Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Phát triển nông nghiệp bền vững trên địa bàn huyện yên lạc tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.58 KB, 87 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảm bảo phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn và nông dân là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu đặt ra trong quá trình đổi mới và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đặt ra
nhiệm vụ phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu như vậy, chăm lo phát
triển lĩnh vực nông nghiệp là một trong những ưu tiên chính sách và thực tế
cho thấy không một quốc gia nào có thể phát triển, hiện đại hóa được mà
không đảm bảo phát triển ổn định nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề nông nghiệp - nông thôn - nông dân
trong công cuộc xây dựng nông thôn mới đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm với nhiều chương trình, dự án hỗ trợ nhằm biến đổi không chỉ về số
lượng mà còn về chất lượng trong quá trình phát triển nền nông nghiệp nước
nhà. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được Chính phủ phê duyệt trở
thành chương trình mục tiêu quốc gia, đến nay chương trình xây dựng nông
thôn mới đã bước đầu có hiệu quả và đạt được một số kết quả quan trọng về
kinh tế - xã hội và kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo cũng như sự phối hợp giữa
các ngành, các cấp.
Phát triển nông nghiệp là ngành sản xuất khởi đầu của quá trình sản
xuất vật chất của xã hội loài người. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp có đặc
điểm phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên nên với nền sản xuất nông
nghiệp còn lạc hậu, tính chất bấp bênh của sản xuất nông nghiệp thể hiện rất
rõ, năm mưa thuận gió hoà, thời tiết thuận lợi, dịch bệnh ít thì được mùa cả
trồng trọt và chăn nuôi; ngược lại có năm thiên tai dịch bệnh, mất mùa. Đến
nay vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững được đề cập tới như một trong
những vấn đề vừa rất cơ bản vừa bức thiết có ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình
kinh tế xã hội của đất nước.



2
Phát triển nông nghiệp bền vững có thể nhìn nhận ở qui mô toàn quốc
và qui mô địa phương như một vùng, một tỉnh. Cũng như nhiều địa phương
khác, huyện Yên Lạc trong nhiều năm qua phát triển sản xuất nông nghiệp đạt
được những kết quả đáng ghi nhận nhưng nếu xem xét góc độ phát triển bền
vững thì đang còn những vấn đề bức xúc đặt ra. Như tốc độ tăng trưởng chưa
tương xứng với tiềm năng, mức độ đóng góp của nông nghiệp trong phát triển
kinh tế của huyện còn thấp, năng suất và sản lượng của các sản phẩm nông
nghiệp đang theo xu hướng phát triển theo chiều rộng (số lượng) chưa phát
triển theo chiều sâu (chất lượng)… Bên cạnh đó, nông nghiệp chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố bên ngoài tác động như thiên nhiên, tác động chính sách, tác
động yếu tố thị trường (giá cả đầu vào)… Xuất phát từ những yêu cầu thực tế
và bức thiết đang đặt ra đối với phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
của huyện Yên Lạc, tôi lựa chọn đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững
trên địa bàn huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến phát triển nông nghiệp bền
vững. Phân tích bài học kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp bền vững
và đúc kết bài học kinh nghiệm cho phát triển nông nghiệp bền vững trên địa
bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện
Yên Lạc theo hướ ng phá t triể n bề n vữ ng. Đá nh giá điể m mạ nh, tồ n tạ i và
thá ch thứ c trong quá trì nh phá t triể n nông nghiệ p củ a huyệ n Yên Lạ c,
tỉ nh Vĩ nh Phú c.
- Đề xuất giải pháp nhằm phát triển bền vững nông nghiệp huyện Yên
Lạc thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nông nghiệp huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng

phát triển bền vững.


3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung phát triển nông
nghiệp huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc trên quan điểm phát triển bền vững.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2009 đến 2013.
- Không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh
Phúc.
4. Đóng góp và ý nghĩa của đề tài
- Đề tài nghiên cứu nhằm hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong phát
triển nông nghiệp trên quan điểm phát triển bền vững.
- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh
Phúc để từ đó chỉ ra những điểm mạnh, tồn tại, thách thức trong phát triển
nông nghiệp trên quan điểm phát triển bền vững. Phân tích tác động lan tỏa
của phát triển nông nghiệp đến các lĩnh vực xã hội của huyện Yên Lạc.
- Đề xuấ t giả i phá p cơ bả n đả m bả o phá t triể n nông nghiệ p trong
thờ i gian tớ i trên đị a bà n huyện Yên Lạc, tỉ nh Vĩ nh Phú c. Kế t quả nghiên
cứ u củ a đề tà i sẽ là tà i liệ u tham khả o cho công tá c nghiên cứ u và vậ n
dụ ng trong thự c tiễ n quả n lý phá t triể n lĩ nh vự c nông nghiệ p đố i vớ i
huyệ n Yên Lạ c, tỉ nh Vĩ nh Phú c .
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp bền vững;
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu;
Chương 3. Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững huyện Yên Lạc
- tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009 - 2013;
Chương 4. Giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020.



4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
1.1. Khái quát chung về phát triển bền vững và phát triển nông nghiệp
bền vững
1.1.1. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững
1.1.1.1. Phát triển
Trước hết cần làm rõ khái niệm về phát triển, phát triển ban đầu được
các nhà kinh tế học định nghĩa là “tăng trưởng kinh tế” nhưng nội hàm của nó
từ lâu đã vượt khỏi phạm vi này, được nâng cấp sâu sắc hơn và chính xác hơn.
Theo từ điển Tiếng Việt “Phát triển” được hiểu là quá trình vận động, tiến
triển theo hướng tăng lên [10].
Theo Từ điểm Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học
chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là
một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn
tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong... nguồn gốc
của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” [11].
Phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế xã hội rộng lớn, trong khuân khổ
một định nghĩa hay một khái niệm ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội
dung rộng lớn của nó. Song nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh được các
nội dung cơ bản sau:
- Sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm giá trị sản lượng của
vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu
kinh tế hợp lý, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và ngoài nước.
- Sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải
thiện đời sống dân cư.



