
nghiệp vụ quản lý của cơ quan thuế. Đó là các hoạt động: tuyên truyền thuế,
hỗ trợ người nộp thuế, quản lý kê khai thuế, đôn đốc thu nộp thuế, thanh tra
thuế, kiểm tra thuế, quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế.


Thứ ba, năng lực chuyên môn và tính liêm chính của công chức thuế.
Con người luôn là yếu tố trung tâm của quản lý. Công chức thuế là người trực
tiếp thực hiện các nghiệp vụ quản lý thuế. Do vậy, năng lực chuyên môn và
tính liêm chính của công chức thuế là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng.
Năng lực chuyên môn và tính liêm chính của công chức thuế càng cao thì hiệu
quả công tác quản lý thuế GTGT càng tốt và ngược lại.
Thứ tư, năng lực quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước có liên
quan. Quản lý thuế trước hết là trách nhiệm của cơ quan thuế, song quản lý
thuế không chỉ là trách nhiệm của cơ quan thuế mà còn là trách nhiệm của các
cơ quan quản lý nhà nước khác có liên quan. Chẳng hạn như, thông tin của cơ
quan công an, cơ quan quản lý thị trường về tình hình thị trường cũng như về
các đối tượng kinh doanh… đều rất có ý nghĩa trong xác định chính xác căn
cứ tính các khoản thuế đối với các tổ chức hoặc cá nhân.
b) Nhóm nhân tố khách quan
Thứ nhất, trình độ phát triển và đặc điểm của nền kinh tế - xã hội. Các
yếu tố kinh tế - xã hội và quản lý xã hội luôn có mối quan hệ hữu cơ gắn bó
với nhau, bổ trợ lẫn nhau hoặc loại trừ lẫn nhau. Thực tại xã hội luôn gắn bó
mật thiết với ý thức xã hội. Quản lý thuế GTGT không thể không xét đến ảnh

hưởng của trình độ phát triển và đặc điểm của nền kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
- Thu nhập dân cư: Khi thu nhập tăng thì động cơ trốn thuế thường
giảm đi. Ở một mức thu nhập cao, con người không còn phải lo lắng cho
những nhu cầu thiết yếu, người ta quan tâm nhiều hơn đến các nhu cầu bậc
cao cả về vật chất và tinh thần. Nhìn chung, khi thu nhập tăng động cơ gian
lận thuế giảm và mức độ thất thu thuế nói chung và thất thu thuế GTGT cũng
có xu hướng giảm bớt.
- Ý thức tuân thủ pháp luật: Ý thức tuân thủ pháp luật cao thì công tác
quản lý thuế GTGT càng thuận lợi. Ở một xã hội mà công dân có ý thức tuân


thủ pháp luật cao thì công tác quản lý thuế GTGT thuận lợi hơn so với xã hội
mà ý thức tuân thủ pháp luật của công dân thấp. Nhưng ý thức tuân thủ pháp
luật không phải là yếu tố tự thân, nó chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác như:
giáo dục của nhà trường, giáo dục gia đình, môi trường xã hội, sự nghiêm
minh của luật pháp….
- Phong tục, tập quán, thói quen: Những yếu tố này có ảnh hưởng đến
quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng. Chẳng hạn như, thói
quen mua hàng ở chợ cóc có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý thuế đối với hộ
kinh doanh cá thể bán lẻ. Thói quen lấy hóa đơn hay không lấy hóa đơn khi
mua hàng hóa, dịch vụ của dân cư cũng có tác động không nhỏ đến hoạt động
quản lý của cơ quan thuế.
Thứ hai, trang bị kỹ thuật của cơ quan thuế. Mác đã nhận định rằng
“Công cụ lao động quyết định năng suất lao động”. Nhận định này đến nay
vẫn còn nguyên giá trị. Trang bị kỹ thuật của cơ quan thuế có tác động rất lớn
đến hiệu quả quản lý thuế GTGT. Máy móc thiết bị hiện đại và công nghệ tiên
tiến sẽ giúp cơ quan thuế thuận lợi hơn rất nhiều trong hoạt động quản lý
thuế, đặc biệt là ở lĩnh vực mà số lượng các giao dịch kinh tế rất nhiều và diễn
ra trên địa bàn rộng với những phương thức kinh doanh đa dạng.
1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Nội dung cơ bản của thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam
Thuế GTGT hiện hành của Việt Nam được quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật sau: Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày
03/06/2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT số
31/2013/QH13; Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 31/12/2013; Thông tư số
219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính; Luật Quản lý thuế và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế; Nghị định
83/2013/NĐ-CP; Thông tư 156/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật Quản lý
thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế.


Nội dung cơ bản của thuế GTGT được quy định trong các văn bản trên
bao gồm:
1.2.1.1. Nguyên tắc quản lý thuế GTGT
Nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi
của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia
quản lý thuế GTGT.
Việc quản lý thuế GTGT được thực hiện theo quy định của Luật Quản
lý thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc quản lý thuế GTGT phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình
đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế GTGT.
1.2.1.2. Đối tượng chịu thuế GTGT
Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở
Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5
của Luật Thuế GTGT.
1.2.1.3. Đối tượng không chịu thuế GTGT
Luật Thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam quy định 25 nhóm hàng hóa,
dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Cụ thể như sau:
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế
biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức,

cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.
Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con
giống, cây giống, hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền.
Tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ
sản xuất nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp.
Sản phẩm muối được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối
tinh, muối i-ốt mà thành phần chính là NaCl (Natri Clorua).
Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do Nhà nước bán cho người đang thuê.


