Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Chương trình truyền hình khoa giáo dành cho đồng bào dân tộc thiểu số ở đài phát thanh truyền hình bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.94 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀ THỊ NGẦN

CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH KHOA GIÁO
DÀNH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở ĐÀI PHÁT THANH & TRUYỀN HÌNH TỈNH
BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:Báo chí học

Hà Nội-2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀ THỊ NGẦN

CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH KHOA GIÁO
DÀNH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở ĐÀI PHÁT THANH & TRUYỀN HÌNH TỈNH
BẮC KẠN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số:60.32.01.01


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị Thu Hương

Hà Nội-2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan : Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sƣ
Tiến sỹ Đặng Thị Thu Hƣơng.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Hà Thị Ngần


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đặng Thị Thu Hương Chủ nhiệm khoa và cũng là người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Chủ nhiệm Khoa Báo chí truyền thông và các giảng viên đã trực
tiếp giảng dạy, những cán bộ của khoa Báo chí truyền thông cũng như các
phòng, khoa liên quan của Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Đài Phát thanh - Truyền hình Bắc Kạn, nơi tôi công tác.
Lãnh đạo và người dân các xã, thôn, bản tôi đã đến nghiên cứu.
Người thân trong gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn.
Do công tác tại một tỉnh miền núi khó khăn, địa bàn rộng, trình độ dân

trí của đối tượng nghiên cứu còn hạn chế, trong khi việc tiếp cận các thông tin
mới của tác giả gặp nhiều trở ngại và thời gian nghiên cứu không nhiều nên
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý
chân thành, xây dựng của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp để luận văn
này thực sự là một công trình nghiên cứu có giá trị.
Hà Nội, tháng 11 năm 2015

Hà Thị Ngần


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… 4
1. Lý do lựa chọn đề tài………………………………………………………….…4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………………6
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu………………………………………..………10
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu……………………………………………......11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………………………………11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn………………………………………………….. 12
7. Kết cấu của luận văn…………………………………………………………...13
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SẢN
XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH KHOA GIÁO DÀNH CHO ĐỒNG
BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ……………………………………………..………14
1.1. Hệ thống các khái niệm liên quan đến đề tài………..………………….…..14
1.2. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc đối với đồng bào dân tộc
thiểu số & báo chí dành cho đồng bào dân tộc thiểu số………………………...21
1.3.Đặc trƣng của truyền hình và vai trò của truyền hình đối với đồng bào dân
tộc thiểu số……………………………………………………………….………..26
1.4. Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Kạn…………….……………30
Tiểu kết chƣơng 1………………………………………………………...……….37
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH

KHOA GIÁO DÀNH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở ĐÀI PHÁT
THANH VÀ TRUYỀN HÌNH TỈNH BẮC KẠN……………………………….39
2.1. Vài nét về Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh Bắc Kạn và diện mạo các
chƣơng trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc
Kạn…………………………………………………………………………..…….39
2.2. Khảo sát về số lƣợng, thời lƣợng, tần suất, thời điểm phát sóng của chƣơng
trình truyền hình khoa giáo…………………………………………..………….46
2.3. Nội dung chƣơng trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh & Truyền
hình tỉnh Bắc Kạn…………………………………………………………..……49
1


2.4. Hình thức thể hiện các chƣơng trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát
thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn………………………………………..……60
2.5. Quy trình sản xuất chƣơng trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh
và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn…………………………………………………….70
Tiểu kết chƣơng 2……………………………………………………...………….75
Chƣơng 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH KHOA
GIÁO Ở ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH TỈNH BẮC KẠN HIỆN
NAY………………………………………………………………………………..76
3.1. Thành công và hạn chế của chƣơng trình………………………………….76
3.2. Nguyên nhân thành công và hạn chế……………………………………….86
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với chƣơng trình truyền hình khoa giáo dành cho
đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh Bắc Kạn………..........89
3.4. Mục tiêu, giải pháp đối với chƣơng trình truyền hình khoa giáo dành cho
đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh Bắc Kạn……………..93
Tiểu kết chƣơng 3…………………………………………..…………………...101
KẾT LUẬN………………………………………………………………………103


2


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

DTTS:

Dân tộc thiểu số

KHXH&NV :

Khoa học xã hội và nhân văn

MC:

Người dẫn chương trình

PT&TH:

Phát thanh & Truyền hình

PT- TH :

Phát thanh- Truyền hình

PTV:

Phát thanh viên

THVN:


Truyền hình Việt Nam

TNVN:

Tiếng nói Việt Nam

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Thông tin về khoa học, giáo dục là những thông tin rất cần thiết đối với con
người ở mọi thời đại. Nó góp phần hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Các
chương trình tuyên truyền về khoa học - giáo dục (sau đây gọi tắt là khoa giáo) trên
sóng phát thanh - truyền hình và internet truyền tải thông tin, kiến thức khoa học
giáo dục sinh động với sự hỗ trợ của âm thanh, hình ảnh là các chương trình phổ
biến ở cả Đài truyền hình Trung ương và các Đài địa phương, trong đó có Đài Phát
thanh & Truyền hình tỉnh Bắc Kạn.
Tỉnh Bắc Kạn hiện vẫn đang còn nhiều vùng lõm về thông tin khoa học- giáo
dục. Mặc dù trong thời đại bùng nổ các phương tiện truyền thông ở mọi lúc, mọi nơi
với một lượng thông tin khổng lồ về các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhưng hoạt
động truyền thông về lĩnh vực khoa học – giáo dục ở tỉnh Bắc Kạn vẫn thiếu thông
tin phù hợp ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (sau đây
viết tắt là DTTS) nghèo khó, trình độ dân trí thấp. Không chỉ thiếu về lượng thông
tin mà cách thức thông tin cũng chưa hiệu quả; có những thông tin cần thiết chưa
được đưa đến công chúng; có những người rất cần được truyền thông nhưng chưa
nhận được những thông tin mà họ cần.
Đối với đồng bào DTTS ở các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Bắc Kạn hiện
nay, việc tiếp nhận thông tin, kiến thức khoa học chủ yếu mới chỉ là thông tin khoa

