Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

NGHIÊN cứu ẢNH HưỞNG của HOẠT ĐỘNG CHUYÊN CANH HOA đến môi TRƢỜNG đất VÙNG VEN đô hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

NGUYỄN HOÀNG LINH

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG
CHUYÊN CANH HOA ĐẾN MÔI TRƢỜNG ĐẤT
VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Môi trường đất và nước
Mã số: 62440303

DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG

Hà Nội – 2016


Công trình được hoàn thành tại

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Lê Văn Thiện
2. PGS.TS. Ngô Thị Tƣờng Châu

Phản biện 1:……………………………………..
Phản biện 2:……………………………………..
Phản biện 3:……………………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia
chấm luận án Tiến sĩ họp tại: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên


vào hồi
giờ
ngày tháng
năm 2016

Có thể tìm hiểu Luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Những năm gần đây việc sử dụng phân bón, chất kích thích sinh trưởng và hóa chất
bảo vệ thực vật (HCBVTV) trong thâm canh sản xuất, đặc biệt trong thâm canh hoa, rau đang
có xu hướng gia tăng cả về số lượng lẫn chủng loại. Một thực tế hiện nay là việc sử dụng
HCBVTV tràn lan, không thể kiểm soát đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất,
nước, không khí, sức khoẻ con người và môi trường sinh thái.
Mặt khác, xã hội đang ngày càng phát triển nên nhu cầu lương thực và làm đẹp cho
cuộc sống ngày càng tăng, vì thế nghề trồng hoa và rau trở thành nghề sản xuất chính tại một
số vùng chuyên canh ngoại thành Hà Nội nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực và thú
chơi hoa trong nước và xuất khẩu. Người dân trong một số vùng đã chuyển đổi từ trồng lúa
sang chuyên canh trồng hoa, rau và nổi lên trong đó có phường Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà
Nội và xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội. Trong khoảng 20 năm trở lại đây đã có sự
chuyển đổi cơ cấu canh tác nên đến nay kinh tế trong các hộ nông dân tại đây đã hoàn toàn
thay đổi, nhiều hộ gia đình trở thành “triệu phú”, cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể. Tuy
nhiên, sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang hoa, rau với mức thâm canh cao đã làm phát
sinh những vấn đề môi trường do sử dụng phân bón hóa học, chất kích thích sinh trưởng,
HCBVTV quá mức trong chuyên canh nhằm tối đa hoá lợi nhuận nên đã và đang ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe cộng đồng.
Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động

chuyên canh hoa đến môi trường đất vùng ven đô Hà Nội” nhằm đánh giá tổng thể tác động
của hoạt động chuyên canh hoa đến chất lượng môi trường đất và đề xuất các giải pháp canh
tác bền vững cho địa bàn nghiên cứu. Đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao, hướng tới
nền nông nghiệp bền vững cho các vùng ngoại thành Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói
chung.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của Luận án
Nghiên cứu, đánh giá tác động của hoạt động chuyên canh hoa đến chất lượng môi
trường đất, đặc biệt thông qua sự đánh giá mức độ tồn dư hoá chất bảo vệ thực vật, kim loại
nặng trong môi trường đất và ảnh hưởng của chúng đến hệ sinh học đất; trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường đất chuyên canh trong
hoa.
3. Những đóng góp mới của Luận án
a) Đã đánh giá một cách có hệ thống các yếu tố tác động đến môi trường đất vùng
chuyên canh hoa tại các ruộng trồng hoa tại phường Tây Tựu và Xã Mê Linh (Hà Nội) thông
qua kết quả phân tích nước tưới, phân bón, vôi bột, hóa chất bảo vệ thực vật, tàn dư của cây
hoa trong đất và đất trồng hoa hồng, hoa đồng tiền, hoa cúc.
b) Đã xác định thấy mối liên hệ giữa mức độ bón phân và vôi cho đất trồng cây hoa
đến mức độ tích lu Cu, Cd, n, s, Hg trong môi trường đất ở cả hai khu vực nghiên cứu.
Hầu hết các kim loại nặng đều giảm dần theo độ sâu của phẫu diện đất. Mức độ tích lũy kim
loại nặng trong đất chuyên canh hoa giảm dần theo thứ tự đất trồng hoa hồng > đất trồng hoa
cúc và hoa đồng tiền > đất trồng rau. Ở tầng đất 0-20 cm trồng hoa Hồng thuộc vùng chuyên
canh hoa Tây Tựu thì Cu, Cd và Pb dạng tổng số đều vượt ngưỡng QCVN 03:2008 tương ứng
là 3,17 lần, 2,62 lần và 1,57 lần; Hg, n nằm trong mức an toàn, và còn ở vùng chuyên canh
hoa xã Mê Linh, hàm lượng Cd và Cu tổng số trong đất vượt ngưỡng cho phép theo QCVN
03:2008/BTNMT tương ứng là 2,42 lần và 2,58 lần; As, Zn, Hg nằm trong mức an toàn.
d) Đã xác định thấy mối liên quan giữa sử dụng và tích lũy hóa chất bảo vệ thực vật
trong môi trường đất trồng hoa. Trong đất trồng hoa ở hai vùng nghiên cứu tìm thấy nhiều
loại hóa chất bảo vệ thực vật, nhưng chỉ có các chất clo hữu cơ thì vượt ngưỡng cho phép theo
QCVN 15:2008/BTNMT. Ở Tây Tựu, DDT trong đất trồng hoa Hồng vượt 1,42-1,65 lần, đất
trồng hoa cúc vượt không đáng kể; Ở Mê Linh, mức độ tích lũy trong đất trồng hoa hồng lớn

hơn trong đất trồng hoa cúc và hoa đồng tiền, thấp nhất là đất trồng rau. Lượng BHC, DDT,
DDE vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 15:2008/BTNMT, trong đó BHC trong đất trồng hoa
Hồng vượt 10,4-12,7 lần.
e) Đã dụng chỉ số đa dạng H’ và chỉ số đồng đều J’ để đánh giá tác động của hoạt
động chuyên canh hoa, cho thấy cấu trúc quần xã chân khớp bé Collembola ở các ruộng thu
mẫu ở Tây Tựu và Mê Linh đã chịu ảnh hưởng bởi lượng sự ô nhiễm KLN và HCBVTV.
Điều này thể hiện ở chỗ, trong ruộng chuyên canh trồng hoa mức độ đa dạng H’ của quần xã
1


động vật chân khớp bé Collembola thấp hơn so trong đất đối chứng; so với đất đối chứng,
quần xã ở các ruộng chuyên canh trồng hoa lại kém bền vững, kém ổn định hơn so với đất đối
chứng không bị tác động bởi sự tích tụ chất gây ô nhiễm.Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận các
loài ưu thế vượt trội ở các ruộng chuyên canh trồng hoa riêng biệt ở Tây Tựu là Isotomurus
palutris, Cryptopygus thermophilus, Sminthurides bothrium, Isotomurus punctiferus,
Cyphoderus javanus; và ở Mê Linh là Isotomurus palutris, Cyphoderus javanus,
Protaphorura tamdaona. Các loài này giảm dần trong đất chuyên canh trồng hoa theo thứ tự:
rau, hoa cúc, hoa hồng 2 năm, hoa hồng 6 năm, hoa hồng 4 năm, hoa đồng tiền.
g) Lần đầu tiên sử dụng k thuật điện di trên gel biến thiên (DGGE) để xác định loài
và đánh giá sự biến động về thành phần, số lượng vi sinh vật đất chuyên canh trồng hoa tại hai
vùng nghiên cứu. Số lượng VSV tổng số ở mẫu đất đối chứng cao hơn các mẫu đất chuyên
canh trồng hoa. Các nhóm VSV chức năng ở các mẫu đất chuyên canh trồng hoa lớn hơn mẫu
đối chứng, nhưng chênh lệch không nhiều. Dựa vào trình tự 16S r RN, đã xác định thấy, năm
trong số sáu loài vi khuẩn ưu thế là các vi khuẩn chưa được nuôi cấy (B1-B5). Chỉ có loài vi
khuẩn B6 là loài thuộc chi Klebsiella đã được công bố với tên gọi là Klebsiella sp. Những loài
vi khuẩn chưa được nuôi cấy này được kỳ vọng là những loài mới.
4. Bố cục của Luận án
Luận án có 137 trang gồm phần mở đầu 04 trang; Chương 1: Tổng quan dài 28 trang,
có 05 bảng; Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu dài 15 trang, có 04 bảng;
Chương 3: Kết quả và Thảo luận dài 68 trang, có 29 bảng và 09 hình; Kết luận dài 03 trang,

có 06 kết luận; Kiến nghị: có 04 kiến nghị; Danh mục các công trình khoa học có liên quan
đến Luận án đã được công bố dài 01 trang, có 06 công trình; Tài liệu tham khảo dài 18 trang,
có tổng số là 184 tài liệu trong đó có 25 tài liệu tiếng Việt và 159 tài liệu tiếng nh; Phụ lục
gồm 36 Phụ lục.