5
- Sự phát triển là quy luật tiến hóa, song nó chịu tác động của nhiều
nhân tố, trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn
nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng.
Có nhiều định nghĩa, nhiều khái niệm khác nhau về phát triển kinh tế
nhưng một cách chung nhất “phát triển kinh tế” được xem là tiến trình mà
theo đó các nước tăng cường khả năng sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp
ứng nhu cầu hàng ngày càng tăng của xã hội. Vì vậy, phát triển kinh tế là
phương thức duy nhất giúp cho tất cả các dân tộc trên khắp thế giới sống tốt
hơn, đặc biệt là các nước có mức thu nhập thấp và trung bình. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển kinh tế, dù muốn hay không muốn, tất cả các nước
dù nghèo hay giàu đều phải đối mặt với những thách thức lớn về môi trường
và những vấn đề này lại luôn liên quan chặt chẽ đến các nỗ lực nhằm xóa đói,
giảm nghèo và cải thiện mức sống.
Việc sử dụng khái niệm “phát triển” thay thế “tăng trưởng kinh tế” từ
lâu đã là bằng chứng cho sự hạn chế của việc sử dụng các thông số đo lường
như GDP để đánh giá sự phồn vinh của quốc gia. Thực tiễn phát triển ngày
nay cho thấy, khái niệm “phát triển” liên quan nhiều đến những vấn đề rộng
hơn, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như thành tựu giáo dục, tình trạng
dinh dưỡng, giá trị của những quyền tự do cơ bản và đời sống tinh thần.... Sự
chú trọng vào tính bền vững của phát triển đã đưa ra cách nhìn mới, cho rằng
điều quan trọng là các nỗ lực của chính sách phải nhằm đạt được những thành
tựu phát triển dài lâu trong tương lai. Theo cách tiếp cận này, nhiều nỗ lực
phát triển trong lịch sử chỉ mang lại lợi ích trước măt.
1.1.1.2. Phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” được nhắc đến vào những năm 30 - 40
của thế kỷ XX. Phát triển bền vững là một nhu cầu khách quan, là một tiền đề
của lịch sử, không chỉ liên quan đến sự tồn vong mà còn liên quan đến sự

trường tồn của mỗi quốc gia. Đến những năm 1950 - 1960, trên thế giới bắt


6
đầu xuất hiện những quan điểm khác nhau về phát triển bền vững, đó là sự
phát triển của các nước công nghiệp, họ coi trọng mục tiêu tăng sản lượng và
tăng trưởng thông qua chỉ tiêu đánh giá về tổng thu nhập quốc dân (GNP), thu
nhập quốc nội (GDP), hai chỉ tiêu này được các nước công nghiệp lấy làm
tiêu chuẩn về hiệu quả kinh tế cho những hoạt động trong nền kinh tế.
Cho đến đầu những năm 1970, nạn nghèo đói gia tăng ở các nước đang
phát triển đã khiến những người nghiên cứu về phát triển tập trung mọi nỗ lực vào
vấn đề cải thiện phân phối thu nhập. Quan điểm về phát triển lúc đó được chuyển
hướng sang sự tăng trưởng, song có bổ sung thêm nội dung phải bảo đảm bình
đẳng xã hội và đặc biệt là vấn đề giảm nghèo đói. Chỉ tiêu này được đánh giá là
một tiêu chuẩn quan trọng ngang bằng với tiêu chuẩn về hiệu quả kinh tế.
Những năm 1980, khi hàng loạt bằng chứng về sự xuống cấp nhanh
chóng của môi trường đã trở thành những thách thức nghiêm trọng đối với
phát triển thì vấn đề bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu thứ ba của sự
phát triển. Cũng khoảng thời gian này, thuật ngữ “phát triển bền vững” bắt
đầu xuất hiện và được nghiên cứu cụ thể.
Đã có nhiều định nghĩa, khái niệm về phát triển bền vững được nêu ra
qua các hội nghị, hội thảo quốc tế. Tuy nhiên, định nghĩa do Ủy ban thế giới
về môi trường và phát triển đưa ra trong Báo cáo “Tương lai của chúng ta”
năm 1987 dường như nhận được sự tán đồng của đa số quốc gia và nhiều nhà
nghiên cứu về phát triển bền vững. Nội dung của định nghĩa “Phát triển bền
vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại song không xâm hại
tới khả năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai” [19].
Nội hàm của định nghĩa trên rất rộng vì gắn với nhu cầu ngày càng cao
của con người, của sự kế tiếp các thế hệ. Song có thể thấy một lôgic là cứ những
vấn đề nào quyết định hoặc liên quan đến sự sống, sự tồn tại và phát triển của

con người hẳn sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gắn với PTBV. Vào thời điểm đó,
người ta mới chỉ nhận thấy ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường, còn một


7
thành tố vô cùng quan trọng được tiếp tục nhận thức trong cả quá trình tiếp theo
đó là văn hóa. Các cách tiếp cận trên thể hiện trong các nội dung:
Thứ nhất, cách tiếp cận kinh tế: Dựa vào luận điểm về tối đa hóa thu
nhập với chi phí tối thiểu của Hick - Landahl, bao gồm: chi phí nguồn tài sản,
tư bản, lao động. Ngoài ra, người ta còn dùng cách tiếp cận sử dụng tối ưu và
có hiệu quả những nguồn lực khan hiếm. Tuy nhiên, có một số vấn đề nảy
sinh khi sử dụng cách tiếp cận này. Chẳng hạn, dùng phương pháp gì để xác
định những loại tài sản không được đánh giá trên thị trường như tài nguyên,
hệ sinh thái... Mặc dù vậy, luận điểm này được áp dụng rộng rãi nhất là ở các
nước đang phát triển và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trong
những năm 1950 - 1960 và đầu những năm 1970. Mục tiêu hàng đầu của các
nước thời kỳ này là làm sao để giải được bài toán cho tăng trưởng và ổn định
kinh tế với hiệu quả kinh tế cao [4].
Thứ hai, cách tiếp cận xã hội: Với cách tiếp cận này, con người được coi
là trung tâm trong những quyết định về chính sách phát triển. Bên cạnh mục tiêu
phát triển kinh tế còn có quan điểm phát triển mang tính xã hội, nhằm bảo đảm
duy trì sự ổn định xã hội; giảm bớt những tác động tiêu cực về xã hội của sự phát
triển kinh tế; đảm bảo tính công bằng xã hội với mục tiêu giảm tỷ lệ dân số phải
sống trong nghèo đói. Đây là mục tiêu phát triển cơ bản của đất nước.
Thứ ba, cách tiếp cận môi trường: Được phổ biến rộng rãi từ đầu những
năm 1980, tập trung vào các vấn đề môi trường đang ngày càng trở nên nóng
bỏng trên thế giới. Quan điểm này lưu ý tới sự ổn định của hệ sinh thái và của
môi trường sinh thái. Đó cũng chính là những đối tượng chịu tác động mạnh của
các hoạt động kinh tế tại cả các nước đã phát triển và các nước đang phát triển.
Thứ tư, cách tiếp cận về văn hóa: Càng ngày người ta lại càng ý thức

được rằng, nếu một đất nước tăng trưởng nhanh, giàu có, nhưng tệ nạn xã hội
vẫn tràn lan, môi trường bị hủy hoạch một cách chủ ý hoặc vô ý thì không thể
đảm bảo sự PTBV. Căn nguyên là do xung đột của các nền văn hóa, trình độ