học trong lĩnh vực nông- lâm nghiệp, qua hệ thống khuyến nông cơ sở, tại các buổi
hội nghị tập huấn tập trung. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ khuyến nông còn thiếu và
yếu, trình độ chuyên môn và hoạt động của họ chưa đồng đều. Điều kiện địa hình
phức tạp, chia cắt, giao thông đi lại khó khăn khiến cho nhiều người dân không có
đủ khả năng tham dự các lớp tập huấn tập trung, dẫn đến còn rất nhiều đồng bào
DTTS chưa được tiếp cận với thông tin khoa học. So với các bài giảng khan về vấn
đề khoa học- giáo dục của các giảng viên tại hội trường, các thông tin bằng chữ và
ảnh qua sách báo, áp phíc, tờ rơi …thì thông tin khoa giáo bằng âm thanh trong các

4


chương trình phát thanh và thêm hình ảnh động trong các chương trình truyền hình
có sức hấp dẫn và mang lại hiệu quả tốt hơn.
Hiện nay, cấp ủy, chính quyền địa phương một số nơi ở tỉnh Bắc Kạn vẫn còn
có biểu hiện chủ quan, thiếu quan tâm đến công tác giáo dục, tuyên truyền phổ biến
kiến thức khoa học cho người dân. Hoặc có tuyên truyền thì cũng chưa có cách thức
triển khai phù hợp. Các thế lực thù địch, phản cách mạng đang lợi dụng những yếu
kém, hạn chế này để chống phá Đảng và tuyên truyền những luận điệu sai trái, nội
dung phản khoa học, gây ảnh hưởng xấu, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội vùng
đồng bào DTTS. Công chúng của các Đài Phát thanh và truyền hình ở Bắc Kạn chủ
yếu là đồng bào DTTS, trong đó có một bộ phận trình độ dân trí còn thấp. Số lượng
khán giả là đồng bào DTTS quan tâm đến các chương trình của Đài địa phương
chưa nhiều. Một trong những lí do chính là vì Đài chưa có nhiều chương trình hấp
dẫn được đồng bào DTTS quan tâm. Nghiên cứu, tìm tòi sản xuất các chương trình
phát thanh - truyền hình phù hợp, có tác dụng nâng cao dân trí cho bộ phận khán giả
chiếm đa số ở địa phương là nhiệm vụ cần được Đài ưu tiên thực hiện.
Việc xây dựng kế hoạch sản xuất, phát sóng và các vấn đề liên quan đến
chương trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh và Truyền hình Bắc Kạn hiện
nay còn thể hiện nhiều bất cập. Từ việc tổ chức bộ máy, bố trí nhân lực cho đến

cách thức tổ chức sản xuất chương trình đều đang còn những hạn chế. Đặc biệt là
đối với những chương trình truyền hình chuyên biệt dành cho đối tượng công chúng
là đồng bào dân tộc thiểu số. Những hạn chế này đòi hỏi phải có sự quan tâm
nghiên cứu để tìm giải pháp khắc phục kịp thời.
Việc đổi mới phương thức sản xuất chương trình khoa giáo cho đồng bào
DTTS ở Đài Phát thanh và Truyền hình Bắc Kạn là hoạt động cấp thiết cần quan
tâm thực hiện. Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn cần tổ chức sản xuất
những chương trình tuyên truyền về khoa học- giáo dục có nội dung thiết thực, cách
truyền tải phù hợp, phục vụ tốt hơn cho bộ phận công chúng vùng cao đang cần
được quan tâm hỗ trợ. Tuy nhiên, hiện nay Đài Phát thanh & Truyền hình Bắc Kạn
đang thiếu những lý luận nền tảng làm cơ sở khoa học. Đến thời điểm hiện tại, chưa
5


có công trình nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu về chương trình truyền hình
khoa giáo dành cho đồng bào dân tộc thiểu số để Đài Phát thanh & Truyền hình Bắc
Kạn tham khảo, vận dụng thực hiện. Chương trình truyền hình khoa giáo dành cho
đồng bào dân tộc thiểu số ở Đài Phát thanh và Truyền hình Bắc cần được nghiên
cứu để đưa ra được những đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế, đề xuất được những giải pháp để phát huy được hiệu quả của
chương trình. Đó chính là lí do mà tác giả luận văn chọn nghiên cứu về vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về chức năng nâng cao dân trí của báo chí
Chương trình truyền hình khoa giáo là nhóm chương trình truyền hình
chuyên sâu về khoa học, giáo dục, mang đến cho công chúng những kiến thức bổ
ích góp phần nâng cao dân trí, phát triển xã hội.
Đã có nhiều quan điểm lí luận của các nhà tư tưởng về vai trò to lớn của báo
chí trong việc tham gia phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ xã hội tiến bộ.
Nhà chính trị, phê bình Đức Bớcnơ Lútvích (1786-1837) cho rằng: Một mặt, báo
chí là phương tiện nhận thức thực tiễn, mặt khác, báo chí là công cụ đấu tranh chính

trị, ủng hộ và bảo vệ tiến bộ xã hội. Thời kỳ Mác- Ănghen, hai ông đề cao chức
năng truyền bá tư tưởng và cổ vũ hành động của báo chí. Các Mác đã lợi dụng triệt
để tự do báo chí tư sản nửa cuối thế kỷ XIX để truyền bá hệ tư tưởng mới – chủ
nghĩa xã hội khoa học do ông sáng lập. Các nhà lí luận báo chí Xô viết trong thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1917 đến 1991 đã khái quát 3 nhóm chức năng
của báo chí , trong đó có nhóm chức năng khai sáng- giải trí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “ Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách
mạng; cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ” . “ Chiến sỹ” mà Bác nói ở đây
là chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng văn hóa. Nhà báo thông qua các sự kiện của đời
sống để giải thích, giải đáp và thuyết phục nhân dân. Người cũng căn dặn các nhà
báo cần luôn nhớ mỗi khi cầm bút, đó là: “Viết cho ai, viết như thế nào?”. Ngay khi
cách mạng vừa dành được chính quyền, điều mà Người quan tâm đầu tiên chính là