2


NỘI DUNG CHÍNH CỦA LUẬN ÁN
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đất canh tác và nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lƣợng đất
Kết cấu của đất ảnh hưởng rất lớn tới các tính chất đất, nhất là tính chất vật lý của đất.
Tỷ trọng của đất được quyết định chủ yếu bởi các loại khoáng nguyên sinh, thứ sinh và hàm
lượng chất hữu cơ trong đất. Nhìn chung do tỷ lệ chất hữu cơ trong đất thường không lớn nên
tỷ trọng đất sẽ phụ thuộc chủ yếu vào thành phần khoáng vật của đất, thường dao động từ 2,5
- 2,8.
- Một số nhóm chỉ tiêu lý hóa học đất:
+ Phản ứng của đất. Phản ứng của đất biểu thị mức độ chua hay kiềm của đất, được
đo và biểu hiện bằng giá trị pH [69].
+ Dung tích hấp thụ (dung tích trao đổi cation - CEC), tổng bazơ trao đổi (S), độ bão
hòa bazơ của đất (BS): Dung tích hấp thụ của đất phụ thuộc vào thành phần keo, thành phần
cơ giới đất, tỷ lệ SiO2/R2O3 và pH. Đất càng nhiều mùn và montmorilonit thì CEC càng lớn;
thành phần cơ giới đất càng nặng thì CEC càng lớn; tỷ lệ SiO2/R2O3 càng lớn thì CEC càng
lớn; độ pH đất tăng lên thì CEC cũng tăng lên [69]. Khi pH của đất bằng 8,2 thì giá trị CEC
của mỗi loại đất là khác nhau.
+ Hàm lượng kim loại nặng trong đất. Đất luôn có chứa một số lượng KLN nhất định
[19]. Ở Việt Nam, đất sử dụng trong nông nghiệp có qui định ngưỡng giá trị giới hạn cho
phép của tổng số một số KLN [3], theo đó hàm lượng (mg/kg) của Cu là 50, Zn là 200, Pb là
70, As là 12, Cd là 2, Hg là 2.
+ Hàm lượng một số chất dinh dưỡng chủ yếu trong đất: Chỉ tiêu đánh giá hàm lượng

phốt pho tổng số (P2O5 tổng số) được chia thành 3 mức như sau: Giàu: P2O5 tổng số > 0,10%;
trung bình: P2O5 tổng số từ 0,06 - 0,10%, nghèo: P2O5 tổng số < 0,06% [11] . Hàm lượng của
nguyên tố nitơ trong đất được chia thành các mức: rất cao (> 0,35%), cao (0,226 - 0,3%),
trung bình (0,126 - 0,226%), thấp (0,05 - 0,126%), rất thấp (< 0,05%) [69].
- Một số nhóm chỉ tiêu sinh học đất
Tính toán của các nhà khoa học đất cho thấy, trên 1ha đất trồng trọt (độ sâu 20-30 cm)
có 5-7 tấn vi khuẩn, 2-3 tấn nấm men, nấm mốc, xạ khuẩn, động vật nguyên sinh... và 3-4 tấn
động vật không xương sống (giun, ấu trùng, sâu bọ, tuyến trùng...). Vì vậy khi đánh giá về
sinh học đất, các nhà khoa học đất đã đề xuất các chỉ tiêu về số lượng vi sinh vật trong đất;
khả năng nitrat hóa và khả năng cố định đạm trong đất; cường độ phân giải xenlulorơ, hô hấp
của đất, và hoạt tính men của đất.
1.2. Ảnh hƣởng của hoạt động canh tác nông nghiệp tới chất lƣợng đất
1.2.1. Ảnh hưởng của quá trình canh tác tới chất hữu cơ trong đất
Khi bón phân hữu cơ sẽ là tăng hàm lượng SOM trong đất. SOM là thành phần quan
trọng góp phần làm tăng độ phì của đất, tăng hoạt tính của đất và tăng tính bền vững của cấu
trúc đất. Nó góp phần làm giảm thiểu tác động tiêu cực của môi trường, và do đó cải thiện
chất lượng đất [11].
Loại cây trồng ảnh hưởng tới SOM cũng như chất lượng đất rất mạnh mẽ trong các hệ
độc canh liên tục. Những tác động tiêu cực của độc canh nổi bật là nghèo hóa hệ động vật đất;
tăng số lượng dịch hại cây trồng; giảm hoạt động của quá trình dehidrogenaza và phốt phát
hóa và tăng hàm lượng các axit phenolic trong đất.
1.2.2. Ảnh hưởng của bón phân tới hàm lượng các nguyên tố trong đất
Bón phân là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp,
ảnh hưởng của nó trên các chất dinh dưỡng sẵn có trong đất. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng,
khi sử dụng phân bón bón cho cây trồng sẽ làm tăng đáng kể hàm lượng N, P, K và SOM
trong lớp đất canh tác so với lớp đất phía dưới [90]. Nếu duy trì lớp phủ tàn dư thực vật sau
thu hoạch và tăng tỷ lệ lượng phân bón các loại sẽ có thể duy trì được chất lượng đất [35].

3



Bên cạnh đó các loại phân bón vô cơ, vôi và phân hữu cơ, phân bùn,… có một lượng
đáng kể các KLN. Thành phần KLN trong phân bón đã nêu trên đã được một số tác giả
nghiên cứu. Trong số các loại phân nghiên cứu các tác giả chỉ ra rằng phân lân có chứa hàm
lượng KLN khá cao.
Phân lân là một trong những nguồn đầu vào KLN vào các hệ thống nông nghiệp.
Quặng phốt phat chứa nhiều nguyên tố KLN với giá trị dao động khoảng 1-100 mgCd/kg, 70110 mg Cr/kg, 1-1000 mgCu/kg, 0-117 mgNi/kg, 0-45 mgPb/kg, 4-1000 mgZn/kg, 0-710
mgF/kg và 8-220 mgU/kg [39, 55, 100]. Trong k thuật trồng hoa, để cho cây hoa cứng cáp
và mầu hoa đẹp người ta đã bón một lượng lớn các phân khác nhau, trong đó có một lượng
lớn phân lân, vì vậy làm tăng đáng kể hàm lượng KLN trong môi trường đất.
1.2.3. Ảnh hưởng của nước tưới tiêu tới hàm lượng các nguyên tố trong đất
Chất lượng nước sử dụng để tưới tiêu được nêu trong tiêu chuẩn Việt Nam QCVN
08:2008/BTNMT. Hiện nay, một số vùng nông nghiệp sử dụng nước tưới tiêu có hàm lượng
một số KLN cao hơn tiêu chuẩn cho phép, dẫn đến làm gia tăng hàm lượng các kim loại này
trong đất trồng trọt. Ví dụ, ở Hà Nội, sông Nhuệ được sử dụng để tưới cho một vùng rộng lớn
đất nông nghiệp, trong đó có vùng trồng hoa Tây Tựu. Theo các kết quả nghiên cứu giai đoạn
2011-2012 cho thấy, chất lượng nước sông Nhuệ đã và đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, không
đáp ứng tiêu chuẩn cho sản xuất nông nghiệp, các thông số phân tích đều vượt quá tiêu chuẩn
cho phép đối với chất lượng nước tưới tiêu QCVN 08:2008/BTNMT [9].
Từ kết quả theo dõi sự biến động hàm lượng KLN trong đất nông nghiệp Việt Nam
trong giai đoạn 2002–2007 đã chỉ ra rằng, sự tích lũy KLN trong các loại đất nông nghiệp có
xu hướng gia tăng theo thời gian và nhóm đất đỏ trong hệ thống canh tác nông nghiệp của
nước ta hiện đang trong tình trạng báo động về sự tích lũy KLN vượt giới hạn cho phép [24].
1.2.4. Ảnh hưởng của kỹ thuật làm đất đến tính chất hóa lý của đất
Hoạt động làm đất giúp tăng khả năng tiếp cận chất hữu cơ của vi sinh vật đất [51, 36]
qua đó tăng quá trình giải phóng N cho đất [101]. Các nhà khoa học cho rằng biện pháp lên
luống vĩnh cửu kết hợp với giữ lại dư lượng sinh khối sau thu hoạch giúp vi đoàn lạp đất ổn
định hơn qua đó tăng cường bảo vệ C và N so với biện pháp cày bừa thông thường [108].
Nhiều nghiên cứu cho thấy, đất không cày bừa có thể duy trì và tăng tính tính linh động của
các chất dinh dưỡng, chẳng hạn như K ở tầng đất gần bề mặt đất nơi có hệ rễ thực vật hoạt