8
văn hóa thấp. Như vậy, quốc gia đó không thể gọi là một nước phát triển,
chưa nói là PTBV. Cuối cùng, vấn đề văn hóa từ lâu nay thường không được
đề cập nhiều, nay đã dần dần được nhìn nhận một cách khách quan hơn, được
đánh giá đúng với vị tri vốn có của nó. Hàng trăm khái niệm về văn hóa ra
đời, các chỉ tiêu nhân bản HDI (chỉ số phát triển con người - Human
Devolopment Index) đã được phân tích và bổ sung dần. Tiêu chuẩn về kinh tế
đã được kết hợp cùng với tiêu chuẩn về văn hóa - xã hội và môi trường. Đó là
một nhận thức hết sức quan trọng.
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “phát triển bền vững là một
loại hình phát triển mới, lồng ghép một quá trình sản xuất với bảo toàn tài
nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. PTBV cần phải đáp ứng các nhu
cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp
ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Định nghĩa này đã đề cập cụ thể
hơn về mối quan hệ ràng buộc giữa sự đáp ứng nhu cầu hiện tại với khả năng
đáp ứng nhu cầu tương lại, thông qua lồng ghép quá trình sản xuất với các
biện pháp bảo toàn tài nguyên, nâng cao chất lượng môi trường. Tuy nhiên,
định nghĩa này vẫn chưa đề cập được tính bản chất của các quan hệ giữa các
yếu tố của PTBV và chưa đề cập đến các nhóm nhân tố cụ thể mà quá trình
PTBV phải đáp ứng cùng một lúc, đó là nhóm nhân tố tạo ra tăng trưởng kinh
tế, nhóm nhân tố tác động thay đổi xã hội bao gồm những thay đổi cả về văn
hóa và nhóm nhân tố tác động làm thay đổi tài nguyên, môi trường tự nhiên.
Theo FAO - Tổ chức lương thực và Nông nghiệp thế giới: Phát triển
bền vững là việc quản lý và giữ gìn cơ sở của các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và định hướng các thay đổi về công nghệ và thể chế nhằm đạt được và

thỏa mãn nhu cầu của con người cho thế hệ ngày nay và thế hệ mai sau. Phát
triển bền vững với các kỹ thuật phù hợp, có lợi ích lâu dài về mặt kinh tế và
được xã hội chấp nhận cho phép gìn giữ đất, nước, các nguồn tài nguyên di
truyền thực vật và động vật, giữ cho môi trường không bị hủy hoại [6].


9
Như vậy, PTBV là một phương thức phát triển kinh tế - xã hội nhằm
giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã
hội và bảo vệ môi trường với mục tiêu đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của thế hệ
hiện tại đồng thời không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
mai sau. Hay nói cách khác: PTBV đó là sự phát triển hài hòa cả về kinh tế,
văn hóa, xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng sống của con người. Với khái niệm này có thể mở rộng với ba cấu
thành cơ bản về PTBV:
Về kinh tế: Một hệ thống bền vững về kinh tế phải có thể rạo ra hàng
hóa và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ
và nợ nước ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Về xã hội: Một hệ thống bền vững về xã hội phải đạt được sự công
bằng trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo
dục, bình đẳng giới, sự tham gia và trách nhiệm chính trị của mọi công dân.
Về môi trường: Một hệ thống bền vững về môi trường phải duy trì nền
tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh
hay những vận động tiềm ẩn của môi trường và việc khai thác các nguồn lực
không tái tạo không vượt quá mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ.
Điều này bao gồm việc duy trì sự đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các
hoạt động sinh thái khác mà thường không được coi nhu các nguồn lực kinh tế.
Với ba trụ cột của PTBV là: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường, PTBV đã tập trung và nhấn mạnh đến việc phải thực hiện

đồng thời ba nội dung trên [2].
1.1.2. Cơ cở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững
1.1.2.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
Phát triển nông nghiệp bền vững được nhận thức từ định nghĩa phát
triển bền vững. Theo FAO đưa ra khái niệm phát triển nông nghiệp bền


10
vững (năm 1992): " Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo
tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo thoả mãn ngày càng
tăng của con người cả trong hiện tại và mai sau. Sự phát triển như vậy
của nền nông nghiệp sẽ không làm tổn hại đến môi trường, không làm
giảm cấp tài nguyên phù hợp với kỹ thuật và công nghệ, có hiệu quả kinh
tế được xã hội chấp nhận" [5].
Sự phát triển nông nghiệp một cách bền vững vừa đảm bảo thoả mãn
nhu cầu hiện tại ngày càng tăng về sản phẩm nông nghiệp vừa không giảm
khả năng đáp ứng những nhu cầu của nhân loại trong tương lai. Mặt khác,
phát triển nông nghiệp bền vững vừa theo hướng đạt năng suất nông nghiệp
cao hơn, vừa bảo vệ và giữ gìn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo sự cần bằng có
lợi về môi trường [16].
Phát triển nông nghiệp bền vững là bảo tồn đất đai, nguồn nước, các
nguồn di truyền động, thực vật, là môi trường không thoái hoá, kỹ thuật phù
hợp, kinh tế phát triển và một xã hội chấp nhận được [7].
Điều cơ bản nhất của phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện chất
lượng cuộc sống trong sự tiếp cận đúng đắn về môi trường, để giữ gìn những
tài nguyên cơ bản nhất cho thế hệ sau (dẫn theo hội nghị khoa học đất Việt
Nam, 2000).
Như vậy, phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm cả lâm nghiệp
và ngư nghiệp) là quá trình sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái

trên cơ sở đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu của con người trong hiện tại,
tương lai và được xã hội chấp nhân [12].
1.1.2.2. Đặc trưng phát triển nông nghiệp bền vững
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất trong đó
hoạt động của con người phù hợp với các quy luật phát triển của tự nhiên,
khai thác và bồi dưỡng được tự nhiên được thực hiện trong cùng một quá


11
trình, nhờ đó duy trì được môi trường tự nhiên cho đời sống trường tồn của
mọi thế hệ.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất nông nghiệp
đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, dựa trên cơ sở ứng dụng thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại sản xuất.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp sử dụng
tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo sự tăng trưởng.
Thứ tư, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất nông nghiệp
có cơ cấu kinh tế hợp lý. Nói đến cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp là nói đến
cơ cấu giữa chăn nuôi và trồng trọt .
Thứ năm, phát triển nông nghiệp bền vững là nền sản xuất nông nghiệp
bảo đảm được công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, tạo được
cơ sở vật chất cho phát triển nông thôn mới.
Thứ sáu, phát triển nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp, trong đó
đòi hỏi trình độ của người lao động ngày càng cao [1].
1.1.2.3. Các điều kiện bảo đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững
Hoạch định chiến lược và kế hoạch: Trong giai đoạn khủng hoảng
kinh tế thế giới, bất ổn trên thị trường, lạm phát tăng cao, cán cân thương mại
và ngân sách thâm hụt có thể giải quyết bằng một số biện pháp mạnh, bằng
việc thực thi quyết liệt các biện pháp đó trước nguy cơ bất ổn xã hội. Để tăng
trưởng và phát triển bền vững thì các quốc gia, nền kinh tế, các địa phương

cần phải xây dựng những tiền đề về chính sách, cơ chế, chiến lược và kế
hoạch nhằm hạn chế những vấn đề bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô cũng như
kinh tế vi mô.
Phát triển nông nghiệp bền vững giai đoạn hiện nay và tương lai, các
quốc gia, vùng miền và từng địa phương cần hiểu được cơ chế chính sách trong
giai đoạn mới, đặc tính này gồm hai vấn đề: (1) Khác với giai đoạn trước trong
đó tăng trưởng chủ yếu do sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai,