6


vận động toàn dân diệt giặc đói, giặc dốt. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan
trọng của việc nâng cao dân trí trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Đề cập đến chức năng giáo dục tư tưởng, chức năng phát triển văn hóa và
giải trí, nhóm tác giả Dương Xuân Sơn- Đinh Văn Hường- Trần Quang cho rằng:
“Báo chí là một trong những phương tiện quan trọng của Đảng thực hiện chức năng
giáo dục chính trị- tư tưởng cho quần chúng. Hoạt động giáo dục tư tưởng của báo
chí dựa trên sự tác động có tính thuyết phục bằng việc thông tin những sự kiện, hiện
tượng, quá trình của đời sống xã hội một cách trung thực và khách quan. Sự phản
ánh kịp thời, phong phú các sự kiện, kết hợp với minh chứng chặt chẽ và khoa học
là cơ sở tạo nên chất lượng mới trong nhận thức của công chúng- sự nhận thức có lý
trí, tự giác những quan điểm về cuộc sống, những lý tưởng xã hội, những giá trị của
hiện thực” [32, tr 77]. Một trong những nội dung tuyên truyền của Báo chí được đề
cập là: “Truyền bá những tri thức lịch sử, khoa học tiên tiến nhằm xây dựng và phát
triển lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, xây dựng lối sống lành mạnh, tích cực và

tiến bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của xã hội” [32, tr 81]
Tác giả Nguyễn Văn Dững cho rằng: “ Khai sáng là làm cho dân được mở
mang, có thể gắn liền hay gần gũi với khái niệm văn hóa. Trong khái niệm văn hóa,
có nhiều yếu tố cấu thành nhưng hai thành tố có vai trò trung tâm là khoa học công
nghệ và giáo dục đào tạo” [6, tr192]. Tác giả phân tích: “ Khi nói đến chức năng
giáo dục của báo chí cũng có nghĩa là nên chú ý nhấn mạnh giáo dục chính trị, tư
tưởng, trách nhiệm công dân; giáo dục, cung cấp kiến thức hiểu biết về pháp luật và
ý thức chấp hành pháp luật; trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm
ăn,… cho mỗi cá nhân/ nhóm xã hội cũng như cho cộng đồng dân cư” [6, tr 196]
2.2. Các công trình nghiên cứu về công tác khoa giáo dành cho đồng bào dân
tộc thiểu số
Thực hiện đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác dân tộc, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc thiểu số và các công tác trong vùng đồng
bào DTTS. Một số tài liệu liên quan đến các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc
như: Các dân tộc thiểu số Việt Nam ( nhiều tác giả, NXB Văn hóa, 1959), Tìm hiểu

7


tính cách dân tộc, tác giả Nguyễn Hồng Phong ( NXB Khoa học, 1963), Miền núi
và con người, tác giả Lê Bá Thảo( NXB Khoa học và kỹ thuật, 1971), Người Dao ở
Việt Nam, nhiều tác giả ( NXB Khoa học xã hội, 1971), Các dân tộc ít người ở Việt
Nam ( các tỉnh phía Bắc, nhiều tác giả ( NXB Khoa học xã hội, 1978), Các dân tộc
Tày- Nùng ở Việt Nam( Nhiều tác giả, Viện Dân tộc và NXB Văn hóa dân tộc xuất
bản năm 1992), Phong tục tập quán dân tộc Tày Việt Bắc của hai tác giả Hoàng
Quyết – Tuấn Dũng (NXB Văn hóa thể thao xuất bản năm 1994), Nguồn gốc lịch sử
tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam của nhóm tác giả Nguyễn Chí HuyênHoàng Hoa Toàn- Lương Văn Bảo ( NXB Văn hóa dân tộc xuất bản năm 2000),
Các dân tộc ở Bắc Kạn ( NXB Thế giới, 2003), Bản sắc và truyền thống văn hóa các
dân tộc tỉnh Bắc Kạn( NXB Văn hóa dân tộc, 2004)…
Năm 2006, Ban Khoa giáo Trung ương xuất bản cuốn Công tác khoa giáo

vùng đồng bào dân tộc thiểu số (tài liệu lưu hành nội bộ). Tài liệu này hệ thống toàn
bộ quan điểm và định hướng của Đảng về công tác khoa giáo đối với đồng bào
DTTS; Vấn đề đẩy mạnh hơn nữa công tác khoa giáo vùng đồng bào DTTS và
Công tác khoa giáo vùng đồng bào DTTS phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Tài liệu cũng đã phản ánh kết qua công tác khoa giáo vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với từng lĩnh vực: Giáo
dục và đào tạo, Khoa học công nghệ và môi trường, Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
nhân dân, Dân số, gia đình và trẻ em, Thể dục thể thao.
2.3. Các công trình nghiên cứu về thông tin khoa học, chỉ dẫn và truyền thông
cho đồng bào DTTS
Cùng với các công trình nghiên cứu đã xuất bản, còn có những đề tài nghiên
cứu về vai trò của báo chí; chức năng khai sáng của báo chí; việc tổ chức sản xuất
tác phẩm báo chí cho đồng bào dân tộc thiểu số được bảo vệ thành công trước các
hội đồng khoa học như:
Năm 2007, tác giả Trần Bảo Khánh đã bảo vệ thành công Luận án tiến sỹ
với đề tài “Đặc điểm công chúng truyền hình Việt Nam giai đoạn hiện nay”. Tuy
nhiên trong luận án này tác giả chỉ đề cập một khía cạnh nhỏ và khá chung về công