động [71]. Biện pháp lên luống vĩnh viễn cho hàm lượng K cao hơn 1,65 lần trong lớp đất 0-5
cm và 1,43 lần trong lớp 5-20 cm so với canh tác lên luống thông thường khi cả hai phương
thức canh tác đều kết hợp với sự duy trì tàn dư thực vật trền bề mặt [77]. Các nghiên cứu khác
đã cho thấy mức độ K có thể chiết rút cao hơn trong tầng đất mặt khi cường độ cày bừa giảm
[91, 173], và hàm lượng K tăng trong đất không cày bừa so với đất cày bừa thông thường,
nhưng tác dụng này giảm theo độ sâu [60]; và cũng đã quan sát thấy sự tích tụ trên lớp đất bề
mặt của K linh động không phụ thuộc vào thực tế cày bừa hay độ sâu của đất [61, 68, 88, 88,
114, 150].
1.2.5. Ảnh hưởng của tàn dư thực vật tới chất lượng đất
Sử dụng tàn dư thực vật như một loại phân bón hữu cơ cho đất đã có tác động đáng kể
đến chất lượng đất. Sự phân hủy chậm của tàn dư thực vật của lớp phủ trên mặt đất có thể
giúp giảm thiểu quá trình thẩm thấu nhanh chóng qua phẫu diện đất của các nguyên tố dinh
dưỡng [34, 103]. Tuy nhiên, mật độ cao hơn của các khoảng hổng trong đất có thể khiến quá
trình thẩm thấu của các chất dinh dưỡng hòa tan nhanh hơn và thấm sâu hơn vào các tầng đất
bên dưới tầng canh tác [70, 94]. Một phương thức khác sử dụng tàn dư thực vật làm phân bón
dưới dạng đốt các tàn dư này. Những báo cáo về biện pháp đốt tàn dư sinh khối sau thu hoạch
cho thấy, điều này có thể tăng lượng dinh dưỡng dễ tiêu một cách tức thời trong tầng đất mặt
cho cây trồng hút thu [60]. Tuy nhiên, đốt tàn dư cây trồng không được coi là một hình thức
bền vững do các tác động tiêu cực tới tính chất vật lý đất, đặc biệt là khi quá trình này được
kết hợp với các biện pháp giảm làm đất trước khi gieo trồng [109].
1.2.6. Ảnh hưởng khi sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đến hệ sinh vật đất
1.2.6.1. Ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật trong đất canh tác
4


Việc sử dụng hóa chất BVTV trong canh tác nông nghiệp sẽ dẫn đến làm ô nhiễm môi
trường đất bởi các hóa chất này. Tùy thuộc vào loại hóa chất BVTV mà đất có thể bị nhiễm các chất
ở dạng hữu cơ và KLN hoặc cả hai loại này. Trong thực tế, nếu không sử dụng hóa chất BVTV
cho các mục đích khác nhau, trong đó có trồng trọt thì trong môi trường đất nói chung và đất
canh tác nông nghiệp nói riêng không bị ô nhiễm bởi hóa chất BVTV dạng hữu cơ và KLN

hoặc cả hai loại này. Đất bị ô nhiễm hóa chất BVTV gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng đất và
gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy
định ngưỡng giá trị cho phép hàm lượng hóa chất BVTV trong môi trường đất. Việt Nam đã
có quy định về ngưỡng hàm lượng hóa chất BVTV cho phép trong môi trường đất [2].
Nghiên cứu tại hai khu vực nông nghiệp Alau Dam và Gongulong thuộc Bang Borno
của Nigeria cho thấy, dư lượng hóa chất BVTV dạng phốt pho hữu cơ (dichlorvos, diazinon,
chlorpyrifos và fenitrothion) đã được phát hiện trong tất cả các các mẫu đất nghiên cứu. Nồng
độ tất cả các loại hóa chất BVTV ở độ sâu 21-30cm trong các mẫu đất cao hơn ở độ sâu 010cm; và đều cao hơn nhiều lần so với giới hạn cho phép của Liên minh châu Âu [29]. Kết
quả nghiên cứu trên đất nông nghiệp thâm canh ở phía Bắc Ấn Độ về hàm lượng hóa chất
BVTV cho thấy, 4,27% trong tổng số 49 mẫu đất phát hiện có dư lượng của DDT và 100% số
mẫu đất có ô nhiễm chất hữu cơ bền (OCPs) là lindan, aldrin, endrin, dieldrin, p,p’-DDE,
p,p’-DDD, p,p’-DDT [41].
Ở Việt Nam, các loại hóa chất BVTV đã được sử dụng từ những năm 50-60 của Thế
kỷ trước để phòng trừ các loại dịch bệnh khác nhau. Từ năm 1957 đến 1980, hóa chất BVTV
được sử dụng khoảng 100 tấn/năm. Những năm gần đây việc sử dụng hóa chất BVTV đã tăng
đáng kể cả về khối lượng lẫn chủng loại. Vào các năm cuối của thập kỷ 80, lượng hóa chất
BVTV sử dụng là 10.000 tấn/năm; và đến các năm của thập kỷ 90, lượng hóa chất BVTV sử
dụng đã tăng lên gấp đôi (21.600 tấn/năm vào năm 1990), và tăng lên gấp ba (33.000 tấn/năm
vào năm 1995). Diện tích đất canh tác sử dụng hóa chất BVTV cũng tăng theo thời gian từ
0,48% (năm 1960) lên khoảng 80-90% (năm 1997).
1.2.6.2. Ảnh hưởng của hóa chất bảo vệ thực vật đến hệ sinh vật đất
Trong những năm gần đây thuốc hóa học đã được sử dụng nhiều và đã góp phần quan
trọng trong việc bảo vệ cây trồng, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc hóa học
với số lượng lớn, liên tục đã biểu hiện các mặt trái của nó như: tiêu diệt nhiều thiên địch,
nhiều loại vi sinh vật có ích, tích lũy chất độc trong nông sản, gây ô nhiễm môi trường đất do
tồn lưu trong đất… Tác động của mỗi loại thuốc hóa học đến hệ vi sinh vật đất là khác nhau
tùy thuộc vào loại thuốc, nồng độ sử dụng, phương pháp sử dụng…
1.2.7. Ảnh hưởng của nước tưới và bón phân đến hệ sinh vật đất
1.2.7.1. Ảnh hưởng của nước tưới
Đất úng nước được thoát nước, đất bị hạn được tưới nước là biện pháp canh tác có ý

nghĩa đối với cải tạo tính chất lý, hóa đất, làm thay đổi chế độ thoáng khí, phản ứng môi
trường, điện thế hóa khử trong đất.
1.2.7.2. Ảnh hưởng của phân bón
Bón các loại phân vô cơ và hữu cơ vào đất sẽ phát huy tác dụng nhanh hay chậm,
nhiều hay ít phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chuyển hóa của vi sinh vật đất. Ngược lại, phân
bón có tác dụng tốt tăng cường số lượng và hoạt tính vi sinh vật đất. Tùy theo loại phân, liều
lượng bón và phương pháp bón mà ảnh hưởng đến hệ sinh vật đất khác nhau.
+ Phân vô cơ: Bón phân hóa học một cách hợp lý có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển
vi sinh vật đất. Các nguyên tố N, P, K, Ca, vi lượng rất cần thiết đối với vi sinh vật và chúng
đòi hỏi các nguyên tố theo một tỉ lệ nhất định.
+ Phân hữu cơ: Vì hầu hết các loại phân bón hữu cơ là các sản phẩm chất thải, tỷ lệ
sử dụng chúng thường được quyết định bởi tính sẵn có hơn là nhu cầu. Hầu hết việc bón phân
hữu cơ chủ yếu để mang lại lợi ích tăng trưởng thực vật.
1.2.7.3. Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm vi sinh vật vào đất
Việc bổ sung các chế phẩm vi sinh vật tự nhiên hay được biến đổi di truyền có thể
được phân chia theo đặc tính của chúng: (i) tồn tại chính trong môi trường đất của chúng (bản
5