12
vốn; trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải tăng năng suất tổng hợp đa yếu tố dựa
trên việc áp dụng công nghệ tiên tiến, cải tiến quản lý, giảm phí tổn. Trong giai
đoạn toàn cầu hóa, một nền nông nghiệp bền vững là phải liên tục tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường. (2) Trong nền kinh tế thị trường, phát triển nông
nghiệp cần phát triển theo chiều sâu, đảm bảo hệ thống nông nghiệp phát triển ổn
định thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Như vậy, để phát triển bền vững,
phải xây dựng một cơ chế, một hệ thống chính sách chiến lược khác về chất
lượng và ở trình độ cao hơn giai đoạn trước.
Lựa chọn cơ cấu hợp lý trong phát triển nông nghiệp: Hiệu quả cuối
cùng để đánh giá một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tiến bộ có thể bằng thu
nhập chung của nền kinh tế hay mức sống dân cư được cải thiện rõ nét nhưng
cần lưu ý đến “độ trễ về thời gian”, có nghĩa là tác dụng của một biện pháp
nào đó trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực hiệu quả có thể đem lại
sau thời gian bao nhiêu năm. Bởi vậy, muốn lựa chọn cơ cấu hợp lý đảm bảo
phát triển bền vững cần phải xem xét đến các yếu tố: Tăng trưởng và phát
triển nông nghiệp phải gắn với phát triển xã hội; Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp phải theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế; Phát triển nông nghiệp phải gắn với xây dựng an ninh lương thực, quốc
phòng an ninh; Phát triển nông nghiệp phải tính đến tính chất vùng miền,
tránh tình trạng mất cân bằng trong cơ cấu nông nghiệp nhằm đảm bảo công

bằng xã hội; Đầu tư trong phát triển nông nghiệp cần tính đến hiệu quả kinh
tế, không đầu tư mang tính chủ quan như chính sách công bằng xã hội, cơ cấu
đồng đều giữa các vùng, miền; Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp cần
phát huy thế mạnh từng địa phương, vùng miền, tận dụng nguồn tài nguyên
và nguồn lao động để phát huy hiệu quả các nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật: Đầu tư xây dựng và phát triển kết
cấu hạ tầng trong nông nghiệp là một trong những chính sách quan trọng, có
tác động tích cực đến sự thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


13
Để phát triển nông nghiệp bền vững, chính sách này ngày một giữ vị trí quan
trọng đối với lĩnh vực nông nghiệp của các quốc gia đặc biệt là các nước đang
phát triển, chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng được hiểu là chính sách
huy động và phân bổ nguồn lực bằng tiền, tài sản vật chất và sức lao động bỏ
vào đầu tư để tạo ra những kết cấu hạ tầng thiết yếu tố phục vụ sản xuất trong
thời gian dài. Kết cấu hạ tầng phát triển là điều kiện đảm bảo cho nông nghiệp
phát triển mà còn tạo khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế.
Vốn đầu tư phát triển: Vốn là yếu tố sản xuất cơ bản, gồm: vốn vật chất
và vốn tài chính. Vốn vật chất là toàn bộ tư liệu vật chất tích lũy được trong
nền kinh tế như máy móc, thiết bị và các trang thiết bị sử dụng như những yêu
tó đầu vào của sản xuất. Vốn tài chính là nguồn vốn tích lũy chủ yếu dưới
dạng tiền từ các nguồn tích lũy cơ bản trong nền kinh tế. Việc huy động
nguồn vốn, đặc biệt là nguồn tích lũy nội bộ có ý nghĩa lớn đối với phát triển
nông nghiệp bền vững. Để tăng cường huy động nguồn vốn, tăng lượng vốn
huy động trong nền kinh tế, đa dạng hóa hình thức huy động, sử dụng hiệu
quả các nguồn vốn, đặc biệt là vốn đầu tư.
Trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ : Khả năng nghiên cứu và
ứng dụng công nghệ, tổ chức chuyển giao ứng dụng công nghệ vào thực tiễn
sản xuất trong nông nghiệp. Nguồn lực khoa học - công nghệ gồm hai nội

dung chủ yếu: (1) Nghiên cứu khoa học tạo ra công nghệ mới; (2) Tổ chức
chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Để tăng cường nguồn lực khoa
học - công nghệ, cần thiết phải phát triển tiềm lực khoa học công nghệ mà
trước hết là đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học; chú trọng đào tạo và sử
dụng nguồn lực con người; đầu tư kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa
học, tăng cường chuyển giao công nghệ, tiếp thu và nội địa hóa công nghệ tư
bên ngoài, có chính sách hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ phù hợp.
Phát triển nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực thực chất là đảm
bảo đáp ứng về nguồn cung nhân lực để phát triển cho nông nghiệp nói riêng


14
và các ngành kinh tế nói chung trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục
đáp ứng các nhu cầu phát triển trong tương lai. Một nguồn nhân lực được coi
là bền vững phải đảm bảo các yêu cầu: (1) Xây dựng phát triển và sử dụng
nguồn nhân lực không mang tính tự phát mà phải được đặt trong tổng thể
chiến lược và kế hoạch xây dựng. (2) Trong quá trình xây dựng, phát triển và
phát huy nguồn nhân lực phải luôn giữ được một cơ cấu về số lượng hợp lý,
có nghĩa nó phải được xây dựng trên một quy mô dân số vừa phải không quá
đông và cũng không quá ít so với yêu cầu phát triển của lĩnh vực nông nghiệp.
(3) Chất lượng nguồn nhân lực phải đảm bảo tăng dần phù hợp với nhu cầu và
trình độ phát triển nền kinh tế nói chung cũng như lĩnh vực nông nghiệp nói
riêng. Chất lượng của nguồn nhân lực có tính bền vững phản ánh được mức
độ đáp ứng yêu cầu phù hợp với khả năng phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu. (4) Việc sử dụng nguồn nhân lực phải đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả
phù hợp với yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn. Tính hợp lý và hiệu quả
trong sử dụng nguồn nhân lực thể hiện ở chỗ xã hội tạo ra những công việc
phù hợp nhằm tận dụng tối đa năng lực nguồn nhân lực hiện có, bố trí và sử
dụng nguồn nhân lực cũng phải phù hợp với cơ cấu số lượng nguồn nhân lực
được sử dụng trong từng ngành, vùng trong lĩnh vực nông nghiệp [9], [17].