8


chúng truyền hình khu vực miền núi phía Bắc. Một số khóa luận, luận văn của một
số sinh viên khoa Báo chí, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội như: “Các ấn phẩm
báo chí của TTXVN phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thời kỳ đổi
mới” của Trương Văn Quân; “Vấn đề chỉ dẫn-tư vấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp
cho nông dân trên báo chí Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Hồng Vân; “Thông tin
kinh tế - xã hội trên báo trực tuyến các tỉnh miền núi phía bắc” của tác giả Hoàng
Chung Thảo; “Công tác đào tạo nghiệp vụ báo hình trong xu thế xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình” -Lê Thu Hà; “Sử dụng thông tin đồ họa trong các chương
trình truyền hình hiện nay” - Ngô Thị Yến; “ Báo chí với việc tuyên truyền, giáo

dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên” - Trần Thanh Huyền ; Báo chí địa phương với
vấn đề hội nhập kinh tế thế giới” - Bạch Thị Thanh; “Báo chí với vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở’”- Trần Thị Thu Thuỷ; “Thông tin sức
khỏe trên báo chí Việt Nam hiện nay: Vấn đề và thảo luận” - Bùi Thị Thu Thủy;
“Vai trò của báo chí ngành giáo dục và đào tạo trong thời kì đổi mới” - Nguyễn
Xuân Đức…
Đối với Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn, luận văn thạc sỹ báo
chí của tác giả Nguyễn Đức Thành mang tên “Chương trình truyền hình tiếng
H’Mông của Đài Phát thanh Truyền hình Bắc Kạn” đã nêu khái quát quá trình hình
thành, phát triển của chương trình truyền hình tiếng H’Mông, Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh Bắc Kạn. Đề tài này mặc dù đã nghiên cứu về truyền hình dành
cho đồng bào dân tộc thiểu số nhưng mới chỉ nghiên cứu sâu về chương trình truyền
hình đối với riêng đồng bào dân tộc H’Mông ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh
Bắc Kạn. Đề tài chưa đi sâu vào nghiên cứu các chương trình khoa giáo dành cho
đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn.
Những công trình nghiên cứu, những luận văn hay khóa luận của các tác giả
trên đây đều là những tài liệu quý. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu nào chuyên sâu về chương trình khoa giáo dành cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn. Trên cơ sở những tài liệu và thực tiễn trên, tác giả đề tài “
Chương trình truyền hình khoa giáo dành cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh và

9


Truyền hình tỉnh Bắc Kạn” sẽ tham khảo thông tin, vận dụng kinh nghiệm của
những người nghiên cứu trước để tập trung nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng chương trình truyền hình khoa giáo dành cho
đồng bào dân tộc thiểu số của Đài PT&TH tỉnh Bắc Kạn nhằm hệ thống lại các khái

niệm nền tảng, đưa ra những đánh giá chính xác, khách quan về các chương trình
truyền hình khoa giáo dành cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh & Truyền hình
tỉnh Bắc Kạn. Phân tích điểm mạnh, những hạn chế, nguyên nhân, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình khoa giáo dành
cho đồng bào DTTS ở tỉnh Bắc Kạn.
3.2.Nội dung nghiên cứu
Để nghiên cứu về chương trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh Bắc Kạn, tác giả luận văn sẽ thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất: Hệ thống lại cơ sở lí luận phục vụ cho việc nghiên cứu. Đó là các
khái niệm về truyền hình, chương trình truyền hình, chương trình truyền hình khoa
giáo và những khái niệm liên quan đến đề tài như: công chúng, truyền thông cho
đồng bào DTTS, những ảnh hưởng của chương trình truyền hình khoa giáo đối với
đời sống đồng bào DTTS.
Thứ hai, làm rõ chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và tỉnh Bắc Kạn
về vấn đề nâng cao dân trí, đời sống mọi mặt của đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi, vùng cao. Làm rõ chủ trương, quan điểm của Đài Phát thanh và Truyền hình
tỉnh Bắc Kạn đối với việc sản xuất chương trình truyền hình khoa giáo cho đồng
bào DTTS ở địa phương.
Thứ ba: Phân tích đặc điểm của chương trình truyển hình khoa giáo ở Đài
Phát thanh & Truyền hình tỉnh Bắc Kạn, đưa ra được những nhận xét chính xác,
khách quan về chương trình, đánh giá được thực tế hoạt động sản xuất chương trình

10


truyền hình khoa giáo cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh
Bắc Kạn.
Thứ tư: Phân tích ưu điểm, hạn chế của hoạt động sản xuất chương trình
truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn. Tìm nguyên

nhân của những thành công và hạn chế. Rút ra được kinh nghiệm trong quá trình
sản xuất chương trình truyền hình khoa giáo cho đồng bào DTTS.
Thứ 5: Nhận định những yêu cầu đối với việc sản xuất chương trình truyền
hình khoa giáo dành cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc
Kạn giai đoạn hiện nay. Đề xuất những định hướng và giải pháp triển khai hoạt
động sản xuất chương trình truyền hình khoa giáo cho đồng bào DTTS ở Đài Phát
thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chương trình truyền hình khoa giáo
dành cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chương trình truyền hình khoa giáo dành
cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh & truyền hình tỉnh Bắc Kạn trong 2 năm
2012- 2013 và 6 tháng đầu năm 2014.
Nghiên cứu tham khảo phục vụ mục đích so sánh, đối chiếu: Mô hình tổ
chức bộ máy và chương trình truyền hình khoa giáo ở Đài Truyền hình Việt Nam;
các Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống lý luận và quan điểm, học
thuyết của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về hoạt động của báo chí với các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liê ̣u thứ cấp : Đề tài hệ thống hoá những vấn đề lý
luận cơ bản về truyền hình, về vai trò, cơ chế tác động của truyền hình tới công
chúng và những ảnh hưởng tới nhận thức, hành vi, của công chúng.
Phương pháp phân tích thông điệp truyền thông: Phương pháp này sẽ được
thực hiện thông qua việc phân tích các sản phẩm( các chương trình khoa giáo truyền
11


hình) được phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn trong 2 năm
2012- 2013 và 6 tháng đầu năm 2014