địa), (ii) cư trú trong vùng rễ, (iii) hình thành các mối quan hệ cộng sinh với thực vật, hoặc
(iv) thúc đẩy hoạt động của vi sinh vật trên bề mặt lá hoặc rơm.
1.3. Kỹ thuật điện di biến tính DGGE trong nghiên cứu sự biến động thành phần loài
của hệ vi sinh vật đất
1.3.1. Phương pháp “dấu vân tay” phân tích quần xã vi sinh vật đất
Phần lớn các phương pháp “dấu vân tay” dựa vào các k thuật sinh học phân tử với
việc sử dụng ADN hoặc RN đã được tách chiết, thực hiện phản ứng khuếch đại (PCR) và
theo sau là k thuật điện di. Trong số các phương pháp “dấu vân tay” hiện đang được sử dụng
để so sánh sự biến động của các quần xã vi sinh vật theo không gian và thời gian ở một phạm
vi rộng của các môi trường khác nhau, k thuật DGGE dựa vào sự khác nhau trong đặc tính
tan chảy của các phân tử ADN sợi đôi được sử dụng rộng rãi nhất. Điều quan trọng là sau đó

nó cho phép một định danh của ít nhất một loài ưu thế nhất trong quần xã vi sinh vật. Chính vì
thế DGGE được xem là một phương pháp chuẩn trong nghiên cứu sinh thái vi sinh phân tử
môi trường.
1.3.2. Kỹ thuật phân tích DGGE
K thuật này bao gồm những bước cơ bản như sau:
+ Tách chiết ADN/ARN trực tiếp từ mẫu môi trường.
+ Khuếch đại các đoạn gen 16S rARN bằng phản ứng PCR.
+ Điện di biến tính DGGE.
+ Nhân dòng, xác định trình tự gen 16S rARN và định danh.
1.4. Kỹ thuật canh tác trồng hoa tại các vùng nghiên cứu
Phần này đề cập tới k thuật canh tác trồng các loại Hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền.
K thuật trồng các loại hoa được tổng hợp dựa trên phương pháp bón các loại Phân bón và
chế độ bón phân, k thuật bón phân, tưới nước và phòng trừ sâu bệnh
1.5. Ảnh hƣởng của chuyên canh trồng hoa tới chất lƣợng đất
1.5.1. Ô nhiễm kim loại nặng và hóa chất bảo vệ thực vật
Ngày nay, hoa và cây được coi không chỉ các sản phẩm nông nghiệp mà hàng hóa đi
kèm với khám phá, trồng trọt, vận chuyển, phân phối và hoạt động kinh doanh trên thị trường
[184]. Việc sử dụng hóa chất BVTV và phân bón trong nông nghiệp góp phần tăng năng suất
cây trồng [57]. Cho đến nay, ngành trồng hoa đã trở thành ngành tiêu thụ lượng phân bón và
hóa chất BVTV cao nhất trong nông nghiệp. Trong chuyên canh trồng hoa sử dụng một lượng
lớn phân lân, phân đạm và vôi đã làm cho hàm lượng KLN trong đất tăng. Đặc biệt là phân
lân có hàm lượng KLN khá cao [28, 46, 115, 160].
1.5.2. Làm suy giảm hệ sinh vật đất
Việc cày bừa xới xáo đất trồng hoa rất hạn chế. Chu kỳ cày bừa xới xáo đất thường kéo
dài hàng năm hoặc vài năm. Quan hệ giữa hệ sinh vật đất và cây trồng là mối quan hệ tương hỗ,
có tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi loại cây trồng có số lượng và thành phần vi sinh vật vùng rễ
nhất định. Vì vậy thay đổi cây trồng, thay đổi chế độ luân canh sẽ dẫn đến sự thay đổi quần thể vi
sinh vật. Những vấn đề ảnh hưởng của chuyên canh hoa đến chất lượng đất, trong đó có các
tác động xấu được nêu ở trên chưa được các nhà khoa học trong nước vàquốc tế quan tâm
nghiên cứu. Điều đó sẽ được đề cập trong công trình nghiên cứu này.


6


CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Các mẫu đất lấy ở các ruộng chuyên canh hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Mẫu
nước mặt và nước ngầm ở khu vực ruộng trồng hoa tương ứng.
- Các mẫu phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng ở các ruộng
trồng hoa được lấy đất để nghiên cứu.
- Các phân bùn, phân chuồng, phân lân, phân urê, vôi sử dụng trong trồng hoa.
- Sinh vật đất trong đất chuyên canh trồng hoa.
Khu vực lấy mẫu nghiên cứ thuộc vùng chuyên canh hóa tại phường Tây Tựu và xã
Mê Linh, thành phố Hà Nội.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu, số liệu
Dựa trên các tài liệu, số liệu đã thu thập, tiến hành tổng hợp, lựa chọn và phân tích các
số liệu, dữ liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
2.2.2. Nhóm phương pháp hóa lý phân tích KLN và hóa chất BVTV
2.2.2.1. Phương pháp ICP-OES
2.2.2.2. Các phương pháp sắc ký
+ Phương pháp sắc ký khí đetectơ cộng kết điện tử.
+ Phương pháp sắc ký khí lỏng cao áp đetectơ diod array
2.2.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu sinh học
2.2.3.1. Phương pháp đánh giá biến động về thành phần và số lượng của vi sinh vật trong đất
bằng kỹ thuật DGGE
2.2.3.2 Phương pháp đánh giá biến động động vật chân khớp béCollembola
- Số lƣợng loài: Số lượng loài được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm thí
nghiệm ở tất cả các lần thu mẫu.
- Số cá thể: Tổng số lượng cá thể có ở tất cả các lần thu mẫu của điểm thí nghiệm.

- Chỉ số đa dạng Shannon-Weaver (H’): được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay
số lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài trong quần
xã.
s

H ' = -å
i-1

ni ni
ln
N N

- Chỉ số đồng đều (J’) hay chỉ số Pielou:

J'

H'
ln( S )

Giá trị của J’ dao động trong khoảng từ 0 đến 1; Giá trị của J’ lớn nhất khi tất
cả các loài trong quần xã có số lượng cá thể bằng nhau hay nói cách khác độ phong
phú của các loài trong quần xã như nhau.
- Loài ƣu thế: là loài có giá trị chỉ số ưu thế bằng hoặc lớn hơn 5%.

D

na
x100
n


2.3. Địa điểm và nơi lấy mẫu nghiên cứu
7


2.3.1. Lấy mẫu đất và mẫu nước
Mẫu đất và mẫu nước được lấy ở các ruộng trồng hoa và rau ở các địa điểm: phường
Tây Tựu (quận Bắc Từ Liêm) và xã Mê Linh (huyện Mê Linh), Hà Nội. Mẫu đất và nước được
lấy 2 lần trong một năm vào tháng 5 và tháng 7 hàng năm. Mẫu lấy vào các năm 2009, 2012,
2014 ở Tây Tựu và năm 2010, 2012, 2014 ở Mê Linh. Các mẫu đất và nước được lấy hàng năm
tại cùng một vị trí. Việc lấy mẫu và bảo quản mẫu được thực hiện theo tiêu chuẩn Việt Nam [4].
+ Mẫu đất được lấy ở các ruộng trồng hoa và trồng rau để phân tích xác định hàm
lượng các ion Ca2+, Mg2+, Cd2+, Cu2+, Pb2+, Zn2+, Hg2+, As3+ và các hóa chất BVTV.
+ Các mẫu nước được lấy ở các ruộng trồng hoa và trồng rau để phân tích xác định
các ion Cd2+, Cu2+, Pb2+, Zn2+ , Hg2+, As3+.
+ Các mẫu đất và nước lấy ở các ruộng trồng hoa, gồm:
- Ruộng trồng hoa hồng 2 năm; Ruộng trồng hoa hồng 4 năm; Ruộng trồng hoa hồng
6 năm; Ruộng trồng hoa cúc; Ruộng trồng hoa đồng tiền;
- Các mẫu đất so sánh được lấy ở ruộng trồng rau cải ngọt; các mẫu đất đối chứng
được lấy ở bãi đất hoang bên đường (ở Tây Tựu) và bên bờ đê sông Hồng (ở Mê Linh) gần
khu vực lấy mẫu nghiên cứu.
Ký hiệu mẫu đất và thông tin hiểu về ký hiệu mẫu như sau:
- Mẫu ký hiệu 3Đ20-H2-T5-10 được hiểu là mẫu của cùng một ruộng trồng hoa hồng
2 năm số 3, mẫu đất, lấy ở độ sâu 0-20 cm, trồng hồng 2 năm, nơi lấy Tây Tựu, lấy tháng
5/2010.
- Mẫu ký hiệu 1Đ40-HC-M7-12 được hiểu là mẫu của cùng một ruộng trồng hoa cúc
số 1, mẫu đất, lấy ở độ sâu 20-40 cm, trồng hoa cúc, nơi lấy Mê Linh, lấy tháng 7/2012.
- Mẫu ký hiệu 6Đ20-ĐC-M7 được hiểu là mẫu đất của cùng một vị trí lấy mẫu số 6, ở
độ sâu 0-20 cm, đất đối chứng, nơi lấy Mê Linh, lấy vào tháng 7 có giá trị trung bình 3 năm.
Tương tự như cách ký hiệu mẫu với các mẫu đất và nước khác.
+ Các mẫu nước lấy ở khu vực nghiên cứu gồm nước mặt, nước giếng khoan. Lấy 5