1.1.3. Sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp bền vững
Trong quá trình công nghiệp hoá và thị trường hoá, nông nghiệp các
nước chuyển dần từ chế độ thâm canh truyền thống lên thâm canh hiện đại.
Với áp lực về dân số tăng quá nhanh (2-3%/năm), với động lực thuận lợi
trong cơ chế thị trường, nhất là động lực lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư
bản, nông nghiệp đã phát triển theo kiểu khai thác tuỳ tiện, thiếu định hướng
các nguồn thiên nhiên dẫn tới những hiện tượng phổ biến đang trở thành lỗi lo
cho xã hội như: Lấy vùng đất mầu mỡ thuận tiện cho SXNN, là nguồn thu
nhập thường xuyên ổn định của hàng triệu người nông dân đã có nhiều thế hệ
gắn bó với đất đai và cây trồng để phát triển công nghiệp theo hướng mạnh ai


15
lấy làm; tốc độ phá rừng lấy đất trồng trọt vượt quá tốc độ tái sinh của nó.
Việc áp dụng cơ giới hoá, hóa học hoá và thuỷ lợi hoá chưa lấy công nghệ
sinh học và cải thiện tầng thổ nhưỡng làm trung tâm. Những hành động khai
thác mang tính huỷ hoại thiên nhiên trong nông nghiệp cùng với quy mô và
tốc độ khai thác tài nguyên quá lớn, quá nhanh, lượng chất thải quá nhiều
trong công nghiệp hoá đang làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi
trường rất nghiêm trọng. Cụ thể là:
Theo báo cáo của FAO: Hàng năm, diện tích rừng trên thế giới bị giảm
16,1 triệu ha, trong đó rừng nhiệt đới giảm 15,2 triệu ha và trồng mới 3,1 triệu
ha, trong đó vùng nhiệt đới trồng 1,9 triệu ha...Diện tích rừng giảm nhanh
vàmạnh đã gây lũ lớn, làm lở đất, xói mòn nghiêm trọng, làm suy yếu khả
năng chắn gió, bão và năng lực thanh lọc không khí.
Đất đai nông nghiệp bị sa mạc hoá, bán sa mạc và ô nhiễm nghiêm
trọng, 10% diện tích đất trên thế giới có khả năng trồng trọt đã bị sa mạc hoá
và còn khoảng 25% đang bị đe doạ. Hàng năm có 8,5 triệu ha và 20 tỷ tấn đất
trồng trọt bị mất do xói mòn. Việc sử dụng quá nhiều các vật tư hoá học như
các loại phân N,P,K, các chất diệt cỏ, trừ sâu làm cho dư lượng chất hoá học

đọng lại trong đất ngày càng nhiều. Chất thải công nghiệp thải bừa bãi ra
sông, ra đầm cũng góp phần làm ô nhiễm đất và nước nghiêm trọng. Ô nhiễm
đất làm giảm năng suất và chất lượngsản phẩm cây trồng, đe doạ sự sống của
các sinh vật và cây trồng trong khu vực bị ô nhiễm.
Đa dạng sinh học đang bị suy giảm nhanh chóng, nhiều loài đang ở
mức báo động. Do kết quả tiến hoá hàng tỷ năm trong thiên nhiên có 5 đến 10
triệu loài sinh vật được phân bố theo quần thể loài đặc trưng trong từng hệ
sinh thái. Sự dịch chuyển sinh loài thường là do biến đổi của môi trường mà
môi trường thay đổi lại chịu tác động của các hiện tượng bất thường trong
thiên nhiên như động đất, bão, lụt, biến đổi khí hậu và sự khai thác tàn bạo
của con người. Nếu không có biến động lớn của các yếu tố tự nhiên thì tốc độ


16
diệt chủng các loài do con người gây ra cao gấp 1.000 lần so với thiên nhiên.
Chỉ trong thế kỷ 20 đã có 75% giống cây trồng bị tuyệt chủng và khoảng 30%
trong số 4.500 loài gia súc và gia cầm đã biết trên trái đất có nguy cơ bị biến
mất. Sự mất đi các loài, sự suy giảm đa dạng sinh học đã làm mất đi sự cân
bằng sinh thái của nhiều vùng, mất đi nguồn gen quý giá và tính đa dạng của
gen- vốn quý nhất của sự sống.
Nguồn nước ngọt sạch ngày càng khan hiếm. Nước là nguồn tài
nguyên có hạn lại phân bố không đều. Khoảng 96% nước trên trái đất là nước
mặn chứa trong các đại dương, chỉ có 2,5% nguồn nước ngọt có thể dùng cho
trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp và sinh hoạt cho con người. Thế nhưng dân
số đang tăng nhanh, nông nghiệp và công nghiệp phát triển với quy mô ngày
càng lớn đòi hỏi cần có nhiều nước sạch trong khi đó diệntích chứa đựng
nước bị ô nhiễmngày càng tăng lên. Hiện nay, khoảng 40% lưu lượng các
sông trên thế giới bị ô nhiễm. Theo ước tính của Liên hiệp quốc, mức độ ô
nhiễm nguồn nước trên thế giới có thể tăng lên 10 lần trong vòng 25 năm tới.
Nạn thiếu nước hiện nay xảy ra trên diện tích lớn, hơn 100 nước trong số 213

nước bị thiếu nước nghiêm trọng. Hiện tượng mua nước ở vùng khô cằn, hạn
hán là chuyện thường, giá nước có nơi còn cao hơn giá dầu hoả, thậm chí
phảitranh nhau nguồn nước là nguyên nhân gây ra các cuộc chiến tranh giữa
một số nước.
Với tốc độ khai thác chóng mặt như hiện nay dẫn đến nguy cơ cạn
kiệtvà không phục hồi đượccác loại tài nguyên, khoáng sảnngày càng tăng do
đó vấn đề sử dụng các năng lượng sạch, tìm kiếm các vật liệu mới để thay thế
các loại năng lượng và vật liệu truyền thống đang được đặt ra cấp thiết trước
nhân loại và với từng quốc gia.
Ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn và ô nhiễm nguồn nước đã tăng
lên đến mức báo động trên nhiều vùng, nhiều nước nhất là trong các thành
phố, đô thị. Hiện có đến 50% dân số thành thị trên thế giới sống trong môi


17
trường không khí có mức khí CO2 vượt quá tiêu chuẩn, hơn 1 tỷ người
sống trong môi trường có bụi than, bụi phấn vượt quá mức độ cho phép.
Nhiều vùng trên thế giới thường xảy ra các trận mưa axit (80% hồ ở Nam
Nauy bị axit hoá).
Ô nhiễm tiếng ồn tồn tại thường xuyên trong hầu hết các thành phố nhất
là ở các nước đang phát triển - nơi mà máy móc thiết bị phần nhiều thuộc thế
hệ cũ, chưa có hệthống xử lý tiếng động, tiếng ồn. Tiếng ồn trực tiếp làm tổn
hại hệ thần kinh, sức khoẻ, trí tuệ, tình hình và năng lực làm việc của con
người. Sựtác hại của nó đối với con người mang tính day dứt thường ngày
nhiều hơn so với bụi và các ô nhiễm không khí khác.
Sự suy giảm tầng ôzôn làm tăng hiệu ứng nhà kính, tăng nhiệt độ khí
quyển dẫn đến sự mất ổn định khí hậu và gia tăng các tai hoạ thiên nhiên.
Hàng năm ngành công nghiệp và giao thông vận tải thải ra hàng trăm triệu tấn
khí thải gây ô nhiễm bầukhí quyển, đặc biệt trong đó các chất khí gây hiệu
ừng nhà kính chiếm tỷ trọng không nhỏ, chúng làm mỏng tầng ôzôn. Sự suy

giảm tầng ôzôn đã làm cho hiện tượng bức xạ vũ trụ, nhất là tia tử ngoại
xuyên qua các lớp khí quyển xuống tận mặt đất, trực tiếp uy hiếp sức khoẻ, sự
sống của con người và mọi loài sinh vật, đồng thời nó là nguyên nhân chính
làm cho nhiệt độ tái đất ngày càng cao. Trong khoảng 30 năm qua, nhiệt độ
trung bình/năm toàn cầu đã tăng 0,6oC, phần lớn giá trị đó là kết quả sự tăng
nhiệt độ trong vòng 20 năm gần đây. Theo dự báo, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên
từ 1,5 đến 4,50C vào năm 2030.
Việc tăng dần nhiệt độ làm tan băng ở hai cực từ đó dâng cao mực
nước và nhiệt lượng nước ở đại dương. Trong 100 năm qua (từ 1996 về trước
mực nước biển dâng cao 21cm). Nhưng với tốc độ tăng gia tốc hiện nay của
nhiệt độ thì mực nước biển năm 2020-2030 sẽ dâng cao lên trên 1m làm ngập
chìm khoảng trăm triệu ha các vùng ven biển, thu hẹp hàng chục triệu ha đất
nông nghiệp tốt, huỷ hoại hàng trăm đô thị lớn, uy hiếp cuộc sống của hàng