Phương pháp phỏng vấn: Thực hiện phỏng vấn sâu một số hộ đồng bào DTTS
có điều kiện xem được chương trình truyền hình của Đài Phát thanh và Truyền
hình tỉnh Bắc Kạn. Đây là các hộ đồng bào DTTS được chọn lựa ngẫu nhiên ở các
xã thuộc 2 huyện Ba Bể và Pác Nặm của tỉnh Bắc Kạn ( là 2 huyện đang được
hưởng chế độ huyện nghèo theo Quyết định 30a) và các huyện Chợ Đồn, Na Rỳ,
Bạch Thông. Các câu hỏi xoay quanh việc tiếp nhận các sản phẩm khoa giáo truyền
hình của Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn cũng như những suy nghĩ, quan
điểm về vấn đề này. Phỏng vấn một số phóng viên và chuyên gia trực tiếp tham gia
sản xuất chương trình khoa giáo cho đồng bào DTTS về việc thực hiện chương
trình truyền hình khoa giáo và những kiến nghị. Với kết quả thu được, tác giả tiếp
tục sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để đưa ra những nhận định khách
quan nhất về thực trạng sản xuất và hiệu quả của chương trình khoa giáo truyền
hình đối với đồng bào DTTS ở Bắc Kạn.
Phương pháp quan sát: Đi thực tế tại các vùng đồng bào DTTS ở Bắc Kạn,
quan sát đời sống của đồng bào, tìm hiểu thông tin, quan sát về việc xem chương
trình truyền hình Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn của bà con..v.v…
Từ kết quả nghiên cứu bằng nhiều phương pháp, tác giả sẽ tổng hợp, phân tích
và đưa ra những nhận định về chương trình truyền hình khoa giáo ở Đài Phát thanh
& Truyền hình tỉnh Bắc Kạn, nhu cầu của công chúng DTTS ở tỉnh Bắc Kạn, những
yêu cầu đối với chương trình truyền hình khoa giáo dành cho đồng bào DTTS ở tỉnh
Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài là tài liệu khoa học lý luận về báo chí truyền thông, có thể sử dụng làm
cơ sở để các phóng viên, nhà nghiên cứu tham khảo trong quá trình tác nghiệp hoặc
nghiên cứu về hoạt động thông tin tuyên truyền kiến thức khoa học giáo dục ở tỉnh
Bắc Kạn nói riêng, vùng miền núi, vùng cao, vùng đồng bào DTTS nói chung.

12



Đồng thời, đề tài cũng sẽ cung cấp, bổ sung những cơ sở lý luận về truyền
thông đối với khu vực công chúng là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi
phía Bắc nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn nói riêng. Củng cố
những lý luận về các chương trình khoa giáo truyền hình mang tính chuyên biệt về
đối tượng khán giả, nhất là chuyên biệt về đối tượng là người DTTS. Củng cố và bổ
sung lý luận về sử dụng ngôn ngữ cũng như vấn đề về hình ảnh, con người trong
các chương trình khoa giáo truyền hình dành cho đồng bào DTTS.
Đối với thực tiễn sản xuất chương trình khoa giáo truyền hình ở Đài Phát
thanh & Truyền hình tỉnh Bắc Kạn, thông qua việc nghiên cứu, đề tài đưa ra những
nhận định khoa học về thực trạng chương trình truyền hình khoa giáo cho đồng bào
DTTS ở Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn. Với luận chứng, luận cứ khoa
học, đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất phương hướng và giải pháp phù hợp để
có được chương trình khoa giáo truyền hình bổ ích, thiết thực cho đồng bào DTTS ở
tỉnh Bắc Kạn
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu bởi
các phần chính sau đây:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc sản xuất chương trình
khoa giáo dành cho đồng bào dân tộc thiểu só ở Bắc Kạn
- Chương 2. Thực trạng chương trình truyền hình khoa giáo dành cho đồng
bào dân tộc thiểu số ở Đài Phát thanh &Truyền hình tỉnh Bắc Kạn
- Chương 3. Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng chương
trình truyền hình khoa giáo dành cho đồng bào DTTS ở Đài Phát thanh &Truyền
hình tỉnh Bắc Kạn hiện nay

13


Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SẢN
XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH KHOA GIÁO DÀNH CHO ĐỒNG

BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Hệ thống các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Truyền hình
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng lớn. Do nhu cầu thông tin,
giao tiếp của đời sống xã hội con người nên có sự ra đời của báo chí. Ngày nay, nói
đến báo chí người ta thường nhắc đến bốn loại hình báo chí cơ bản đó là: báo in,
báo nói ( phát thanh), báo hình ( truyền hình) và báo điện tử.
“Truyền hình là kênh truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động
với nhiều sắc màu vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động”[7, tr
118]
“Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin
bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện”
[33,tr5]. “ Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng
Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “videre” là ''thấy
được'', còn tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại “Televidere”
có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, tiếng Pháp là “Television”,
tiếng Nga gọi là “Tелевидение”. Như vậy, dù có phát triển bất cứ ở đâu, ở quốc gia
nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung một nghĩa”[ 33, tr 8]. Tác giả Nguyễn
Văn Dững cho rằng: “Truyền hình là kênh truyền thông chuyển tải thông điệp bằng
hình ảnh động với nhiều sắc màu vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc,
tiếng động” [ 7, tr 118].
Xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ sự
phát triển của khoa học công nghệ, truyền hình tạo ra một kênh thông tin quan trọng
trong đời sống xã hội. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận thông tin bằng con
đường thị giác; khác với phát thanh, công chúng tiếp cận thông tin bằng con đường
14


thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự việc bằng cả thị giác và thính giác. Do
vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy

cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện.
Hiện nay, với sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ, công chúng xem truyền
hình không phải cứ ngồi trước tivi mới xem được mà có thể xem trên máy tính hoặc
đi đường cũng có thể xem được chương trình qua điện thoại di động .v.v… Chương
trình truyền hình cũng không còn đơn giản là chỉ những hình ảnh, âm thanh, chữ
viết nữa mà trong mỗi sản phẩm truyền hình đã tích hợp rất nhiều hình thức thể hiện
khác nhau với vô vàn những hiệu ứng, những kỹ sảo sinh động của kỷ nguyên
truyền hình kỹ thuật số, điều mà truyền hình sử dụng công nghệ analog trước đây
chưa thể làm được.
1.1.2. Chƣơng trình truyền hình
Tác giả Dương Xuân Sơn cho rằng: “Chương trình truyền hình là sự liên kết,
sắp xếp, bố trí hợp lý các tin bài, bảng tư liệu hình ảnh và âm thanh, được mở đầu
bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng yêu cầu
tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho
khán giả.”[ 33, tr 95]
Trong thực tế hiện nay thì có rất nhiều cách thể hiện thông tin trên truyền
hình khiến người ta có rất nhiều cách để hình dung về diện mạo một chương trình
truyền hình. Đưa ra định nghĩa đầy đủ về chương trình truyền hình cũng trở nên khó
khăn hơn. Toàn bộ quá trình từ lúc bắt đầu xuất hiện hình hiệu mở đầu chương trình
đến khi xuất hiện các dấu hiệu kết thúc chương trình như: lời chào hết chương trình
của phát thanh viên hay bảng chữ ghi tên người thực hiện, đơn vị thực hiện thì có
thể coi là một chương trình truyền hình. Tuy nhiên, quá trình thông tin này có thể
lại nằm trong một chuỗi các thông tin khác và khi đó nó lại trở thành thông tin thành
phần của một chương trình truyền hình lớn hơn, đó là tình trạng chương trình nằm
trong chương trình. Ví dụ: Một mục nhỏ (thời lượng 5phút ) nằm trong một chương
trình thời lượng 15 phút.
15


Khác với báo in, độc giả tiếp nhận thông tin chủ động theo nhiều chiều,

truyền hình bắt buộc công chúng tiếp nhận thông tin thụ động theo thời gian tuyến
tính. Vì thế, khi nói xem truyền hình thì cần hiểu là xem chương trình truyền hình.
Xem hết chương trình này thì mới đến chương trình khác. Các chương trình truyền
hình được nhận biết bởi tên của chương trình. Ví dụ: Thời sự, Bản tin tài chính,
Bản tin thời tiết, Bản tin thể thao, Chúng tôi là chiến sỹ, Nhà nông đua tài…
Một chương trình truyền hình hiện nay không chỉ là một tổng hợp của các
tin, bài lại với nhau. Có nhiều chương trình chỉ có một nội dung xuyên suốt, chung
một cách thức thể hiện. Ví dụ: Chương trình Tọa đàm đối thoại chính sách chỉ có
một nội dung là các câu hỏi của MC, các câu trả lời, bình luận của khách mời về
chính sách; Các chương trình khoa giáo giới thiệu về thế giới động vật, tiến trình
văn hóa hoặc một giờ giảng bổ trợ kiến thức cho học sinh … đều chỉ có một nội
dung từ đầu đến cuối chương trình. Tương tự, các game show, các chương trình
truyền hình thực tế cũng không phải đã được cấu tạo từ những tin, bài. Có chương
trình thời lượng dài vài chục phút đến vài tiếng đồng hồ nhưng cũng có chương
trình ngắn chỉ vài phút. Tuy nhiên những nội dung này đều có tính độc lập rất cao
so với các chương trình khác phát liền với nó.
Trong luận văn cao học, Lê Mai Hương Trà (Đại học KHXH & NV, 2011)
cho rằng truyền hình chuyên biệt “là một hình thức truyền hình dịch vụ được xây
dựng chuyên nghiệp phát sóng hàng ngày có nội dung chuyên sâu về một lĩnh vực
nhất định (âm nhạc, thể thao, tài chính…) hoặc có nội dung chỉ dành cho một nhóm
đối tượng khán giả mục tiêu (có những đặc điểm chung về lứa tuổi , giới tính, địa
lý...) nhằ m mu ̣c tiêu phu ̣c vu ̣ tố t nhấ t nhu cầ u của công chúng xem truyề n hình

.”

[36, tr 4]. Hiện nay, công chúng có nhiều cách để xem truyền hình. Ngoài cách phổ
thông là xem bằng tivi, người ta có thể xem trên điện thoại di động có chức năng
thu tín hiệu truyền hình hoặc xem chương trình qua internet trên máy tính, điện
thoại. Khi xem các sản phẩm truyền thông trên internet, nếu xem truyền hình trực
tuyến thì người xem sẽ được tiếp cận với chương trình truyền hình như khi xem