mẫu nước mặt ở giữa lòng nương dẫn nước tưới ở gần các ruộng trồng hoa và trồng rau lấy
mẫu đất nêu trên; các mẫu nước giếng được lấy từ các vòi hút trưc tiếp từ giếng khoan lên
hoặc lấy trực tiếp ở giếng khoan hở. Mỗi mẫu nước lấy là 500 mL đựng đầy trong chai nhựa
PVC có dung tích 500 mL. Cho vào mỗi lọ mẫu nước 1 mL axít nitric 5N.
2.3.2. Lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu
Sơ đồ và vị trí tọa độ lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu được nêu
trong phần phụ lục của luận án. Ký hiệu mẫu đất và nước lấy ở các ruộng trồng hoa, mẫu đất
so sánh trồng rau và mẫu đất đối chứng lấy ở phường Tây Tựu được nêu ở bảng 2.1.
Tổng số mẫu đất và nước lấy ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu là 152 mẫu, trong đó có 88
mẫu đất và 64 mẫu nước.
2.3.3. Lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Mê Linh
Sơ đồ và vị trí tọa độ lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Mê Linh được nêu
trong phần phụ lục của luận án. Ký hiệu mẫu đất và nước lấy ở các ruộng trồng hoa, mẫu đất
so sánh trồng rau và mẫu đất đối chứng lấy ở Mê Linh được nêu ở bảng 2.2.
Tổng số mẫu đất và nước lấy ở khu vực trồng hoa ở Mê Linh là 152 mẫu, trong đó có
88 mẫu đất và 64 mẫu nước.
2.3.4. Lấy mẫu phân bón và mẫu thực vật
Các mẫu này được lấy để xác định hàm lượng KLN gồm:

8


- Các loại phân bón và hóa chất khác, gồm phân bùn, phân chuồng, phân đạm, phân
lân, phân NPK và vôi; các loại mẫu này được lấy tại các hộ dân có ruộng trồng hoa và trồng
rau được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu.
- Các mẫu thực vật gồm phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng
được lấy tại ruộng trồng hoa, trồng rau ngay sau khi thu hoạch. Các loại mẫu này được lấy tại
các ruộng trồng hoa được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu.
2.3.5. Lấy mẫu đất xác định động vật chân khớp béCollembola
Mẫu định lượng Collembola thu theo phương pháp chuẩn trong nghiên cứu khu hệ và

sinh thái động vật đất được áp dụng để nghiên cứu ở 6 sinh cảnh. Mẫu đất lấy nghiên cứu ở 2
vùng Tây Tựu và Mê Linh ở hai thời điểm, đợt 1 vào tháng 7/2012, đợt 2 vào tháng 5/2013.
Ký hiệu mẫu đất lấy nghiên cứu được chỉ ra trong bảng 2.3.
2.3.6. Lấy mẫu đất xác định vi sinh vật
Các ruộng trồng hoa, trồng rau và đất đối chứng ở Tây Tựu và Mê Linh đã được lấy
mẫu để xác định các KLN, hóa chất BVTV, động vật chân khớp bé Collembola cũng được
thực hiện lấy mẫu để xác định vi sinh vật. Thông tin mẫu đất xác định VSV được thể hiện
trong bảng 2.4.
2.4. Các bƣớc trong nghiên cứu thực nghiệm
2.4.1. Xác định kim loại nặng trong các mẫu nghiên cứu
Các mẫu đất, nước, phân bón, vôi và phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá
cây hoa hồng được lựa chọn để nghiên cứu xác định hàm lượng KLN. Việc xác định các
KLN trong các mẫu này được thực hiện theo các tiêu chuẩn của Việt Nam.
2.4.2. Xác định hóa chất bảo vệ thực vật trong các mẫu nghiên cứu
Các mẫu đất lấy được sử dụng để xác định hàm lượng các hóa chất BVTV. Các hóa
chất BVTV được xác định theo các phương pháp tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế (US
EPA).
2.4.3. Xác định Collembola trong các mẫu nghiên cứu
Collembola và các động vật không xương sống khác được tách ra khỏi đất bằng phễu
Tullgren trong thời gian 7 ngày đêm ở nhiệt độ phòng thí nghiệm.
Xử lý mẫu vật, bảo quản và định loại: Tính đếm số lượng và sử dụng các tài liệu để so
sánh định loại. Các số liệu thu được sử dụng để xác định các giá trị sau: số lượng loài, số cá
thể, chỉ số đa dạng Shannon-Weaver (H’), chỉ số đồng đều (J’) hay chỉ số Pielou, loài ưu thế.
Phương pháp xác định các giá trị này nêu trong phần phương pháp nghiên cứu mục 2.3.3.2.
2.4.4. Xác định vi sinh vật đất bằng kỹ thuật DGGE
Thực hiện 6 bước để xác định VSV bằng phương pháp điện di trên gel biến tính. Bước
1. Tách chiết ADN; Bước 2. Khuếch đại vùng V3 của gen 16S rARN; Bước 3. Điện di
DGGE; Bước 4. Phân tích dữ liệu DGGE; Bước 5. Nhân dòng các sản phẩm PCR được tái
khuếch đại từ các băng DGGE; Bước 6. Xác định trình tự gen 16S r RN và định danh loài.


9


CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm đất, nƣớc và cơ cấu cây trồng khu vực nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm vùng chuyên canh hoa phường Tây Tựu, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội
Địa hình của Tây Tựu tương đối bằng phẳng, cao trung bình phổ biến từ 5,3-6,5 m so
với mặt nước biển. Từ nửa cuối tháng 5 đến tháng 10 trong năm khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều.
Từ tháng 11 đến tháng 4 và nửa đầu tháng 5 năm sau khí hậu lạnh và khô. Mùa mưa thường
kéo dài từ giữa tháng 5 đến tháng 10, tập trung 85% lượng mưa cả năm. Trong vùng có sông
Pheo chạy dọc theo ranh giới phía Tây của xã. Theo tài liệu khoan thăm dò, nguồn nước ngầm
của xã gồm có 3 tầng. Với các điều kiện nêu trên, việc chủ động tưới, tiêu trong canh tác nông
nghiệp nói chung và ngành trồng hoa nói riêng ở phường Tây Tựu là thuận lợi. Tây Tựu đã
phát triển nghề trồng hoa từ năm 1995 với diện tích trồng hoa, rau ban đầu có 120 ha đạt
31,65% diện tích đất nông nghiệp. Tới nay, 100% diện tích trồng lúa đã chuyển sang trồng
hoa và rau màu. Điều này cho thấy sự đột phá trong việc thay đổi cơ cấu cây trồng ở Tây Tựu
hiện nay được cả nước biết đến là một vùng trồng hoa, rau quy mô lớn. Ở Tây Tựu trồng chủ
yếu vẫn là hoa hồng (chiếm hơn 50% diện tích), còn lại là cúc, đồng tiền, lily, lay ơn, loa
kèn... Thị trường tiêu thụ mở rộng tới thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế hay xuất khẩu
sang Trung Quốc.
3.1.2. Đặc điểm vùng chuyên canh hoa xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội
Mê Linh có địa hình tự nhiên khá bằng phẳng, độ cao trung bình so với mặt nước biển
10-13m, không có đất lâm nghiệp, độ dốc nền địa hình thấp.Chế độ mưa, nắng theo mùa ở
vùng này giống như vùng Tây Tựu. Chế độ thủy văn ổn định, nước mặt và nước ngầm khá dồi
dào, tương đối thuận lợi cho ngành trồng hoa. Nghề trồng hoa ở Mê Linh bắt đầu phát triển từ
năm 1995 khi những hộ dân đầu tiên đưa một số giống hoa từ Đà Lạt về trồng, khởi đầu với
diện tích 58 ha tại xã Mê Linh. Đến nay diện tích trồng hoa đã lên tới hàng trăm ha, chiếm
hơn 50% đất nông nghiệp của xã và chiếm hơn 80% diện tích hoa của huyện.Giá trị sản xuất
rau là 30-40 triệu đồng/ha (gấp 2-4 lần trồng lúa) và hoa đạt 50-60 triệu đồng/ha (gấp 5-6 lần
trồng lúa). Có khoảng 10 loại hoa được trồng ở Mê Linh như hoa hồng, hoa cúc, hoa loa kèn,