Chuyển quyền sử dụng đất.
Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm người học, các dịch vụ
bảo hiểm khác liên quan đến con người; bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng,
các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác; bảo hiểm tàu, thuyền,trang thiết bị và
các dụng cụ cần thiết khác phục vụ trực tiếp đánh bắt thủy sản; tái bảo hiểm.
Các dịch vụ tài chính ngân hàng, kinh doanh chứng khoán sau đây:
a) Dịch vụ cấp tín dụng bao gồm: Cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh; cho thuê tài
chính; phát hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc
tế; hình thức cấp tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
b) Dịch vụ cho vay của người nộp thuế không phải là tổ chức tín dụng;
c) Kinh doanh chứng khoán, bao gồm: môi giới chứng khoán; tự doanh
chứng khoán; bảo lãnh phát hành chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán;
lưu ký chứng khoán; quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu
tư chứng khoán; dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán
hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; hoạt động kinh doanh chứng khoán
khác theo quy định của pháp luật về chứng khoán;
d) Chuyển nhượng vốn bao gồm: chuyển nhượng một phần hoặc toàn
bộ số vốn đã đầu tư, kể cả trường hợp bán doanh nghiệp cho doanh nghiệp
khác để sản xuất, kinh doanh, chuyển nhượng chứng khoán; hình thức chuyển

nhượng vốn khác theo quy định của pháp luật;
e) Bán nợ;
Kinh doanh ngoại tệ ;
f) Dịch vụ tài chính phái sinh bao gồm: hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ
hạn, hợp đồng tương lại; quyền chọn mua, bán ngoại tệ; dịch vụ tài chính phái
sinh khác theo quy định của pháp luật;
g) Bán tài sản đảm bảo của khoản nợ của tổ chức mà Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín
dụng Việt Nam.


Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh,
phòng bệnh cho người và vật nuôi.
Dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo
chương trình của Chính phủ.
Dịch vụ duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố,
chiếu sáng công cộng; dịch vụ tang lễ.
Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân,
vốn viện trợ nhân đạo đối với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình
phục vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội.
Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Phát sóng truyền thanh, truyền hình bằng nguồn vốn NSNN.
Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành,
sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách khoa
học - kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên
truyền cổ động, kể cả dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện
tử; tiền, in tiền.
Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện.
Máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần
nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển

công nghệ; máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên
dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để
tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí đốt; tàu bay,
dàn khoan, tàu thuỷ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu
để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc thuê của nước ngoài để sử dụng
cho sản xuất, kinh doanh, cho thuê, cho thuê lại.
Vũ khí, khí tài chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh.
Hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ
không hoàn lại; quà tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức


chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; quà biếu, quà tặng cho
cá nhân tại Việt Nam theo mức quy định của Chính phủ; đồ dùng của tổ chức,
cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao; hàng mang theo
người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.
Hàng hoá, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc
tế để viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam.
Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng tạm
nhập khẩu, tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu
nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng sản
xuất, gia công xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng hoá, dịch vụ
được mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa các khu
phi thuế quan với nhau.
Chuyển giao công nghệ theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ;
chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ;
phần mềm máy tính.
Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa được chế tác thành sản phẩm
mỹ nghệ, đồ trang sức hay sản phẩm khác.
Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến

thành sản phẩm khác.
Sản phẩm nhân tạo dùng để thay thế cho bộ phận cơ thể của người
bệnh; nạng, xe lăn và dụng cụ chuyên dùng khác cho người tàn tật.
Hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng
năm từ một trăm triệu đồng trở xuống.
1.2.1.4. Căn cứ tính thuế GTGT
Thuế GTGT được tính dựa trên hai căn cứ đó là giá tính thuế GTGT
và thuế suất GTGT.


* Giá tính thuế GTGT
Giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT được ghi trên hóa
đơn bán hàng của người bán, người cung cấp dịch vụ hoặc giá chưa có thuế
GTGT được ghi trên chứng từ của hàng hóa nhập khẩu.
Đối với hàng hóa, dịch vụ trong nước, giá tính thuế GTGT là chưa bao
gồm thuế GTGT nhưng đã bao gồm các khoản thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế
bảo vệ môi trường.
Đối với hàng hóa nhập khẩu, giá tính thuế GTGT bằng giá tính thuế
nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu (nếu có) cộng thuế tiêu thụ đặc biệt của
hàng hóa nhập khẩu (nếu có) cộng với thuế bảo vệ môi trường của hàng hóa
nhập khẩu (nếu có).
* Thuế suất thuế GTGT
Thuế suất thuế GTGT được áp dụng thống nhất theo loại hàng hóa,
dịch vụ ở các khâu nhập khẩu, sản xuất gia công hay kinh doanh thương mại.
Hiện nay, có 3 mức thuế suất thuế GTGT: 0%, 5% và 10%. Trong đó, mức
thuế suất thuế GTGT 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và các
trường hợp coi như xuất khẩu theo quy định của pháp luật.
1.2.1.5. Phương pháp tính thuế GTGT
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong
hai phương pháp: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực

tiếp trên GTGT. Đối với các doanh nghiệp trên địa bàn thị xã Từ Sơn,
phương pháp tính thuế được sử dụng phần lớn là phương pháp khấu trừ.
Phương pháp khấu trừ:
Số thuế GTGT
phải nộp
Trong đó:

=

Số thuế GTGT
đầu ra

-

Số thuế GTGT đầu
vào được khấu trừ

+ Số thuế GTGT đầu ra bằng tổng số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ
bán ra ghi trên hóa đơn GTGT.


×