16


bằng tivi. Tuy nhiên, đa số người xem qua internet chọn xem lại từng sản phẩm
truyền thông riêng lẻ của truyền hình là các videoclip về từng chương trình truyền
hình mà họ yêu thích. Trong luận văn này, tác giả luận văn dùng từ chương trình
truyền hình để chỉ một sản phẩm truyền thông hoàn chỉnh, được phát sóng trên Đài
truyền hình. Sản phẩm truyền thông này có tên gọi cụ thể, có mở đầu, có kết thúc,
có nội dung độc lập với các sản phẩm truyền thông đứng trước và sau nó.
1.1.3. Chƣơng trình truyền hình khoa giáo
Khoa giáo là từ ghép được hình thành bởi hai từ “khoa” và “giáo”. Trong các
sách từ điển Hán Việt, từ “khoa” đứng riêng hoặc ghép với các từ khác, khi được
dịch sang tiếng Việt trở thành những từ mang những ý nghĩa khác nhau, trong đó,
có từ “ khoa” trong từ “khoa học” ( 科學 ) được dùng với nghĩa là khoa học (“một
học thuật nào có dòng phái có thể thống mà khả dĩ đứng một mình” – Từ điển Thiều
Chửu). Theo sách Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, xuất bản năm 1932, “giáo”
là truyền bá tôn - giáo hoặc giáo – nghĩa ( Trang 322).
Hiện nay, trong văn bản pháp quy của nhà nước và trong giao tiếp hàng
ngày, chúng ta đang dùng từ “khoa giáo” như là cách gọi tắt của cụm từ “khoa học giáo dục”. Nói đến “khoa giáo” là nói đến hai lĩnh vực khoa học (tiếng
Anh: science) và giáo dục (tiếng Anh: education). Lĩnh vực Khoa học bao gồm:
khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên. Trong đó,
khoa học công nghệ là ngành khoa học nghiên cứu về hệ thống, quy trình và kỹ
thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết bị, phương
pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Khoa
học xã hội và nhân văn bao gồm các môn khoa học nghiên cứu về các phương diện
con người như: Nhân học, truyền tin học, nghiên cứu về văn hóa, kinh tế học, giáo
dục, địa lý học nhân văn, sử học, văn học ngôn ngữ học, chính trị học, tâm lý học,
triết học, tôn giáo, chính sách xã hội, xã hội học…Khoa học tự nhiên tìm hiểu về
thế giới quanh chúng ta và vũ trụ. Gồm 5 phân ngành chính là: hóa học (trung tâm),


17


thiên văn học, khoa học Trái Đất, vật lý, và sinh học. Lĩnh vực Giáo dục gồm: mầm
non, phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học.
Công tác khoa giáo là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong các lĩnh
vực nói trên nhằm thực hiện đường lối của Đảng; phát huy sức mạnh của toàn dân,
chăm lo nhân tố con người, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu vận
dụng, đưa nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng trưởng kinh
tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Công tác khoa giáo bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn như khoa học và công nghệ;
giáo dục và đào tạo; chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ; dân số, gia đình và trẻ em; thể dục,
thể thao; công tác tri thức khoa học; công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Ở Việt
Nam, có một hệ thống tổ chức bộ máy chuyên về công tác khoa giáo từ Trung ương
đến địa phương. Cấp Trung ương có Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan tham
mưu của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị,
Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực khoa giáo (bao gồm
khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, sức khoẻ, giới trí thức khoa học). Dưới Ban
Tuyên giáo Trung ương là các Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Thành ủy. Dưới Ban Tuyên
giáo các tỉnh là hệ thống các Ban Tuyên giáo Huyện ủy và tương đương. Ở một số
địa phương có cả Ban tuyên giáo cấp xã và tương đương.
Trong hoạt động truyền thông, cụm từ “khoa giáo”, “ khoa học giáo dục”
được dùng đi kèm với sản phẩm truyền thông. Ví dụ như: thông tin khoa giáo,
phóng sự khoa giáo, chương trình khoa giáo, kênh truyền hình khoa học giáo dục
(VTV2) của Đài THVN, hệ phát thanh văn hóa đời sống khoa giáo( VOV2) của Đài
TNVN... Cụm từ “khoa giáo” ở đây sẽ giúp người nghe nhận biết được đó là sản
phẩm truyền thông có nội dung khoa giáo (khi cần phân biệt với sản phẩm truyền
thông có nội dung thời sự hoặc phục vụ nhu cầu giải trí cho công chúng.)
Theo tác giả thì thông tin khoa giáo là các thông tin về vấn đề khoa giáo, có

tính chất khoa giáo. Còn chương trình truyền hình khoa giáo là chương trình truyền
hình có nội dung chuyên về thông tin khoa giáo, có mục đích cung cấp cho công
18


chúng những thông tin, kiến thức trong lĩnh vực khoa học, giáo dục. Nội dung
thông tin mang tính chất phổ biến, hướng dẫn, chỉ dẫn cách thức thực hiện các vấn
đề thuộc lĩnh vực khoa học, giáo dục chính là đặc điểm riêng có của chương trình
truyền hình khoa giáo, giúp chúng ta phân biệt được chương trình truyền hình khoa
giáo với các chương trình ở lĩnh vực khác. Chương trình truyền hình khoa giáo có
thể được hình thành bởi một nội dung thông tin khoa giáo đơn lẻ ( Ví dụ: Chương
trình Khám phá chỉ có một phóng sự khoa giáo dài 15 phút về khám phá hang
động), hoặc nhiều nội dung thông tin khoa giáo ghép lại với nhau( Ví dụ: Chương
trình Giáo dục & Đào tạo có 5 tin và 1 phóng sự về các hoạt động trong ngành giáo
dục). Chương trình truyền hình khoa giáo cũng có thể là một hình thức truyền tải
thông tin trên truyền hình. ( Ví dụ: Các chương trình dạy học qua truyền hình, dạy
học từ xa, trò chơi truyền hình về lĩnh vực khoa học, giáo dục)
Chương trình truyền hình khoa giáo là chương trình truyền hình độc lập nằm
trong kết cấu chương trình tổng thể của một kênh truyền hình tổng hợp như ở các
Đài Truyền hình địa phương đang làm hiện nay. Chương trình truyền hình khoa
giáo có thể phát triển thành kênh truyền hình chuyên biệt như kênh khoa học giáo
dục VTV2 của Đài Truyền hình Việt Nam hiện nay.
1.1.4. Công chúng truyền hình
Trong cuốn “ Cơ sở lý luận báo chí”, tác giả Nguyễn Văn Dững cho rằng:
“Công chúng báo chí là quần thể dân cư hay nhóm đối tượng mà báo chí gây ảnh
hưởng hoặc hướng vào để gây ảnh hưởng. Như vậy công chúng báo chí được xem
xét trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí, với cơ quan báo chí và với nhà báo”
[7, tr 139]. Báo chí tác động vào công chúng để cung cấp, trao đổi và chia sẻ thông
tin, thuyết phục gây ảnh hưởng để có thể làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
của họ theo mục đích thông tin nhất định. Về khía cạnh kinh tế, công chúng báo chí

là khách hàng của cơ quan báo chí; trên khía cạnh xã hội, là lực lượng quan trọng,
quyết định vai trò, vị thế xã hội của cơ quan báo chí. Theo tác giả luận văn thì công
chúng truyền hình là nhóm công chúng xem được chương trình truyền hình. Họ có
19