hoa phăng… nhưng hoa hồng chiếm tới 80% và cũng là nguồn thu nhập chủ yếu trong sản
xuất nông nghiệp.
3.2. Kỹ thuật trồng hoa tại vùng trồng hoa phường Tây Tựu và xã Mê Linh
3.2.1. Hoa hồng
- Phần này thể hiện k thuật trồng hoa hồng thông qua lượng phân bón và chế độ bón phân đối
với hoa hồng.
3.2.2. Hoa cúc
- Phần này thể hiện k thuật trồng hoa hồng thông qua lượng phân bón và chế độ bón phân đối
với hoa cúc.
3.2.3. Hoa đồng tiền
- Phần này thể hiện k thuật trồng hoa hồng thông qua lượng phân bón và chế độ bón phân đối với hoa
đồng tiền.
3.3. Kim loại nặng trong nƣớc tƣới trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh
3.3.1. Khu vực Tây Tựu
Nhìn chung, nước mặt và nước ngầm khu vực chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu chưa bị
ô nhiễm bởi một số kim loại nặng Cd, Zn, Pb, riêng với Cu đã có dấu hiệu bị ô nhiễm vào mùa
mưa và ô nhiễm vào mùa khô. Do vậy nếu sử dụng nước ao bị ô nhiễm Cu để tưới cho cây
trồng thì nguy cơ làm tăng sự tích lũy Cu trong đất là rất cao. Kết quả phân tích xác định hàm
lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới tại vùng chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu
được nêu trong bảng 3.2 và 3.3.
10


Bảng 3.2. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở
Tây Tựu
Hàm lượng (mg/l)
TT
Loại nước
Ký hiệu mẫu
Cu

Pb
Cd
Zn
1
1N-ĐT-T5
0,06
0,02
0,002
0,076
2
2N-CN-T5
0,18
0,02
0,001
0,176
3
3N-H2-T5
0,19
0,004
0,0003
0,139
Nước mặt
4
4N-H4-T5
1,24
0,04
0,003
0,822
5
5N-H6-T5

1,12
0,03
0,006
0,589
6
6N-SN-T5
0,17
0,007
0,0005
0,261
7
7N-NN-T5
0,802.10-3 0,244.10-3 0,132.10-3
0,064
Nước ngầm
8
8N-GK-T5
0,798.10-3 0,148.10-3 0,109.10-3
0,048
QCVN 39:2011
0,5
0,05
0,01
2,0
Bảng 3.1. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở
Tây Tựu
Hàm lƣợng (mg/l)
Ký hiệu
TT Loại nƣớc
mẫu

Cu
Pb
Cd
Zn
1
1N-ĐT-T5
0,06
0,02
0,002
0,076
2
2N-CN-T5
0,18
0,02
0,001
0,176
3
3N-H2-T5
0,19
0,004
0,0003
0,139
Nước mặt
4
4N-H4-T5
1,24
0,04
0,003
0,822
5

5N-H6-T5
1,12
0,03
0,006
0,589
6
6N-SN-T5
0,17
0,007
0,0005
0,261
7
7N-NN-T5
0,802.10-3
0,244.10-3
0,132.10-3
0,064
Nước ngầm
-3
-3
-3
8
8N-GK-T5
0,798.10
0,148.10
0,109.10
0,048
QCVN 39:2011
0,5
0,05

0,01
2,0
3.3.2. Khu vực Mê Linh
Nước tưới tiêu dùng trong chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh không bị ô nhiễm kim
loại nặng và đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn nước tưới tiêu. Việc sử dụng nước tưới tiêu có tiêu
chuẩn như trên trong chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh sẽ không gây ô nhiễm và ảnh hưởng
tới tính chất môi trường đất. Kết quả phân tích xác định hàm lượng trung bình của một số
KLN trong nước tưới tại vùng chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh được nêu trong bảng 3.4 và
3.5.
Bảng 3.4. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 7 hàng năm
ở Mê Linh

TT

Loại nƣớc

1

1N-HC-M7

2
3
4
5
6

Ký hiệu
mẫu
2N-CN-M7


Nước mặt

3N-H2-M7

Hàm lƣợng (mg/l)
Cu
0,032
0,029
0,013

Pb
0,006
0,004
0,005

Cd

Zn

0,244.10

-3

0,082

0,053.10

-3

0,071


0,045.10

-3

0,022

-3

0,091

4N-H4-M7

0,026

0,007

0,129.10

5N-H6-M7

0,072

0,006

0,046.10-3

0,055

0,007


-3

0,059

6N-TĐ-M7

0,038

11

0,137.10


7
8

Nước ngầm

7N-GK-M7

0,687.10-3

0,134.10-3

0,141.10-3

0,052

8N-GK-M7


-3

-3

-3

0,045

QCVN 39:2011

0,744.10

0,183.10

0,038.10

0,05

0,01

0,5

2,0

Bảng 3.5. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở xã Mê
Linh

Hàm lƣợng (mg/l)


Ký hiệu
mẫu

Cu

Pb

Cd

Zn

1

1N-HC-M5

0,14

0,034

0,001

0,792

2

2N-CN-M5

0,21

0,036


0,002

0,645

3N-H2-M5

0,14

0,013

0,004

0,067

4N-H4-M5

0,22

0,065

0,002

0,302

5

5N-H6-M5

0,25


0,020

0,003

0,310

6

6N-TĐ-M5

0,34

TT

3
4

7
8

Loại nƣớc

Nước mặt

Nước ngầm

QCVN 39:2011

7N-GK-M5

8N-GK-M5

0,012
-3

0,81.10

0,768.10
0,5

-3

0,002
-3

0,079

0,142.10

-3

0,064

0,168.10

0,150.10

-3

0,075


0,05

0,01

0,187.10

-3

2,0

3.4. Ảnh hƣởng của hoạt động chuyên canh hoa đến một số tính chất đất ở Tây Tựu và
Mê Linh
3.4.1. Ảnh hưởng của việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật
a) Tình hình sử dụng thuốc BVTV
Kết quả phỏng vấn trực tiếp 36 hộ nông dân về kiến thức và cách sử dụng các loại hóa
chất bảo vệ thực vật cho thấy, nông dân chủ yếu dùng các loại thuốc thuộc nhóm lân hữu cơ
và cacbamat (bảng 3.6). Trong số đó, phổ biến nhất là monitor, wofatox và dipterex. Nhóm
thuốc trừ bệnh có 2 loại thông dụng là microthiol và asimo.Kết quả điều tra nêu ở bảng
3.6.Liều lượng sử dụng các loại thuốc đa số ở mức độ trung bình 10-20 ml/sào đến dưới 30
ml/sào. Một số hộ dùng thuốc với liều cao hơn, chủ yếu ở Tây Tựu: Đại đa số nông dân ở Tây
Tựu phun thuốc 1-3 lần/vụ (88,67%-94,73% số hộ điều tra với cả 7 loại thuốc), trong khi đó
nông dân ở Mê Linh thường phun nhiều hơn với mức 4-6 lần/vụ (46,16%-77,78% đối với 4
loại thuốc wofatox, monitor, dipterex, asimo; và 23,08% với padan).
- 100% số hộ được điều tra ở Mê Linh, 54,17% số hộ ở Tây Tựu trong quá trình sử
dụng thuốc đều tự động tăng nồng độ và thời gian phun, theo họ khi thấy xuất hiện sâu là
phun, phun một loại thuốc không thấy hiệu quả thì pha hỗn hợp 2, 3 loại với nhau,…. Nguyên
nhân của vấn đề trên có thể là do kiến thức hiểu biết về cách sử dụng hóa chất BVTV còn
thấp (bảng 3.7), do thu nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, nên không có sự chọn lọc.
Bảng 3.6. Hi n tr ng s d ng h a chất B T ở Tây Tựu và Mê Linh t nh theo t ng số hộ ã

i u tra
Loại
thuốc

Số hộ s
dụng ( )

