Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.94 KB, 23 trang )

ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
I. Chính sách xã hội cụ thể:
Ưu đãi người có công với cách mạng là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước ta, đó là sự đãi ngộ đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với người có công, là trách
nhiệm và là sự ghi nhận, tôn vinh những cống hiến của họ đối với đất nước. Pháp luật
ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ mang tính chính trị, kinh tế, xã hội mà
còn mang tính nhân văn sâu sắc. Nó là sự thể hiện những truyền thống đạo lý tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm, ý thức rèn luyện,
phấn đấu vươn lên để cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp gìn giữ, xây dựng và phát triển
đất nước, bảo vệ những giá trị tốt đẹp, những thành quả to lớn mà cha ông ta đã ra sức
gìn giữ. Đồng thời thể hiện được trách nhiệm của toàn xã hội trong việc thực hiện
“đền ơn đáp nghĩa” đối với người có công với cách mạng. Vì vậy, chính sách đối với
người có công là chính sách vô cùng quan trọng. Làm tốt chính sách đối với người có
công sẽ góp phần vào sự ổn định xã hội, giữ vững thể chế và ngược lại.
Vì thế trong bài tập cá nhân này tôi chọn “Chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng” để làm bài tập cá nhân cho môn học. Căn cứ pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng số 26/2005/PL – UBTVQH 11 ngày 29 tháng 6 năm 2005 của ủy
ban thường vụ Quốc hội, thay thế Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt
sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có
công giúp đỡ cách mạng ban hành năm 1994, pháp lệnh sửa đổi số
04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về
bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
Khái niệm chính sách ưu đãi với người có công: Chính sách ưu đãi đối với
người có công với cách mạng là một bộ phận của chính sách xã hội đặc thù của
Đảng và Nhà nước, nhằm đãi ngộ, tôn vinh đối với những ng ười có nhiều công
lao đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. Đối tượng mục tiêu của chính sách của chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng
2.1. Đối tượng của chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Theo Pháp lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/PL-UBTVQH, người có công


với cách mạng bao gồm:
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; Người hoạt
động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng
1


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Tám năm 1945; Liệt sĩ; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương
binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế;
Người có công giúp đỡ cách mạng;
Thân nhân của người có công với cách mạng quy định tại khoản 1 Điều này.
2.2. Mục tiêu của chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Trong Báo cáo Chính trị Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1996
khẳng định: "Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh ưu đãi người có công, đảm bảo cho
người có công với đất nước và cách mạng có đời sống và tinh thần ít nhất bằng mức
sống trung bình của nhân dân ở nơi cư trú, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em
những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong
trào đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ".
Nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
người có công; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân nâng cao nhận thức, tham gia tích cực vào việc đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho
người có công, tạo sự đồng thuận cao, góp phần bảo đảm công bằng xã hội và tạo điều
kiện thuận lợi để người có công xây dựng cuộc sống, tiếp tục khẳng định vai trò trong
cộng đồng xã hội.
III. Nội dung của chính sách ưu đãi người có công với cách mạng:
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11

ngày 29 tháng 6 năm 2005 gồm 5 chương 48 điều.
3.1. Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người được
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng trước ngày
01 tháng 01 năm 1945.
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01
năm 1945 bao gồm:
Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng;
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ; cấp phương tiện trợ giúp, dụng
cụ chỉnh hình cần thiết;
2


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Cấp báo Nhân dân; sinh hoạt văn hoá, tinh thần phù hợp;
Được Nhà nước hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào công lao và hoàn cảnh của
từng người.
Khi người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 chết thì
người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí; cha đẻ, mẹ đẻ,
vợ hoặc chồng, con được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng theo quy định của Chính
phủ.
Con của người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 được ưu
tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.
3.2. Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước tổng
khởi nghĩa 19 tháng tám năm 1945
1. Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng
khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly hoạt
động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19
tháng Tám năm 1945.

2. Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01
năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 bao gồm:
a) Trợ cấp hàng tháng;
b) Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ; cấp phương tiện trợ giúp, dụng
cụ chỉnh hình cần thiết;
c) Cấp báo Nhân dân; sinh hoạt văn hóa, tinh thần phù hợp;
d) Hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào công lao và hoàn cảnh của từng người, khả
năng của Nhà nước và địa phương.
3. Khi người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 chết thì người tổ chức mai táng được hưởng
một khoản trợ cấp và mai táng phí; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con được hưởng trợ
cấp tiền tuất hàng tháng theo quy định của Chính phủ.
4. Con của người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc
làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.
5. Người đã được công nhận và hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 9 của
Pháp lệnh này thì không thuộc đối tượng áp dụng của Điều này.
3


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
3.3. Liệt sĩ
a. Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân được
Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch;
Hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không
chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục
mà hy sinh;

Làm nghĩa vụ quốc tế;
Đấu tranh chống tội phạm;
Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an
ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân;
Do ốm đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
Thương binh hoặc người hưởng chính sách như thương binh quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều 19 của Pháp lệnh này chết vì vết thương tái phát.
Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội sửa đổi, bổ sung thêm 03 trường hợp:
Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ do cơ quan có
thẩm quyền giao;
Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ quốc
phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm;
Người mất tin, mất tích trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ,
e và g khoản này.
b. Thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp "Giấy chứng
nhận gia đình liệt sĩ" bao gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ; Vợ hoặc chồng; Con; Người có công
nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ.
c. Các chế độ ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ bao gồm:
Trợ cấp tiền tuất một lần khi báo tử;
Trợ cấp tiền tuất hàng tháng đối với cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sĩ,
người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; con liệt sĩ từ mười tám tuổi trở xuống

4


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
hoặc trên mười tám tuổi nếu còn tiếp tục đi học; con liệt sĩ bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi
hết thời hạn hưởng trợ cấp tiền tuất vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;

Trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng đối với cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sĩ,
người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ đang sống cô đơn không nơi nương tựa;
con liệt sĩ mồ côi từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu còn tiếp tục
đi học; con liệt sĩ mồ côi bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng trợ cấp nuôi
dưỡng vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; thân nhân của hai liệt sĩ trở
lên;
Khi báo tử, liệt sĩ không còn thân nhân quy định tại khoản 1 Điều này thì người
thừa kế của liệt sĩ giữ Bằng "Tổ quốc ghi công" được hưởng khoản trợ cấp tiền tuất
một lần như đối với thân nhân liệt sĩ;
Thân nhân liệt sĩ được ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay
vốn ưu đãi để sản xuất, miễn hoặc giảm thuế, miễn nghĩa vụ lao động công ích theo
quy định của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng
người, khả năng của Nhà nước và địa phương;
Thân nhân liệt sĩ đang hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng, trợ cấp nuôi dưỡng
hàng tháng được Nhà nước mua bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ; cấp
phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết căn cứ vào hoàn cảnh của từng
người, khả năng của Nhà nước; khi chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một
khoản trợ cấp và mai táng phí;
Con liệt sĩ được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục
và đào tạo.
3.4. Bà mẹ việt nam anh hùng
Các chế độ ưu đãi đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng bao gồm:
Các chế độ ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ quy định tại Điều 14 của Pháp lệnh
này;
Phụ cấp hàng tháng;
Nhà nước và nhân dân tặng nhà tình nghĩa hoặc hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ
vào hoàn cảnh của từng người.
3. 5. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động
a. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động được hưởng chế
độ ưu đãi theo quy định của Pháp lệnh này bao gồm:


5


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Người được Nhà nước tặng hoặc truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân" theo quy định của pháp luật;
Người được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lao động vì có thành tích đặc biệt
xuất sắc trong lao động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
b. Các chế độ ưu đãi đối với Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động bao gồm:
Trợ cấp hàng tháng;
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ
chỉnh hình cần thiết;
Ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo;
Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất;
hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả năng của Nhà nước
và địa phương; khi chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và
mai táng phí.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động chết trước ngày 01
tháng 01 năm 1995 thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần.
Con của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động được ưu
tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.
3. 6. Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh
a. Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả
năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp "Giấy chứng
nhận thương binh" và "Huy hiệu thương binh" thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
Bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại

thương tích thực thể;
Làm nghĩa vụ quốc tế;
Đấu tranh chống tội phạm;
Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an
ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân;
Làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn.

6


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân nhân,
công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền
cấp "Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương binh".
Thương binh loại B là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm
khả năng lao động từ 21% trở lên trong khi tập luyện, công tác đã được cơ quan, đơn
vị có thẩm quyền công nhận trước ngày 31 tháng 12 năm 1993.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh và thương binh loại B
quy định tại Điều này được gọi chung là thương binh.
b. Các chế độ ưu đãi đối với thương binh bao gồm:
Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng
lao động và loại thương binh;
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động;
cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào thương tật của từng người và
khả năng của Nhà nước;
Ưu tiên trong tuyển sinh, tạo việc làm; căn cứ vào thương tật và trình độ nghề
nghiệp được tạo điều kiện làm việc trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật về lao động; ưu đãi trong giáo dục và đào tạo;

Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản
xuất, được miễn hoặc giảm thuế, miễn nghĩa vụ lao động công ích theo quy định của
pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả năng
của Nhà nước và địa phương.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà nước mua
bảo hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu còn
tiếp tục đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm y tế vẫn
bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình
thì người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Khi thương binh chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp
và mai táng phí.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên chết do ốm đau, tai
nạn thì thân nhân được trợ cấp tiền tuất theo quy định của Chính phủ.

7


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Con của thương binh được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi
trong giáo dục và đào tạo.
c. Cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho thương binh, bệnh binh được Nhà
nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang bị, thiết bị,
được miễn hoặc giảm thuế, vay vốn ưu đãi theo quy định của pháp luật.
3. 7. Bệnh binh
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp
"Giấy chứng nhận bệnh binh" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu;
Hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 15 tháng

trở lên;
Hoạt động liên tục ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
chưa đủ 15 tháng nhưng đã có đủ mười năm trở lên công tác trong Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân;
Đã công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ mười lăm năm
nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí;
Làm nghĩa vụ quốc tế;
Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an
ninh.
Khi đang làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ do cơ quan có thẩm
quyền giao
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày
31 tháng 12 năm 1994.
Các chế độ ưu đãi đối với bệnh binh bao gồm:
Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng
lao động;
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động;
cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng
người và khả năng của Nhà nước;
Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản
xuất, miễn hoặc giảm thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao động công ích theo quy định
8


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả
năng của Nhà nước và địa phương.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà nước mua bảo
hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu còn tiếp

tục đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm y tế vẫn bị
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình thì
người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Khi bệnh binh chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp
và mai táng phí.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp tiền tuất theo quy định của Chính phủ.
Con của bệnh binh được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong
giáo dục và đào tạo.
3. 8. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ quan
có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các
vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học, bị mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất độc hoá học.
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa
học bao gồm:
Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động;
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động;
cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng
người và khả năng của Nhà nước;
Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản
xuất, miễn hoặc giảm thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao động công ích theo quy định
của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả
năng của Nhà nước và địa phương;
Khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chết thì người tổ
chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí.
Chính phủ quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, chế độ ưu đãi đối với người
hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.
9



ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người
được cơ quan có thẩm quyền công nhận bị dị dạng, dị tật, suy giảm khả năng tự lực
trong sinh hoạt hoặc lao động do hậu quả của chất độc hoá học.
Các chế độ ưu đãi đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm
chất độc hóa học bao gồm:
Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng tự lực trong sinh
hoạt; Bảo hiểm y tế; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết căn cứ vào
tình trạng bệnh tật; Ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và
đào tạo.
Khi con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học đang
hưởng trợ cấp hàng tháng chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ
cấp và mai táng phí.
3. 9. Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày là
người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời gian bị tù,
đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không làm tay sai cho
địch.
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng
chiến bị địch bắt tù, đày bao gồm:
Tặng Kỷ niệm chương; Trợ cấp một lần; Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức
khoẻ; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của
từng người và khả năng của Nhà nước.
Khi người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày
chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.
3. 10. Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa

vụ quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 31 của Pháp lệnh này là
người tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến, Huy
chương kháng chiến.
Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế bao gồm:
Trợ cấp một lần; Bảo hiểm y tế;
10