18
trăm triệu người. Nhiệt độ không khí và nước biển tăng lênlàm đảo lộn khí
quyển trái đất, các dòng khí lưu biến động thất thường, các dòng hải lưu
vậnđộng chệch hướng và đổi hướng do đó khí hậu thất thường và đỏng đảnh,
gây ra những thiên tai lớn và thường xuyên hơn trên toàn cầu. Các hiện tượng
Eninô và Lanina xảy ra với tần suất ngày càng nhiều hơn, phạm vi hoạt động
ngày càng rộng hơn và sức công phá ngày càng lớn hơn. Trong những năm
gần đây, hiện tượng thiên tai trên thế giới đã gây ra những tổn thất chung về
vật chất lên tới 93 tỷ USD, tăng gấp rưỡi so với 60 tỷ USD năm 1996. Số
người chết hàng năm do thiên tai thường trên hàng chục ngàn người. Tốc độ
tăng số người chết và thương vong do thiên tai trong 30 năm qua là 6%/năm,
gấp 3 lần tốc độ tăng dân số.
Tóm lại, sự ô nhiễm môi trường, sự cạn kiệt tài nguyên do con người gây ra
vượt quá sự chịu đựng và khả năng tái sinh của trái đất đang làm thiên nhiên nổi
giận và trừng phạt sự uy hiếp sự sống trên trái đất, trong đó có loài người.

Trước thực trạng đáng lo ngại đó, từ tháng 6/1972, Hội nghị Liên hiệp
quốc tế về môi trường ở Stockhom đã ra tuyên bố kêu gọi: “Bảo vệ và cải
thiện môi trường của con người là một vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi
của các dân tộc và phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Đó là khát khao khẩn
cấp của các dân tộc trên thế giới và là nhiệm vụ của mọi Chính phủ”. Hai
mươi năm sau, Hội nghị Rio 92 ở Braxin đã ra tuyên bố mang tính đòi hỏi và
thông qua “Chương trình hành động 21” đối với mọi quốc gia và Chính phủ.
Những quan điểm chủ yếu của bản tuyên bố Rio như sau:
- Các quốc gia có chủ quyền khai thác tài nguyên trên đất nước mình
song phải có trách nhiệm đảm bảo không gây tác hại đến môi trường ở các
nước và khu vực xung quanh. Sự phát triển bền vững không chỉ cho thế hệ
ngày nay mà cho cả thế hệ mai sau.


19
- Xoá bỏ đói nghèo và giảm chênh lệch về mức sống giữa nhân dân nước
giàu và nước nghèo, coi đó là điều kiện và biện pháp của phát triển bền vững.
- Các nước phát triển đã công nhận trách nhiệm của họ trong sự mưu cầu
quốc tế và sự phát triển lâu bền do áp lực mà xã hội của họ gâyra cho môi trường.
- Cần ưu tiên đặc biệt cho những nhu cầu của các nước đang phát triển.
- Các quốc gia cần giảm dần và loại trừ những lỗi sản xuất và tiêu dùng
không bền vững bằng cách nâng cao hiểu biết khoa học và chuyển giao công
nghệ, kể cả những công nghệ mới.
- Các nước cần ban hành pháp luật và các tiêu chuẩn về môi trường phù
hợp với bối cảnh về sinh thái và trình độ phát triển của mình, nhất là ở các
nước đang phát triển.
- Các quốc gia cần hợp tác ngăn chặn việc chuyển giao cho quốc gia
khác bất cứ hoạt động hoặc chất gì xét thấy có hạicho sức khoẻ con người,
môi trường.
- Các nước cố gắng đẩy mạnh quốc tế về những chi phí môi trường và

sử dụng những chế tài đối với kẻ làm suy giảm môi trường theo nguyên tắc
gây ô nhiễm phải chịu phí tổn xử lý để phục hồi môi trường.
Tuyên bố Rio 1992 và chương trình hành động 21 đánh dấuviệc phát
triển kinh tế trên thế giới bắt đầu chuyển sang một thời kỳ mới. Đó là phát triển
kinh tế bền vững nhằm mưu cầu lợi ích không chỉ cho thế hệ ngày nay mà cho
cả thế hệ mai sau phát triển kinh tế đi liền với bảo vệ môi trường sinh thái, phát
triển hiệu quả đi đôi với việc thực hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Riêng trong nông nghiệp đó là phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững
trên cơ sở lôi cuốn nông dân thực hiện và tham gia tổ chức việc thực hiện [8].
1.1.4. Các nhân tổ ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp bền vững
1.1.4.1. Tác động của khủng hoảng kinh thế thế giới
Trong giai đoạn từ 2007 đến nay, thế giới phải đối mặt với ba khó khăn
nghiêm trọng: khủng hoảng tài chính, biến động tăng giá nhiên liệu và giá


20
lương thực trên quy mô toàn cầu. Do vậy, phát triển nông nghiệp bền vững trở
nên phức tạp hơn bởi những tác động tiêu cực của các khó khăn này.
Biến động tăng giá lương thực ảnh hưởng trực tiếp, làm tăng giá lương
thực trong nước và xuất khẩu. Gia tăng đột biến giá lương thực cũng gây ra
các ảnh hưởng gián tiếp như làm tăng lạm phát; tăng tỷ lệ nghèo ở đô thị và
trong nhóm cư dân không sản xuất lương thực (điển hình là người dân sống ở
thành phố và lao động phi nông nghiệp ở nông thôn).
Khủng hoảng giá nhiên liệu tác động trực tiếp tới giá đầu vào sản xuất
đối với các ngành kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng, do đó làm tăng
chi phí sản xuất của các thành phần kinh tế và chi tiêu cho nhiên liệu của
người dân, hậu quả là làm tăng giá cả hàng hóa nói chung và ảnh hưởng tiêu
cực đến mức sống. Đặc biệt, đối với người nông dân, chiếm gần ½ lực lượng
lao động, tăng giá nhiên liệu còn làm tăng giá các đầu vào khác cho sản xuất
nông nghiệp, khiến cho thu nhập ròng của người sản xuất nông nghiệp chịu

ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, an ninh năng lượng và nguy cơ thiếu hụt
năng lượng phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước đang hiện hữu.
Với mức tăng dân số hiện nay, tình trạng thiếu hụt năng lượng trầm trọng đã
và sẽ tiếp diễn nếu Việt Nam không sớm tìm ra giải pháp bổ sung nguồn cung
ứng năng lượng tương ứng và thực hiện chiến lược phát triển năng lượng theo
hướng bền vững. Theo nghiên cứu gần đây, tiêu thụ điện năng của Việt Nam
được dự báo sẽ tăng gấp 8 lần từ 2005 đến 2025 với sự phụ thuộc ngày càng
lớn hơn vào nguồn tài nguyên không tái tạo. Nếu vẫn tiếp tục duy trì sử dụng
nguồn năng lượng dựa vào tài nguyên không tái tạo thì từ một nước xuất khẩu
các tài nguyên hóa thạch dạng rắn và lỏng như hiện nay, Việt Nam sẽ trở
thành nước nhập khẩu than, dầu và khí đốt chỉ trong thập kỷ tới.
Khủng hoảng tài chính nhất là khủng hoảng nợ công ở các nước tác
động theo các kênh thương mại, đầu tư và du lịch. Xuất khẩu sẽ gặp khó khăn
do nhu cầu thị trường thế giới bởi khủng hoảng xảy ra ở các nước bạn hàng


21
của Việt Nam. Đồng thời, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân cũng sẽ
thêm khó khăn do các doanh nghiệp nước ngoài gặp khó khăn phải cắt giảm
việc đầu tư vốn sang các nước khác. Thêm vào đó, doanh thu từ các hoạt động
du lịch cũng suy giảm do lượng khách du lịch ít đi vì lý do tiết kiệm chi phí.
Thông qua các kênh xuất khẩu và đầu tư, khủng hoảng sẽ gây ra khó khăn về
nguồn vốn và thị trường giá cả hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp trong
nước. Khó khăn này sẽ dẫn tới gia tăng thất nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực
nông nghiệp, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, cắt giảm tiền lương từ đó tạo
nên gánh nặng về an sinh xã hội cho Chính phủ.
1.1.4.2. Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu (BĐKH) mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước
biển dâng hiện nay, là thách thức nghiêm trọng nhất đối với nhân loại trong
thế kỷ 21. Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan như là hệ quả của

BĐKH hiện đang hoành hành ngày càng nhiều và khốc liệt ở khắp mọi nơi
trên thế giới. BĐKH tác động trực tiếp tới các Mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ và được coi là thách thức lớn cho PTBV. BĐKH tác động ngày càng rõ rệt
lên tất cả các thành phần môi trường bao gồm cả môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội và sức khỏe con người trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, mức
độ tác động của BĐKH có khác nhau: nghiêm trọng ở các vùng có vĩ độ cao
và ít hơn tại các vùng khác, sẽ lớn hơn ở các nước nhiệt đới, nhất là các nước
đang phát triển công nghiệp nhanh ở Châu Á. Trong đó, những người nghèo,
những người ít góp phần gây ra BĐKH nhất thì lại phải chịu những thiệt hại
sớm nhất và nghiêm trọng nhất do BĐKH gây ra. Việt Nam được cho là một
trong số rất ít quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi
khí hậu. Trong thời gian qua, BĐKH đã hiện hữu ngày càng rõ rệt, nhất là sự
gia tăng thiên tai và đã gây nhiều thiệt hại về người và của cho nhiều khu vực,
đặc biệt là ở ven biển miền Trung. Gần đây, dưới tác động của BĐKH, mưa
và lượng mưa diễn biến thất thường, hạn hán, úng lụt cục bộ xảy ra thường


22
xuyên và trên diện rộng, gây thiệt hại rất lớn cho sản xuất và đời sống. Báo
cáo của Ngân hàng Thế giới (2008) đã chỉ ra rằng, với mực nước biển dự báo
dâng cao 1 m vào năm 2100 thì nền kinh tế Việt Nam sẽ chịu thiệt hại khoảng
17 tỷ đô la Mỹ hàng năm, gây ngập 12% diện tích đất ven biển và ảnh hưởng
tới cuộc sống của 23% dân số sinh sống tại khu vực này.
1.1.4.3. Tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt
Trong thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau, tài nguyên
thiên nhiên, nhất là tài nguyên nước, tài nguyên ĐDSH bị suy thoái nghiêm
trọng. Ở một số địa phương, tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản đã bị khai
thác đến mức cạn kiệt hoặc rất lãng phí.
Tài nguyên nước: Do những nguyên nhân khác nhau, trong đó hai
nguyên nhân chủ yếu là do sự khai thác quá mức cho những mục đích khác

nhau và BĐKH, sự suy thoái tài nguyên nước ở Việt Nam đang diễn ra ngày
càng nghiêm trọng. Thêm vào đấy, trong những năm gần đây, các nước ở khu
vực thượng nguồn của các con sông lớn chảy vào Việt Nam xây dựng nhiều
công trình (đập, hồ chứa nước) để khai thác và phát triển thủy nông, thủy điện
quy mô lớn khiến nguồn nước chảy vào Việt Nam ngày càng hạn chế. Nước
cần cho sự sống (cho bản thân con người và thế giới sinh vật), cho phát triển
nông nghiệp, công nghiệp... Vì vậy, sự suy thoái tài nguyên nước sẽ là yếu tố
rất quan trọng tác động trực tiếp tới đời sống con người, phát triển kinh tế - xã
hội và PTBV nói chung.
Tài nguyên đa dạng sinh học: Việt Nam có ĐDSH cao, được xếp thứ
16 trong số các quốc gia có đa dạng sinh học cao nhất thế giới và cũng có
nhiều thách thức trong việc bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này. Trong thời
gian qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ĐDSH của Việt Nam đã bị suy
thoái tới mức báo động. Về mức độ suy thoái, Việt Nam được xếp vào nhóm
15 nước hàng đầu thế giới về số loài thú, nhóm 20 nước hàng đầu về số loài
chim, nhóm 30 nước hàng đầu về số loài thực vật và lưỡng cư. Trước hết là


23
suy thoái rừng, hệ sinh thái có ĐDSH cao nhất, đã giảm độ che phủ từ 72%
(1909) xuống 43% (1941), xuống 28% (1995). Rừng ngập mặn, trong gần 5
thập kỷ qua, diện tích đã giảm tới 70% do chất độc hóa học sử dụng trong
chiến tranh trước đây và do phong trào nuôi tôm công nghiệp trong thời gian
gần đây. Nhờ các phong trào trồng cây, trồng rừng, nhất là Chương trình
trồng mới 5 triệu ha rừng, độ che phủ rừng đã tăng lên một cách rõ rệt tới
39,5% vào năm 2010 và hy vọng 47% vào năm 2020. Tuy diện tích rừng có
tăng lên, nhưng chủ yếu là rừng trồng và rừng nghèo. Còn rừng giàu thì tăng
hầu như không đáng kể và rừng nguyên sinh chỉ còn 0,57 triệu ha phân bố rải
rác, chiếm chỉ khoảng 8% tổng diện tích rừng trong cả nước (trong khi các
nước trong khu vực Đông Nam Á là 50%). Về đa dạng loài, trong Sách Đỏ