Liều lƣợng phun ( )
31-45
10-20
21-30
ml/sà
ml/sào
ml/sào
o

12

Thời gian phun (
60
ml/sào

1-3 lần vụ

)

4-6 lần vụ


Wofatox

Dipterex

Bassa

91,76
39,58
20,80

31,25

Padan

27,08

Microthi
ol
Asimo

31,25
6,25

26,5
3
55,1
0

56,8
1
63,1
5

50,0
0

32,6
5
26,5
3

60,0
0
61,5
3

69,3
9
46,9
4

93,3
3

100

100

100
100
55,5
5
100

27,0
7
50,0
0
91,3
0

Nhóm HC lân hữu cơ
6,6
88,6
6,81
0
0 29,45 0
1
7
26,3
94,7
0
0 0 10,52 0
1
3
50,0 44,4
0 0 0
0 0
0
5
Nhóm Cacbamat
40,0
0
0 0 0

0 0
0
76,9 15,3
0 0 0
0 0
3
8
Nhóm trừ bệnh
6,66

50,0
0

0

0

0

0

0

0

8,70

0

0


0

0

0

42,8
5
53,8
4
22,2
2
93,7
5
76,9
2
94,1
1
26,0
8

11,36
5,27
0

Mê Linh

Tây Tựu


Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu
Monitor

57,1
5
46,1
6
77,7

8

0

6,25

0

23,0
8

0

5,89

0

73,9
2

0,25
0,16
6,0
0,3
-

1
2
3
4


Diclovos
Dimethoate
Fenitrothion
Kitazine

1,3
2,6
3,2
6,3

1
2
3
4

Tetramethrine
Fenvalerate
Permethrine
Cypermethrine

32,2
21,3
35,4
-

5Đ20H6-T5

3Đ20H2-T5


13

6Đ20ĐC-T5

BHC
Heptachlor
Aldrin
Chlordan
DDT
Diedrin
Endosunfate
Methoxylchlor
Endrin

Nhóm clo hữu cơ
0,20
0,4
0,25
0,13
0,26
0,32
0,31
16,5
15,3
14,25
0,4
0,25
0,18
1,64
3,4

3,16
8,23
7,95
Nhóm lân hữu cơ
3,7
8,4
4,9
2,8
2,6
3,4
56,2
46,3
35,1
25,3
20,6
28,3
Nhóm pyrethroit
28,2
29,45
29,6
14,6
54,43
48,2
23,20 27,20 29,46
-

2Đ20CN-T5

1
2

3
4
5
6
7
8
9

4Đ20H4-T5

1Đ20ĐT-T5

Bảng 3.8. Tồn dư h a chất B T trong lớp ất chuyên canh trồng hoa 0-20 cm vào tháng 5 hàng năm
ở Tây Tựu
Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ
QCVN
(x 10-3 mg/kg)
Chỉ tiêu
15:2008
TT
phân tích
(mg/kg)
[2]
0,14
0,13
0,28
-

-


0,01
0,01
0,01
0,01
0,01
0,01
0,01

3,47
5,92
2,75
14,62

-

0,05

5,47
15,36
14,05
28,2

-

0,01


5

Deltamethirne


-

Nhóm thuốc trừ cỏ
1
Paraquat
12,15 10,23 10,16
2
2,4-D
26,9
28,6
22,0
10,04
0,1
3
2,4,5-T
4
Glyphosate
Nhóm cacbamat
1
Bassa
2
Padan
hi chú “-“ hông phát hiện được ( ,
1 mg kg)
b) Mức độ ảnh hưởng việc sử dụng thuốc BVTV đối với đất chuyên canh trồng hoa
- Tây Tựu: Kết quả phân tích hàm lượng trung bình hóa chất BVTV trong các mẫu đất lấy ở
vùng nghiên cứu vào tháng 5 và tháng 7 các năm 2009, 2012, 2014 (bảng 3.8 và bảng 3.9) cho
thấy, đã phát hiện được 04 trong số 05 nhóm hóa chất BVTV trong đất nghiên cứu; tích lũy
hóa chất BVTV trong đất trồng các loại cây khác nhau là khác nhau. Hầu hết trên đất trồng

hoa đã phát hiện thấy có sự tích lu các nhóm hoạt chất cơ clo, lân hữu cơ, pyrethroit và thuốc
trừ cỏ. Kết quả nhận được ở trên cho thấy, sử dụng hóa chất BVTV trong chuyên canh trồng
hoa ở Tây Tựu đã sự tích lu chúng trong môi trường đất, trong đó đáng quan tâm về sự có
mặt DDT trong đất. (Thêm bảng số liệu vào)

0,12
0,07
4,0
0,21
-

1
2
3
4

Diclovos
Dimethoate
Fenitrothion
Kitazine

0,25
1,5
4,32
5,21

1
2
3
4

5

Tetramethrine
Fenvalerate
Permethrine
Cypermethrine
Deltamethirne

12,6
10,5
31,5
-

1

Paraquat

-

5Đ20H6-T7

3Đ20H2-T7

Nhóm clo hữu cơ
0,05
0,09
0,15
0,09
0,18
0,22

0,20
8,9
10,5
9,95
0,25
0,13
0,09
1,12
2,21
1,28
7,35
6,49
Nhóm lân hữu cơ
2,24
4,65
2,36
2,8
3,6
5,6
56,3
35,2
46,1
14,6
18,4
29,4
Nhóm pyrethroit
23,4
18,45
25,3
12,6

46,33
37,4
26,30 22,40 30,43
Nhóm thuốc trừ cỏ
13,4
11,23 13,26

14

6Đ20ĐC-T7

BHC
Heptachlor
Aldrin
Chlordan
DDT
Diedrin
Endosunfate
Methoxylchlor
Endrin

2Đ20CN-T7

1
2
3
4
5
6
7

8
9

4Đ20H4-T7

1Đ20ĐT-T7

Bảng 3.9. Tồn dư h a chất B T trong lớp ất chuyên canh trồng hoa 0-20 cm vào tháng 7 hàng năm
ở Tây Tựu
Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ
QCVN
(x 10-3 mg/kg)
Chỉ tiêu
15:2008
TT
phân tích
(mg/kg)
[2]
0,03
0,24
0,15
-

-

0,01
0,01
0,01
0,01
0,01

0,01
0,01

1,53
6,15
3,58
9,23

-

0,05

34,82
12,63
10,23
38,5
-

-

-

-

0,01


2
3
4


2,4-D
2,4,5-T
Glyphosate

1
2

Bassa
Padan
hi chú “-“

-

24,56 23,54
25,2
Nhóm cacbamat
hông phát hiện được ( ,
1 mg/kg)

18,98
-

-

-

-

1Đ20HC-M5


4Đ20-H4M5

-

-

-

-

3Đ20H2-M5

0,025
0,006
-

2Đ20CN-M5

0,012
0,006
-

6Đ20ĐC-M5

5Đ20H6-M5

Bảng 3.10. Tồn dư hóa chất BVTV trong lớp đất chuyên canh trồng hoa
0-20 cm vào tháng 5 hàng năm ở Mê Linh
Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ (mg/kg)

QCVN
Chỉ tiêu
15:2008
phân tích
(mg/kg)
[2]

Alpha - BHC
0,123 0,127
Beta - BHC
Delta - BHC
Gamma - BHC
Heptachlor
Aldrin
Chlordane
p,p’ - DDT
0,014
Dieldrin
Endosulphan I
Endosulphan II
Methoxychlor
0,052
Endrin
p,p’ - DDE
0,002
p,p’ - DDD
Endosulfan sulfate
Heptachlor epoxide
17
(B)

18 Endrin aldehyt
* Ghi chú: -: không phát hiện được (< 0,002 mg/kg)

TT

0,1

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

0,01

0,01
0,01
0,01
0,01

0,01
0,01
0,01
0,01

0,01

- Mê Linh: Kết quả xác định hàm lượng trung bình của nhóm chất clo hữu cơ trong
các mẫu đất lấy vào tháng 5 và tháng 7 các năm 2010, 2012, 2014 (bảng 3.10 và 3.11), cho
thấy, các nhóm hóa chất BVTV được phát hiện thấy trong đất đều nằm trong danh mục hóa
chất BVTV cấm sử dụng tại Việt Nam. Đáng chú ý là đã phát hiện được tồn dư của các loại
hoạt chất như BHC, DDT, methoxylchlor, DDE trong một số mẫu đất nghiên cứu. Như vậy,
đất chuyên canh hoa đều xác định thấy hóa chất BVTV, tuy nhiên trong đất chuyên canh
trồng hoa hồng 2 năm và 6 năm đã nhiễm hóa chất BVTV loại BHC vượt ngưỡng QCVN
15:2008/BTNMT 10,4-12,7 lần; đất trồng hoa cúc bắt đầu có biểu hiện nhiễm DDT.