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Khi người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.
3. 11. Người có công giúp đỡ cách mạng
Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách mạng
trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm:
Người được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với
nước";
Người trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc
Bằng "Có công với nước" trước cách mạng tháng Tám năm 1945;
Người được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến;
Người trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương
kháng chiến.
Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi
công" hoặc Bằng "Có công với nước" và người có công giúp đỡ cách mạng trong gia
đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"
được hưởng trợ cấp hàng tháng và các chế độ ưu đãi khác như đối với thân nhân liệt sĩ
quy định tại Pháp lệnh này.
Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến và
người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến
được hưởng trợ cấp hàng tháng; Nhà nước mua bảo hiểm y tế; khi chết thì người tổ

chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí.
Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huy chương kháng chiến và
người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huy chương kháng chiến
được hưởng trợ cấp một lần; Nhà nước mua bảo hiểm y tế; khi chết thì người tổ chức
mai táng được nhận mai táng phí.
Chính phủ quy định cụ thể điều kiện hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công
giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công",
Bằng "Có công với nước", Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến.
Người đã được công nhận và hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 9, Điều
10 hoặc Điều 30 thì không thuộc đối tượng áp dụng của Điều này.
IV. Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tại thành
phố Đông Hà – Tỉnh Quảng Trị

11


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Tỉnh Quảng Trị nói chung, thành phố Đông Hà nói riêng là địa phương có
truyền thống cách mạng kiên cường, anh dũng, đồng thời là nơi chịu hậu quả nặng nề
của chiến tranh nên số lượng đối tượng chính sách rất lớn. Thêm vào đó là địa phương
thường xuyên phải chịu ảnh hưởng của thiên tai, đời sống của nhân dân trong đó có
đối tượng chính sách còn gặp rất nhiều khó khăn. Cùng với những chính sách của
Đảng và Nhà nước, thành phố Đông Hà đã luôn quan tâm chăm lo tốt công tác đền ơn
đáp nghĩa. Công tác chăm sóc người có công luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền
đặc biệt quan tâm và xem đây là một nhiệm vụ trọng tâm.
Theo thống kê của phòng lao động thương binh xã hội thành phố Đông Hà, hiện
nay toàn thành phố Đông Hà có 1.291 liệt sĩ đang được thờ phụng và 2.161 đối tượng
chính sách đủ điều kiện nhận trợ cấp hàng tháng, trong đó có 3 Mẹ Việt Nam anh
hùng, 3 Anh hùng lực lượng vũ trang - Anh hùng Lao động; 767 thương binh và người
hưởng chính sách như thương binh; 75 bệnh binh; 3 quân nhân xuất ngũ theo Quyết

định 142; 2 công an xuất ngũ theo Quyết định 53; 3 đối tượng theo Quyết định 62;
275 người ưu đãi tuất; 398 người có công giúp đỡ cách mạng; 313 người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; 76 người là con đẻ của người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; 198 người hoạt động cách mạng, hoạt động
kháng chiến bị địch bắt tù đày; 45 người phục vụ thương, bệnh binh nặng, phục vụ Bà
mẹ Việt Nam anh hùng, phục vụ người bị chất độc hóa học.
Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách, UBND thành phố luôn
chú trọng đến công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục trong toàn Đảng, toàn dân,
đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người
trồng cây”, “Đền ơn đáp nghĩa”. Ban quản lý Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của thành phố đã
tích cực chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện của từng ngành
thành viên và các địa phương theo trách nhiệm đã được phân công. Bên cạnh đó, Mặt
trận các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trên địa bàn thành phố
cũng tích cực hưởng ứng và tham gia. Đảng bộ, chính quyền, mặt trận, đoàn thể,
doanh nghiệp ở thành phố Đông Hà luôn hết sức quan tâm chăm lo đời sống cho gia
đình chính sách với nhiều hình thức phong phú, thiết thực như Đảng bộ, chính quyền
thành phố chỉ đạo Phòng Lao động - Thương binh - Xã hội thực hiện tốt việc hỗ trợ
pháp lý giúp các đối tượng chính sách được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, cấp sổ ưu đãi
giáo dục, hưởng chính sách các loại, nhận chi trả các chế độ chính sách một lần và
hàng tháng, xây dựng nhà tình nghĩa cho các đối tượng gặp khó khăn về nhà ở, hỗ trợ
12


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
kinh phí sửa chữa nhà, tặng quà, tặng tiền, tạo việc làm cho gia đình chính sách và
chung tay góp sức vào công tác đền ơn đáp nghĩa. Các tổ chức chính trị xã hội, nhiều
cơ quan đơn vị nhận chăm sóc, phụng dưỡng các Mẹ Việt Nam anh hùng; đỡ đầu các
cháu là con các gia đình thương bệnh binh giúp các cháu điều kiện học hành… Hàng
năm vào các dịp lễ, tết, ngày Thương binh- Liệt sĩ 27/7,... cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận và các tổ chức chính trị xã hội đều tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng

chính sách, gia đình thương binh liệt sĩ trên địa bàn. Năm 2014, thành phố triển khai
chương trình “Hoa dâng mộ liệt sĩ” được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân tích
cực hưởng ứng, từ chương trình đã lắp đặt bình hoa lên mộ, vệ sinh nghĩa trang sạch
đẹp, đúng quy cách, làm ấm lòng những người đã hy sinh cũng như thân nhân của các
liệt sĩ mỗi lần đến thăm viếng nghĩa trang.
Trách nhiệm và tình cảm đối với người có công đã trở thành nội dung quan
trọng trên các diễn đàn và truyền thông đại chúng, trở thành nét đẹp trong đời sống
văn hoá của người dân thành phố. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” phát triển với nhiều
hoạt động thiết thực đã được hình thành và lan tỏa đều khắp trong các phường, các
khu phố, cơ quan, doanh nghiệp, trường học, đơn vị...nên đã huy động được sức mạnh
tổng hợp của cộng đồng cùng chung tay chăm lo công tác chính sách. Đến nay toàn
thành phố đã có 9/9 phường được UBND tỉnh khen tặng và công nhận là phường làm
tốt công tác Thương binh - gia đình liệt sỹ và người có công.
Chế độ ưu đãi cho con em của các đối tượng chính sách đang học tập tại các cơ
sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề trong cả nước được giải quyết kịp thời, hơn 200 em
đang được nhận trợ cấp học tập hàng năm. Bình quân mỗi năm, thành phố Đông Hà
chi hơn 20 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương và hơn 300 triệu đồng ngân sách địa
phương để chi trả chế độ cho các đối tượng chính sách. Các chế độ chính sách được
bảo đảm chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng đối tượng. Ngoài ra, các chính sách tín dụng,
đào tạo nghề, tạo việc làm, phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo cho các gia đình
chính sách luôn được quan tâm. Các hộ gia đình chính sách được vay vốn ưu đãi từ
nhiều nguồn khác nhau để phát triển sản xuất nên đã động viên được các gia đình
thương binh, liệt sĩ và người có công vươn lên khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu
trong lao động sản xuất, ổn định cuộc sống gia đình, tiếp tục đóng góp cho cộng đồng
và xã hội, xứng đáng là người công dân kiểu mẫu và gia đình cách mạng gương mẫu.
Kết quả qua gần 5 năm (2010 - 2015), toàn thành phố đã xây dựng được 76
ngôi nhà tình nghĩa với số tiền hơn 3,5 tỉ đồng; sửa chữa nâng cấp 100 ngôi nhà với số
13



ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
tiền gần 1,9 tỉ đồng. Việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công đã triển khai thực
hiện kịp thời, nghiêm túc và đạt kết quả tốt. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” chăm sóc
người có công với cách mạng không ngừng được nâng cao, đã được xã hội hóa một
cách rộng rãi, đạt kết quả khá tốt, kịp thời giúp đỡ, động viên các gia đình chính sách
vươn lên, góp phần ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển.
Đặc biệt, công tác vận động xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng được xã hội
hóa sâu rộng. Trong 5 năm (2010 - 2015) toàn thành phố thu được gần 1,8 tỉ đồng quỹ
“Đền ơn đáp nghĩa”. Với nguồn lực này, các phong trào chăm sóc thương bệnh binh,
bố mẹ liệt sĩ và người có công được các tổ chức, đoàn thể và toàn dân trong thành phố
tích cực tham gia, mang lại hiệu quả tích cực...
Công tác chăm sóc các đối tượng chính sách luôn được Đảng bộ Thành phố đặc
biệt quan tâm. Các mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được các cơ quan, đơn vị, cá
nhân trong và ngoài tỉnh nhận phụng dưỡng đến cuối đời. Hàng năm, vào các dịp lễ,
tết...lãnh đạo và nhân dân thành phố đều tổ chức đến thăm hỏi, động viên các Bà mẹ
Việt Nam anh hùng còn sống, viếng những Mẹ đã mất. Các đối tượng là cán bộ Lão
thành cách mạng, cán bộ Tiền khởi nghĩa được giải quyết hỗ trợ nhà ở theo Quyết
định số 117/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ kịp thời, đầy đủ và đúng chế độ.
Hàng năm, công tác mua và cấp phát thẻ bảo hiểm y tế cho 1.663 đối tượng chính
sách được thực hiện kịp thời để đảm bảo quyền lợi khám chữa bệnh của các đối
tượng. Chế độ điều dưỡng tập trung tại bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng
Cửa Tùng được tổ chức chu đáo đã góp phần chăm sóc sức khỏe, động viên các đối
tượng chính sách.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thực tế vẫn còn có những gia đình
chính sách chưa được chăm sóc một cách đầy đủ; vẫn còn có những người có công
với cách mạng bị thiệt thòi; việc tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ mặc dầu được Đảng,
Nhà nước rất quan tâm, nhưng đến nay vẫn còn một phần lớn mộ phần liệt sỹ ở các
nghĩa trang chưa có danh tính, nhiều liệt sỹ chưa tìm được để quy tập vào nghĩa
trang...đó là nổi đau và sự mất mát nhân lên gấp bội của hàng triệu thân nhân trong cả
nước. Nói như thế để thấy cho dù tấm lòng của mỗi chúng ta có mong muốn đến bao

nhiêu thì sự chăm lo công tác đền ơn đáp nghĩa đối với sự hy sinh của các anh hùng
liệt sĩ, thương binh, gia đình chính sách vẫn là chưa đủ. Những người đã hy sinh
không bao giờ suy tính về những gì họ đã quên mình vì nhân dân, vì đất nước, thì với
những người đang sống và được hưởng độc lập, tự do như chúng ta không bao giờ
14


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
được phép quên công lao mà các anh hùng liệt sĩ đã đóng góp cho hòa bình, thống
nhất của Tổ quốc. Công lao ấy mãi mãi là tấm gương sáng ngời, trường tồn cùng dân
tộc Việt Nam.
V. Một số hạn chế của chính sách trên và đề xuất một số giải pháp cải thiện chính
sách đó
5.1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Thực hiện những quy định của Pháp lệnh liên quan đến những người có công
với cách mạng trong những năm qua là đạo lý, tình cảm là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân và của mỗi một người dân Việt Nam. Sau khi Pháp lệnh, các văn
bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành của Chính phủ, của Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, liên Bộ,… Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì hoặc phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan, các cấp uỷ Đảng, chính quyền từ trung ương đến địa
phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức đoàn thể, các Hội của quần chúng
trong đó có Hội Cựu chiến binh Việt Nam… đã mở nhiều đợt tuyên truyền phổ biến
rộng rãi và quán triệt thực hiện những quy định liên quan đến chế độ, chính sách
người có công với cách mạng.
Trong Báo cáo Chính trị Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1996
khẳng định: "Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh ưu đãi người có công, đảm bảo cho
người có công với đất nước và cách mạng có đời sống và tinh thần ít nhất bằng mức
sống trung bình của nhân dân ở nơi cư trú, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em
những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong
trào đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ".

Cho đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cơ bản hoàn
thành việc xác nhận, công nhận người có công với cách mạng trong các thời kỳ, với
15 diện hưởng trợ cấp ưu đãi thuộc các đối tượng người có công với cách mạng. Các
chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng ngày càng được mở rộng,
mức trợ cấp của Nhà nước đối với người có công với cách mạng liên tục được điều
chỉnh tăng theo mức phát triển kinh tế - xã hội của đất nước qua từng năm và mức
sống trung bình của xã hội.
Cùng với sự trợ giúp của Ngân sách Nhà nước, phong trào đền ơn đáp nghĩa
phát triển sâu rộng trong phạm vi cả nước, 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng được các
Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp nhận trách nhiệm phụng dưỡng suốt đời.
Hầu hết các gia đình chính sách được hỗ trợ để xây dựng, sửa chữa nhà ở; hàng chục
15