điều kiện tiếp cận với chương trình truyền hình do có nhu cầu xem truyền hình, có
điều kiện tiếp cận các thiết bị kỹ thuật thu tín hiệu truyền hình và hỗ trợ xem
chương trình truyền hình ( ti vi, máy tính, điện thoại di động thông minh).
Công chúng truyền hình hiện nay rất phong phú với những nhu cầu rất đa
dạng. Trước đây, đa số công chúng truyền hình là công chúng phổ thông, đại trà.
Ngày nay, với sự phát triển của xã hội, đã có sự phân lập cao trong công chúng
truyền thông nói chung, công chúng truyền hình nói riêng. Các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra một số nhóm công chúng trong xã hội Việt Nam gần đây như: Công chúng trí
thức, công chúng nông dân, công chúng lao động tự do, học sinh, sinh viên, thanh
niên, phụ nữ, người cao tuổi, trẻ em, đồng bào DTTS, lực lượng vũ trang, nhà khoa
học, người hâm mộ bóng đá, thể thao, phim ảnh , người đam mê khoa học công
nghệ, người quan tâm đến vấn đề sức khỏe, người tâm đến lĩnh vực tài chính, tiền
tệ…Với mỗi nhóm công chúng, truyền thông cần có một cách tiếp cận riêng phù
hợp với nhu cầu của họ. Đó là lí do xuất hiện hàng loạt các báo, tạp chí, kênh truyền
hình, chương trình truyền hình chuyên biệt dành cho nhóm công chúng. Có thể kể
ra một số kênh truyền hình chuyên biệt như O2 TV, Bóng đá TV, info TV, HBO,
phim Việt, VTV2, VTV3, VTV4, VTV5, VTV6…
Công chúng DTTS là nhóm công chúng thuộc đối tượng nghiên cứu của luận
văn này. Công chúng DTTS là những người DTTS chịu tác động của truyền thông,
họ có trình độ không đồng đều, trải khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Song, tập
trung nhiều nhất ở khu vực trung du và miền núi. Ở vùng Đông Bắc, tỷ lệ DTTS
chiếm đến 41,3% dân số toàn vùng. Các DTTS đa phần không cư trú trên một lãnh
địa riêng, biệt lập và tập trung mà sống xen ghép lẫn nhau trên cùng địa bàn. Theo
một nghiên cứu của World Bank, đa phần lao động của vùng dân tộc và miền núi

Việt Nam (hơn 80%) là thuộc ngành nông, lâm nghiệp; thiếu việc làm trong thời
gian nông nhàn là không thể tránh khỏi nhưng ở những vùng này sự di chuyển lao
động cũng rất hạn chế. Người lao động dường như chưa thể đi ra khỏi làng, bản, xã
mình để làm việc và kiếm việc. Người DTTS chiếm 15% dân số của Việt Nam

20


nhưng chiếm tới 70% nhóm đối tượng cực nghèo (được đo lường theo chuẩn cực
nghèo quốc gia). Hơn 10 triệu người nghèo thuộc về vùng miền núi và chủ yếu là
đồng bào DTTS. Trong suốt hai thập kỷ tăng trưởng nhanh của Việt Nam, người
DTTS đã có mức sống được cải thiện lên một cách toàn diện, song thành quả được
hưởng của nhóm đối tượng này còn kém xa so với dân tộc chiếm đa số là người
Kinh. Các yếu tố tương quan là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo cao của người
DTTS ở Việt Nam bao gồm: Bị cách biệt về địa lý và hạn chế trong tiếp cận thị
trường; Bị cô lập về mặt xã hội, yếu tố văn hóa và ngôn ngữ; Hạn chế trong tiếp cận
đất đai có chất lượng; Tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống thấp và Trình độ học vấn
thấp(Gabriel Demombynes, 2013).
Trong luận văn này, công chúng truyền hình được khai thác chủ yếu trong
nhóm công chúng là đồng bào DTTS ở tỉnh Bắc Kạn xem được truyền hình. Họ có
thể được gọi theo cách khác là khán giả truyền hình hoặc người xem truyền hình.
1.2. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc đối với đồng bào DTTS và
báo chí dành cho đồng bào DTTS
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có quan điểm rõ ràng và nhất quán về
vấn đề phổ cập giáo dục toàn dân, nâng cao trình độ dân trí về mọi mặt. Hệ thống
quan điểm lý luận của Đảng dựa trên những nền tảng lý luận cơ bản như: Quan
điểm triết học Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về văn hóa, về
giáo dục và phát triển khoa học công nghệ; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng, về công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền và
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đối với đồng bào DTTS, từ Đại hội I ( tháng

3/ 1935), Đảng đã có Nghị quyết “ Về công tác trong các DTTS”. Hiến pháp năm
1946- Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam độc lập khẳng định: “ Ngoài sự bình
đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để
tiến kịp trình độ chung”. Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Việt Nam ( tháng 2/
1951) đã quyết nghị: “ Cải thiện đời sống cho các DTTS, giúp đỡ họ tiến bộ về mọi
mặt, đảm bảo họ tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong giáo dục ở các địa
21


×