Việt Nam năm 1992 mới chỉ có 721 loài động, thực vật bị đe dọa ở các mức
độ khác nhau. Đến năm 2007 số loài này đã lên tới 882 loài. Ngoài ra, nhiều
giống cây trồng và vật nuôi như: lúa, đậu tương, ngô, cây ăn quả, các loài cá,
lợn, gà… bản địa cũng đã mất dần. Đây là một tổn thất rất lớn trên tất cả các
phương diện: kinh tế, khoa học, môi trường và nhân văn. Mặt khác, dưới tác
động của BĐKH, sự suy thoái các hệ sinh thái, nhất là các hệ sinh thái đất
ngập nước ven biển sẽ gia tăng và theo dự đoán, một làn sóng tuyệt chủng của
các loài động, thực vật sẽ diễn ra với tốc độ chưa từng có trong những năm
giữa thế kỷ này. Sự suy thoái ĐDSH dẫn tới sự giảm sút về dịch vụ các hệ
sinh thái, làm ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân, làm giảm sút
vốn tự nhiên để phát triển xã hội, làm gia tăng thiên tai và sự cố môi trường
và tất cả sẽ là một thách thức lớn cho PTBV của đất nước.
Tài nguyên đất: Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 33.120.200 ha,
xếp hàng thứ 58 trong tổng số 200 nước trên thế giới, nhưng vì dân số đông
nên diện tích đất bình quân đầu người thuộc loại rất thấp (0,11 ha/người), xếp
thứ 159 và bằng 1/6 bình quân của thế giới. Diện tích đất canh tác vốn đã thấp
nhưng lại giảm theo thời gian do sức ép tăng dân số, đô thị hóa, công nghiệp


24
hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng. Thêm vào đấy, chất lượng đất ngày
càng bị suy giảm do các loại hình suy thoái đất khác nhau, bao gồm: (i) Xói
mòn, rửa trôi, sạt và trượt lở đất; (ii) Suy thoái hóa học (mặn hóa, chua hóa,
phèn hoá); (iii) Mất chất dinh dưỡng (muối khoáng và chất hữu cơ); (iv) Ô
nhiễm, đặc biệt là do các muối kim loại nặng và hóa chất nông nghiệp; (vi)
Hoang mạc hóa. Trong thời gian gần đây, dưới tác động của biến đổi khí hậu,
các quá trình này, nhất là mặn hóa, hoang mạc hóa, xói mòn, rửa trôi và sạt lở
đất có xu hướng gia tăng. Sự suy thoái đất sẽ dẫn đến giảm năng suất cây
trồng, vật nuôi, làm nghèo thảm thực vật, suy giảm đa dạng sinh học. Đồng
thời chúng có tác động ngược lại càng làm cho quá trình xói mòn, thoái hóa

đất diễn ra nhanh hơn. Sự tích tụ các chất độc hại, các kim loại nặng trong đất
sẽ làm tăng khả năng hấp thụ các nguyên tố có hại trong cây trồng, vật nuôi
và gián tiếp gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người.
Tài nguyên khoáng sản: Việt Nam tuy là nước có nhiều loại khoáng sản
nhưng trữ lượng hầu hết các loại không nhiều. Nhiều loại khoáng sản bị khai
thác quá mức, đang dần cạn kiệt. Trữ lượng than đồng bằng ven biển cũng chỉ
còn khai thác trong vòng 30 năm nữa, dầu khí trên thềm lục địa còn khoảng
20 năm nữa nếu không có những tìm kiếm mới và ứng dụng công nghệ mới.
Hậu quả của tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi vừa qua đang gây
tác hại nghiêm trọng ở nhiều nơi: lãng phí, thất thoát tài nguyên, ô nhiễm,
thậm chí hủy hoại môi trường, tai nạn lao động, các tệ nạn xã hội phát triển.
Xuất khẩu khoáng sản quá ồ ạt và còn nhiều tiêu cực trong quản lý xuất khẩu.
Điều này là rất không bền vững vì ảnh hưởng tới việc đáp ứng nhu cầu sử
dụng tài nguyên của các thế hệ sau này.
1.1.4.4. Ô nhiễm môi trường
Do phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hóa: Trong
5 năm qua, môi trường Việt Nam đã có những diễn biến phức tạp, tập trung
ở 5 vấn đề bức xúc chính: Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng tại 3 lưu vực


25
sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Đồng Nai; Ô nhiễm đô thị, các khu
công nghiệp, làng nghề ngày càng trầm trọng; Đa dạng sinh học suy giảm
nghiêm trọng; An ninh môi trường cũng đang bị đe dọa gồm: an ninh nguồn
nước, ô nhiễm xuyên biên giới chưa thể kiểm soát, sinh vật ngoại lai xâm hại
và sinh vật biến đổi gen xâm lấn ngày càng tăng, khai thác khoáng sản gây
hủy hoại môi trường; Công tác quản lý môi trường còn nhiều bất cập, vai trò
của cộng đồng chưa được phát huy đúng mức. Ô nhiễm môi trường đã tác
động xấu tới sức khỏe cộng đồng, sản xuất nông nghiệp, gây ra những thiệt
hại không nhỏ về kinh tế và ảnh hưởng tới các hệ sinh thái. Môi trường bị

suy thoái kéo dài do hậu quả của chiến tranh và ô nhiễm môi trường do quá
trình phát triển KT - XH hiện nay là một thách thức rất nghiêm trọng đối với
Việt Nam trong tiến trình PTBV.
Sản xuất và tiêu dùng còn nhiều lãng phí và không hiệu quả: Sản xuất
và tiêu dùng trong thời gian qua phần lớn còn chưa tuân thủ chính sách “thân
thiện với môi trường”. Trong sản xuất, do không đủ năng lực tài chính và kỹ
thuật, nhiều ngành và địa phương, đặc biệt là ở các làng nghề vẫn đang sử
dụng các công nghệ sản xuất cũ, có mức tiêu hao lớn về vật tư và năng lượng,
thậm chí, sử dụng cả các thiết bị đã không được tiếp tục sử dụng ở nước ngoài
nên đã làm giảm hiệu quả sản xuất, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong tiêu dùng, lối sống hưởng thụ, tiêu xài lãng phí vẫn còn phổ biến ở một
bộ phận dân cư, nhất là ở thành thị. Đây là một thách thức lớn cho quá trình
hướng tới một nền kinh tế xanh để PTBV hiện nay.
Sử dụng quá mức các đầu vào hoá học: Các đầu vào có nguồn gốc hoá
học như phân bón, thuốc BVTV... đã được dùng ở mức cao. Sự lạm dụng quá
mức các loại đầu vào này làm giảm khả năng vốn có của hệ sinh thái nông
nghiệp, diệt trừ các sinh vật có lợi, tăng nguy cơ phá hoại của sâu bệnh,gâyô
nhiễm nguồn nước, không khí, tạo nên hàm lượng cao các chất hoá học không
có lợi cho con người tồn đọng ở các sản phẩm nông nghiệp. Cần nhận thức


×