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
nghìn gia đình chính sách được tặng sổ tiết kiệm, vườn cây, ao cá tình nghĩa; con, em
người có công được hỗ trợ giáo dục, đào tạo và dạy nghề, tạo việc làm, nhận đỡ đầu..,
trên 85% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung
bình của dân cư nơi sinh sống. Hơn 6.000 nghĩa trang liệt sỹ, công trình tưởng niệm
liệt sỹ được đầu tư tôn tạo nhằm tôn vinh liệt sỹ và truyền thống cách mạng cho các
thế hệ hôm nay và mai sau.
Thực hiện những chế độ, chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công năm
1994, tính đến nay cả nước có khoảng 08 triệu người được hưởng chế độ ưu đãi, chăm
sóc, trong đó có khoảng 1,5 triệu người được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng và gần
4,5 triệu người hưởng chế độ trợ cấp một lần. Ngoài chế độ trợ cấp, người có công với
cách mạng còn được hưởng chế độ ưu đãi xã hội khác như: chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ
cải thiện nhà ở, ưu đãi trong giáo dục - đào tạo, trong sản xuất, kinh doanh… Chỉ tính
riêng việc thực hiện phong trào đền ơn đáp nghĩa, hơn 10 năm qua cả nước đã thu
được những kết quả to lớn, khơi dậy và phát huy truyền thống, đạo lý của dân tộc
"uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", đã trở thành nét đẹp trong đời sống văn

hoá của nhân dân trong phạm vi cả nước. Quỹ Đền ơn đáp nghĩa trong hơn 10 năm
qua đã tiếp nhận hơn 3.760 tỷ đồng để góp phần xây dựng mới 236.498 nhà tình
nghĩa, sửa chữa 97.537 nhà với số tiền 2.251 tỷ đồng, Quỹ đã giúp hơn 300.000 gia
đình chính sách có nhu cầu nhà ở ổn định; Quỹ tặng hơn 1.500 vườn cây tình nghĩa và
hơn 200.000 sổ tiết kiệm tình nghĩa cho những gia đình chính sách và tặng hàng trăm
tỷ đồng góp phần vào việc phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng…
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng
những người có công với cách mạng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đến nay các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân chăm sóc hơn 60.000 thân nhân liệt sỹ và đỡ
đầu hơn 10.500 con thương binh, liệt sỹ đang học ở các trường Phổ thông trung học
và Đại học. Hàng vạn thương binh, bệnh binh nặng ở các Trung tâm điều dưỡng được
các gia đình, địa phương đón về nuôi dưỡng tại gia đình để họ có điều kiện gần gũi
với người thân, góp phần nhanh chóng hồi phục sức khoẻ và vui vẻ về tinh thần. Hiện
nay cả nước có khoảng 9.708 xã, phường được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố công
nhận là xã, phường làm tốt công tác Thương binh, Liệt sỹ, đạt 89,1% bình quân cả
nước. Trong đó nhiều tỉnh, thành phố đạt 100% xã, phường làm tốt công tác Thương
binh, Liệt sỹ.
16


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
5.2. Một số hạn chế của chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như đã trình bày ở trên, việc triển khai
thực hiện Pháp lệnh trong những năm qua còn cho thấy một số vướng mắc, khó khăn
như sau:
Trước hết là một số nội dung quy định của Pháp lệnh cũng như các văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành còn những điểm quy định chưa phù hợp, chưa bao
hàm tất cả những đối tượng người có công với cách mạng qua các thời kỳ, một số chế
độ, chính sách cụ thể cũng chưa thật phù hợp và chậm sửa đổi so với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm qua, nhất là chế độ trợ cấp, phụ cấp

đối với bản thân cũng như thân nhân của những người có công, cũng như các chế độ
chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ cải thiện về nhà ở, ưu đãi trong vấn đề giải quyết việc làm,
trong sản xuất, kinh doanh… Một số thủ tục liên quan đến việc giải quyết các chế độ
đối với người có công còn phức tạp, có khi còn gây phiền hà cho các đối tượng hưởng
ưu đãi.
Một số quy định liên quan đến trách nhiệm của các Bộ, ngành và chính quyền
địa phương các cấp, một số nội dung liên quan đến thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm cũng chưa phù hợp với tình hình thực tế, cần phải được sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với tình hình của nước ta hiện nay trong việc thực hiện những chế độ ưu đãi
đối với người có công với cách mạng.
Việc thực hiện chế độ ưu đãi về đất ở, đất sản xuất, nhà ở, thuế, tín dụng, y tế,
giáo dục - đào tạo, việc đóng góp sử dụng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa…, ở các địa phương
có nhiều điểm khác nhau và chưa thống nhất. Đời sống của một số đối tượng chính
sách ở những địa phương, vùng sâu, vùng xa… gặp rất nhiều khó khăn do trình độ
phát triển kinh tế - xã hội còn thấp. Việc xác nhận người có công với cách mạng ở một
số địa phương còn xảy ra sai phạm, có nơi nghiêm trọng, nhiều vụ đã phải xử lý và xét
xử theo quy định của pháp luật.
Việc quy định các tiêu chuẩn để xác nhận người có công hưởng ưu đãi còn
nhiều hạn chế, sơ hở dẫn đến nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực làm mất đi sự công
bằng, bình đẳng trong nhân dân. Đối với thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, người có
công nuôi liệt sĩ, người hoạt động kháng chiến…vì pháp luật quy định không đầy đủ,
rõ ràng mà việc xác nhận họ có phải là người có công hay không vẫn còn nhiều bất
cập.
17


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Khái niệm người có công không chỉ nên hiểu theo nghĩa hẹp, tức là chỉ bao gồm
các đối tượng có công lao cống hiến trong thời chiến mà còn có những đối tượng bằng
tài năng và trí tuệ của mình nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển

đất nước và có những thành tích đóng góp đặc biệt xuất sắc trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Do đó, những đối tượng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo
ưu tú, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc ưu tú,…cũng cần được hưởng những trợ cấp,
những ưu đãi xã hội và được Nhà nước, xã hội tôn vinh. Những đối tượng này, hoàn
cảnh sống, điều kiện sinh hoạt, khả năng lao động, tình hình sức khỏe… không giống
như những đối tượng là người có công với cách mạng như đã trình bày ở trên nên quy
định về ưu đãi, trợ cấp có thể là đơn giản hơn, linh hoạt hơn.
Pháp luật vẫn chưa có những quy định về quyền hưởng ưu đãi đối với người có
công là người Việt Nam ở nước ngoài hay là người nước ngoài có những cống hiến
lớn lao trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc ở Việt Nam cũng như trong
thời kỳ đổi mới, phát triển đất nước.
5.3. Một số đề xuất nhằm cải thiện chính sách ưu đãi người có công với cách
mạng
Chế độ ưu đãi xã hội có vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo và
nâng cao đời sống cho những người có công; đối với một số đối tượng đặc biệt như
không còn khả năng lao động, không còn nơi nương tựa, già yếu… thì đây còn là
nguồn thu nhập của họ để ổn định đời sống. Chế độ này thể hiện sự báo đáp công ơn
đối với những người xả thân vì đất nước dân tộc.
Khắc phục những điểm còn hạn chế sẽ giúp hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật
ưu đãi xã hội của nước ta cũng như đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng xã hội.
Như vậy, đối với pháp luật về ưu đãi người có công đã có khoảng trên 100 văn bản
được ban hành của cơ quan hành chính nhà nước dưới các dạng nghị định, quyết định,
thông
tư...
Phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế trong
thời gian qua về thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng, để nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng trong thời gian tới,
cần
chú
trọng

bảo
đảm
một
số
nguyên
tắc
sau:
Một là, việc hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng phải trên cơ sở
quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về người có công với cách
mạng.
Hai là, xã hội hóa hoạt động ưu đãi người có công với cách mạng, thiết lập mối quan
hệ chặt chẽ giữa ba chủ thể Nhà nước, đối tượng ưu đãi và cộng đồng, trong đó Nhà
nước
giữ
vai
trò
chủ
đạo.
18


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
Ba là, pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng phải phù hợp với điều kiện kinh
tế,

hội
của
đất
nước.
Chính sách ưu đãi người có công vốn là chính sách mang tính nhạy cảm chính trị - xã

hội. Tuy nhiên, cần có nhận thức hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm chế độ phải
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội. Đặc điểm có tính chất quy luật cơ bản là giữa
các chính sách và sự phát triển kinh tế, xã hội có biện chứng với nhau, phụ thuộc lẫn
nhau. Việc nâng cao đời sống của dân cư nói chung và đời sống của các đối tượng
người có công nói riêng và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao là mục tiêu cuối cùng của
sự
phát
triển
kinh
tế.
Bốn là, pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng phải bảo đảm tính toàn diện.
Để thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đối với người có công, đưa ý chí và
nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân trong việc “đền ơn đáp nghĩa” những người có
công với nước, đòi hỏi Nhà nước phải ban hành đầy đủ các quy định của luật pháp
liên quan đến người có công, nói cách khác là phải có sự đồng bộ các loại văn bản
pháp luật về vấn đề này. Đồng thời, trong tổ chức triển khai thực hiện cũng phải cụ
thể, bảo đảm đúng, đầy đủ đối tượng thuộc diện thụ hưởng, tránh hiện tượng bỏ sót
đối tượng, chỉ khi đó mới thực hiện đầy đủ được sự công bằng xã hội.
Năm là, pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng phải bảo đảm tính kế thừa và
tính hiện thực phù hợp với điều kiện và tình hình mới của đất nước.
Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận mà phải trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã
đạt được, kế thừa những nội dung hợp lý, khoa học của pháp luật ưu đãi người có
công với cách mạng đã thể hiện trong thời gian qua. Bởi pháp pháp luật ưu đãi người
có công với cách mạng có ảnh hưởng lớn đến số lượng đối tượng đông, mức độ ảnh
hưởng rộng, thời gian ảnh hưởng lâu dài, có những vấn đề là bản chất là không thay
đổi. Nhưng có những vấn đề cần hoàn thiện, bổ sung như tiêu chuẩn xác nhận đối
tượng thụ hưởng, phạm vi áp dụng, các biện pháp trợ cấp, chăm lo, giúp đỡ người có
công. Đồng thời, pháp luật ưu đãi người có công phải khả thi, phát huy tác dụng đối
với
người


công
với
cách
mạng.
Nhìn chung, pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân luôn được
điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, tuy
nhiên, so với yêu cầu thực tiễn thì một số quy định trên vẫn chưa hoàn thiện, trở thành
nguyên nhân ảnh hưởng hiệu quả ưu đãi người có công với cách mạng. Do vậy, Nhà
nước cần có những giải pháp đồng bộ để hoàn thiện những quy định của pháp luật về
hoạt
động
này.
Cụ
thể:
Về
đối
tượng
được
hưởng
ưu
đãi
Hiện tại pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định đối với đối tượng là thanh niên
xung phong, những người chịu rất nhiều mất mát, hy sinh trong công cuộc kháng
chiến bảo vệ Tổ quốc. Pháp luật vẫn chưa có những quy định về quyền được hưởng
ưu đãi của những người có công với cách mạng đang sinh sống ở nước ngoài hay
những quy định về người nước ngoài đã có công lao to lớn trong cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, góp phần vào thắng lợi, sự độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Quan niệm về người có công cần được hiểu theo nghĩa rộng. Những quy định về
những đối tượng không phải là người có công với cách mạng sẽ đơn giản và linh hoạt

19


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
hơn
nhiều.
Trường hợp vợ liệt sĩ lấy chồng khác chỉ được hưởng trợ cấp hàng tháng là thiệt thòi
cho họ, vì họ vẫn là vợ liệt sĩ, việc tái giá không làm thay đổi bản chất của sự hy sinh.
Trong trường hợp này, người phụ nữ đã phải chịu quá nhiều đau đớn và thiệt thòi, Nhà
nước phải ghi nhận sự hy sinh thầm lặng đó. Trong khi quy định tại Nghị định số
31/2013/NĐ-CP quy định: “Thân nhân người có công là cha đẻ, mẹ đẻ; vợ hoặc
chồng; con (con đẻ, con nuôi)…”. Như vậy, khi vợ liệt sĩ đã tái giá thì họ không còn
là thân nhân của liệt sĩ nữa. Để ghi nhận sự hy sinh, mất mát của họ, Nhà nước chỉ
dành cho những người vợ (chồng) liệt sĩ tái giá hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng mà
không được hưởng các ưu đãi khác với thân nhân liệt sĩ.
Về
mức
trợ
cấp
Cần tăng mức trợ cấp, phụ cấp cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước và nhu
cầu của người có công. Các chế độ ưu đãi nhìn chung đã tương đối toàn diện và mức
trợ cấp, phụ cấp đã tăng cao hơn so với trước. Thể hiện là mỗi lần điều chỉnh tăng
lương tối thiểu thì mức trợ cấp và phụ cấp ưu đãi cũng tăng theo. Tuy nhiên, trong
mối tương quan với nhu cầu chung của con người trong cuộc sống hiện đại thì mức trợ
cấp, phụ cấp hiện nay vẫn còn thấp. Trong khi đó, thực tế đời sống của người có công
vẫn còn nhiều khó khăn, vì nguồn thu nhập chủ yếu của đa số họ là từ trợ cấp ưu đãi.
Bên cạnh nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày, họ còn phải bảo đảm tiền thuốc
chữa bệnh, tiền học hành cho bản thân, con cái và các chi dùng khác cho gia đình.
Đây là vấn đề Nhà nước cần xem xét và điều chỉnh mức chuẩn để tính trợ cấp là luôn
phải cao hơn mức tiêu dùng bình quân toàn xã hội. Việc tăng mức trợ cấp, phụ cấp ưu

đãi không nên phụ thuộc vào lộ trình tăng tiền lương tối thiểu như hiện nay.
Phân định rõ hơn chế độ ưu đãi người có công với chế độ tiền lương và bảo hiểm xã
hội. Các chế độ ưu đãi hiện nay đã tách khỏi chế độ tiền lương. Thay vì tính trên cơ sở
tiền lương tối thiểu chung như trước đây, mức trợ cấp, phụ cấp hàng tháng hiện nay
được tính trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội. Song, việc điều chỉnh
mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi vẫn còn dựa trên cơ sở và lộ trình tăng lương tối thiểu là
không hợp lý. Vì thế chế độ ưu đãi chưa đạt được mục đích là không chỉ đảm bảo đời
sống cho người có công cao hơn mức sống trung bình của người dân mà còn nhằm tôn
vinh công trạng của họ như Đảng và Nhà nước đề ra.
Ngoài ra, chế độ tiền mai táng đối với người có công vẫn áp dụng quy định của pháp
luật bảo hiểm xã hội là không thực sự hợp lý, nhất là trong trường hợp người có công
không tham gia bảo hiểm xã hội. Các chế độ bảo hiểm xã hội được chi trả trên cơ sở
đóng góp của người tham gia và quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập với ngân
sách nhà nước, còn chế độ ưu đãi người có công với cách mạng được chi trả từ ngân
sách nhà nước trên cơ sở bảo đảm tương ứng với mức tiêu dùng bình quân trong toàn
xã hội. Cho nên, áp dụng những quy định của bảo hiểm xã hội để chi trả thì không hợp
lý trong việc
thể hiện ý nghĩa đối với người có công.
Đối với người hoạt động cách mạng bị địch bắt tù, đày chưa hưởng trợ cấp một lần
nay lập hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp hàng tháng thì nên cho họ hưởng trợ cấp tính từ
ngày 01/9/2012 như các đối tượng người hoạt động cách mạng bị địch bắt tù, đày đã
hưởng trợ cấp 1 lần trước ngày 01/9/2012. Vì họ vẫn là cùng đối tượng và có cống
20


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
hiến cho cách mạng như nhau, thậm chí có thể hơn về công trạng.
Điều
chỉnh
chế

độ
ưu
đãi
về
giáo
dục
đào
tạo
Về chế độ miễn học phí, các quy định hiện hành chỉ miễn học phí cho các đối tượng
ưu đãi khi học trong các trường công lập và hỗ trợ học phí cho các đối tượng học tại
trường bán công, dân lập, tư thục; không miễn, giảm học phí trong trường hợp học tại
các cơ sở giáo dục thường xuyên là không hợp lý. Để tạo sự bình đẳng giữa các cơ sở
đào tạo, góp phần thực hiện chính sách xã hội hoá giáo dục và đảm bảo công bằng cho
người có công và thân nhân của họ, cần có chế độ miễn, giảm học phí cho các đối
tượng ưu đãi học tại các cơ sở giáo dục thường xuyên. Đồng thời, nhằm khuyến khích
các đối tượng ưu đãi có ý thức vươn lên, trường hợp học sinh, sinh viên thi trượt tốt
nghiệp thì khi học lại không được hưởng ưu đãi như hiện nay.
Các chế độ khác như miễn các khoản đóng góp xây dựng trường, ưu tiên trong xét lên
lớp, tuyển sinh cần quy định rõ ràng trong cùng một văn bản để thuận lợi trong tổ
chức
thực
hiện.
- Xây dựng Luật Ưu đãi người có công với cách mạng
Cần phải sớm xây dựng Luật Ưu đãi người công với cách mạng để nhằm mục đích
thực hiện tốt hơn chính sách đối với người có công, hoàn thiện hệ thống pháp luật ưu
đãi người có công với cách mạng, đánh giá đúng tầm quan trọng của pháp luật ưu đãi
người có công với cách mạng trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như trong đời
sống

hội...

Có thể khẳng định rằng, những vấn đề liên quan đến người có công là những vấn đề
rất nhạy cảm và phức tạp, do đó để xây dựng hệ thống pháp luật ưu đãi người có công
phải tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng, cần phải được tiến hành từng bước, phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; đảm bảo công bằng xã hội. Trước hết cần phải
hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về ưu đãi người có công; bổ sung, ban
hành những quy định mới để giải quyết những điểm bất hợp lý, những thiếu sót của
pháp luật ưu đãi người có công. Tập trung nguồn lực để giải quyết những nhu cầu cấp
thiết của những người có công như vấn đề về tăng mức trợ cấp; quan tâm đến dạy
nghề, tạo việc làm, giúp đỡ các gia đình chính sách khó khăn phát triển sản xuất, kinh
doanh; tuyên truyền, cổ vũ những tấm gương thương binh, gia đình liệt sĩ, người có
công tiêu biểu trong lao động, học tập, trong sản xuất, kinh doanh và trong các hoạt
động văn hóa, xã hội. Trên cơ sở sự hệ thống hóa, những sửa đổi, bổ sung pháp luật
ưu đãi người có công, tổng kết việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công tiến tới
xây dựng và ban hành Luật Ưu đãi người có công ở Việt Nam, đáp ứng kịp thời yêu
cầu của thực tế hiện nay.

Có thể thấy, hành lang pháp lý để thực hiện chính sách ưu đãi người có công đã tương
đối đầy đủ. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện vẫn còn một hạn
chế, bất cập như:
Thứ nhất, đối với đối tượng lão thành cách mạng, tiền khởi nghĩa cần thiết mở rộng
21


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
thêm căn cứ xác nhận, đặc biệt là đối với người còn sống, vì theo quy định tại Nghị
định số 31/2013/NĐ-CP thì người còn sống phải có lý lịch mới được xác nhận, trong
khi người đã hy sinh, từ trần thì được sử dụng những căn cứ khác để công nhận như:
Lịch sử đảng bộ địa phương, các giấy tờ, tài liệu lưu trữ...; đồng thời cần thiết thực
hiện chế độ bảo hiểm y tế đối với thân nhân lão thành cách mạng, tiền khởi nghĩa còn
sống.

Thứ hai, đối với liệt sỹ, thương binh chưa có hướng dẫn cụ thể về thủ tục, hồ sơ xác
nhận liệt sỹ đối với trường hợp bị bắt, tra tấn. Trường hợp vợ liệt sĩ tái giá chỉ được
hưởng trợ cấp hàng tháng, như vậy sẽ thiệt thòi cho họ.
Việc khám giám định vết thương còn sót cũng gặp nhiều trở ngại. Cần thiết phải quy
định rõ ràng việc giám định vết thương còn sót, sót là do trước đây bản thân đối tượng
người có công với cách mạng khai còn sót, hay vì lý do Hội đồng giám định y khoa
giám định còn sót.
Thứ ba, chính sách đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học:
Chưa có hướng dẫn với trường hợp thương binh đồng thời là bệnh binh và cũng đồng
thời là người mất sức lao động mà bị mắc bệnh, hoặc sinh con dị dạng, dị tật thì có
được xem xét giải quyết chế độ chất độc hóa học không và giải quyết hưởng chế độ
như thế nào. Hiện tại chỉ có hướng dẫn chế độ đối với thương binh, bệnh binh đồng
thời là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (Điều 31 Nghị định số
31/2013/NĐ-CP).
Chính sách đối với người nhiễm chất độc da cam/Đioxin, khi triển khai chính sách
hiện hành đang rất vướng do sự thiếu đồng bộ trong các văn bản hướng dẫn, gây ách
tắc trong khâu lập hồ sơ, như các giấy tờ chứng minh thời gian, các loại bệnh việc
chuyển hồ sơ giám định y khoa để xác định mắc bệnh rất chậm, chưa đáp ứng yêu cầu
về số lượng đối, văn bản hướng dẫn thường xuyên thay đổi nên ảnh hưởng không nhỏ
đến việc thực hiện, hiện chưa có cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn về bệnh, tật, dị dạng,
dị tật do nhiễm chất độc hóa học sử dụng trong chiến tranh. Bên cạnh đó, do quy định
của chính sách chưa thật cụ thể, khoa học, nên việc áp dụng, thực hiện rất khó.
Thứ tư, đối với người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày: Theo quy định tại
Nghị định số 31/2013/NĐ-CP và Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH thì trường hợp
hưởng chế độ tù đày được trả trợ cấp theo tháng kể từ ngày 01/9/2012 đối với trường
hợp đã hưởng trợ cấp 1 lần (tức là truy nhận từ ngày 01/9/2012), nhưng có trường hợp
vừa mới làm hồ sơ được hưởng thì không nhận được tiền truy lĩnh, trong khi có
trường hợp làm hồ sơ trước thì được hưởng cả tiền theo tháng và truy lĩnh, dẫn đến sự
bất công giữa các đối tượng, vì thực tế cho thấy công lao của họ vẫn giống nhau, thậm
chí những người làm hồ sơ sau thời gian bị tù, đày lại nhiều hơn.

Thứ năm, việc ủy quyền về thờ cúng liệt sĩ, ký giấy xác nhận về phong tặng Bà mẹ
Việt Nam anh hùng có một số trường hợp là anh em trong gia đình không chịu xác
nhận nên việc lập hồ sơ gặp khó khăn. Đồng thời, số tiền phải chi trả cho các trường
hợp này thì địa phương cũng lúng túng trong xử lý, vì không thể giao trực tiếp cho đối
tượng khi còn vướng mắc mà cũng không thể giữ lại. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể
trong trường hợp gia đình có tranh chấp.
Thứ sáu, trong trợ cấp một lần cho đối tượng hoạt động kháng chiến giải phóng dân
22


ChÝnh s¸ch u ®·i ngêi cã c«ng víi c¸ch m¹ng
tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, vẫn áp dụng mức trợ cấp 120.000
đồng/năm, mức trợ này ít và chậm thay đổi kể từ năm 1995. Trong khi mức trợ cấp
của đối tượng khác thì thường xuyên được cải thiện nâng lên.
Thứ bảy, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 (sửa đổi năm
2012) chưa phát huy được tiềm lực và sức mạnh của thế kiềng ba chân là Nhà nước,
cộng đồng và cá nhân, nguồn kinh phí chi trả cho người có công với cách mạng mặc
dù đã có nhiều sửa đổi, bổ sung, nhưng chủ yếu vẫn là từ ngân sách nhà nước. Trong
khi đó, ngân sách nhà nước còn hạn chế, đối tượng có công lại khá lớn. Việc cấp kinh
phí hàng năm vẫn trên cơ sở dự toán và cân đối ngân sách, do đó không ổn định. Vấn
đề đặt ra là phải làm thế nào để phát huy được nguồn lực của cả cộng đồng trên địa
bàn trong việc chăm sóc, giúp đỡ người có công với cách mạng.
Thứ tám, việc triển khai thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở
một số địa phương còn chậm so với quy trình, điều này đã làm ảnh hưởng đến tiến độ
thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, lợi dụng sự thiếu hiếu biết
thông tin của người có công nên cán bộ chi trả ở địa phương đã giữ lại tiền chi trả trợ
cấp điều dưỡng phục hồi sức khỏe, tiền hương khói liệt sĩ, làm ảnh hưởng đến chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước. Một số đối tượng không phải là đối tượng người có
công với cách mạng đã lợi dụng chính sách để “khai man” hồ sơ hưởng trợ cấp ưu đãi
người có công với cách mạng.


23



×