TT

Bảng 3.11. Tồn dư hóa chất BVTV trong lớp đất chuyên canh trồng hoa
0-20 cm vào tháng 7 hàng năm ở Mê Linh
Chỉ tiêu
Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ (mg/kg)
QCVN

15


Alpha - BHC
0,104 0,116
Beta - BHC

Delta - BHC
Gamma - BHC
Heptachlor
Aldrin
Chlordane
p,p’ - DDT
0,009
Dieldrin
Endosulphan I
Endosulphan II
Methoxychlor
0,023
Endrin
p,p’ - DDE
0,002
p,p’ - DDD
Endosulfan sulfate
Heptachlor epoxide
17
(B)
18 Endrin aldehyt
* Ghi chú: -: không phát hiện được (< 0,002 mg/kg)

4Đ20-H4M7

1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

1Đ20-HCM7

5Đ20H6-M7

3Đ20H2-M7

2Đ20CN-M7

6Đ20ĐC-M7

phân tích

15:2008
(mg/kg)
[2]

0,006
0,003

-

0,018
0,004
-

0,01

-

-

-

-

0,01
0,01
0,01
0,01
0,01
0,01
0,01
0,01

0,01

3.4.2. Ảnh hưởng của việc sử dụng phân bón đến chất lượng đất chuyên canh trồng hoa ở
Tây Tựu và Mê Linh
a) Mức độ sử dụng phân bón tại Tây Tựu và Mê Linh

Phân bón vô cơ được dùng trong chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh rất đa
dạng, nhưng thường dùng là phân NPK đầu trâu Bình Điền, Lâm Thao; phân lân nung chảy
Văn Điển, Lào Cai, Ninh Bình; supe lân và kali clorua Lâm Thao, phân urê Hà Bắc và Phú
M . Ngoài ra còn sử dụng các loại phân hữu cơ truyền thống như phân chim cút, phân gà,
phân lợn, phân bắc. Riêng người dân trồng hoa ở Tây Tựu dùng thêm một loại phân nữa là
phân đậu tương.
Mức bón trong thực tế ở địa phương cao hơn rất nhiều so với k thuật trồng hoa yêu
cầu (mức bón cao hơn 2-3 lần). Phân hóa học và phân bón hữu cơ bón cho cây hoa cũng
thường xuyên được sử dụng để tăng năng suất.Nông dân sử dụng vôi bột CaO và nhiều loại
phân hóa học NPK, urê, supe lân và phân hữu cơ như phân chuồng, phân bắc trong trồng hoa.
Bón phân bắc chỉ có ở Mê Linh (89,79% số hộ điều tra) là nguồn gây ô nhiễm đất đáng
kể.Mặt khác, do người dân sử dụng một lượng lớn vôi, phân bón và hóa chất BVTV đã làm
tăng chi phí sản suất và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, cũng như sức khỏe người dân.Kết
quả điều tra mức độ sử dụng phân bón cho hoa ở Tây Tựu và Mê Linh được chỉ ra trong bảng
3.12. Các loại phân bón chính được sử dụng trong canh tác hoa ở Mê Linh và Tây Tựu được
thể hiện trong bảng 3.12.
Bảng 3.12. Hiện trạng hộ dân sử dụng phân bón ở Tây Tựu và Mê Linh
theo
tổng số hộ điều tra
Loại
phân
bón

Phần trăm
số hộ s
dụng phân
bón (%)

Phần trăm số hộ s dụng lƣợng phân bón 1 lần cho
1000 m2 đất trồng hoa (%)

Dƣới 30 kg

31-50 kg

51-200 kg

16

> 200 kg

Phần trăm số hộ bón
phân theo tần suất lần vụ
(%)
1-3 lần vụ
4-6 lần vụ


Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu


Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

Tây Tựu

Mê Linh

29,16 95,91

100

89,79

0

6,38

0

0

0

0

100


95,74

0

4,26

Urê

95,83

100

100

0

0

0

0

0

0

86,95 97,95 13,05 2,05

0


0

0

0

92,68 97,91

Supe
lân
Phân
chuồng
Phân
bắc

Mê Linh

Tây Tựu
NPK

100

85,41 97,95 90,25 72,91 9,75 27,09

92,91 97,95

0

89,79


7,32

2,09

0

0

0

0

60,0

0

40,0

100

100

100

0

0

0


0

0

18,18

0

79,55

0

2,27

0

100

0

0

b) Thành phần hóa học của một số loại phân bón sử dụng để trồng hoa ở Tây Tựu và
Mê Linh
Để đánh giá được ảnh hưởng của phân bón đến đất trồng hoa, trong nghiên cứu của
mình chúng tôi đã phân tích đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong một số loại phân bón
chính dùng trong chuyên canh hoa ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh.
+ Phân lân. Trong phân lân được sử dụng để bón cho cây hoa ở Việt Nam có hàm
lượng các kim loại nặng đã được xác định là Cu, Zn, Pb và một số KLN khác. Cụ thể được

nêu trong bảng 3.14. Phân lân là một trong những nguồn sử dụng rất lớn trong trồng hoa, do
vậy với lượng KLN trong phân lân Việt Nam cao (bảng 3.14) sẽ gây tác động xấu tới môi
trường đất trồng hoa nói chung và ở Tây Tựu và Mê Linh nói riêng.
Bảng 3.14. Hàm lượng KLN trong phân lân Việt Nam
Nguyên tố
As
Cd
Cr
Co
Cu
Hg
Ni
Pb
Zn

Hàm lƣợng (mg/kg)
2,1- 120
0,05- 8,5
3,2 - 1,9
5,4 - 12
<1 - 15
0,3 - 2,9
7 - 34
2 - 27
1 - 42

+ Phân đạm và phân NPK. Tuy được sử dụng với số lượng lớn nhưng hàm lượng
kim loại nặng trong phân đạm và phân NPK thấp hơn so với các loại phân bón khác. Hàm
lượng các KLN trong phân đạm dùng trong trồng hoa và rau ở Tây Tựu và Mê Linh được
chúng tôi xác định là Cu, Pb, Ni, Zn, As và một số KLN khác. Kết quả phân tích được nêu

trong bảng 3.15.
Bảng 3.15. Hàm lượng KLN trong phân đạm Việt Nam
Nguyên tố
Hàm lƣợng (mg/kg)
As
2,1- 120
Cd
0,05- 8,5
Cr
3,2 - 1,9
17


Co
Cu
Hg
Ni
Pb
Zn

5,4 - 12
<1 - 15
0,3 - 2,9
7 - 34
2 - 27
1 - 42

+ Các loại phân hữu cơ và vôi
Các loại phân hữu cơ được người dân trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh sử dụng bao
gồm phân bùn, phân chuồng. Thành phần hóa học của các loại phân bùn, phân chuồng và vôi

bột được người dân ở Tây Tựu và Mê Linh sử dụng đã được chúng tôi phân tích xác định có
kim loại nặng chủ yếu là Ca, Zn, Cr, Cu và Pb. Kết quả phân tích được chỉ ra trong bảng 3.17.
Với kết quả nêu ở bảng 3.17 có thể thấy n, Cr, Cu và Pb là 4 KLN có hàm lượng lớn nhất
trong phân bùn, phân chuồng và vôi bột (trừ Ca là chất chính có mặt trong vôi). Tuy nhiên, ở
Tây Tựu và Mê Linh ít khi sử dụng phân bùn bón cho cây hoa. Do vậy khi bón phân chuồng
và vôi vào đất trồng hoa sẽ làm tăng đáng kể lượng Ca, n, Cr, Cu và Pb trong đất và trong
cây hoa.
Bảng 3.17. Hàm lượng trung bình của các KLN trong một số phân
bón và vôi sử dụng trong trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh
Hàm lƣợng KLN (mg/kg)
Chỉ tiêu phân tích
Phân bùn
Phân chuồng
Vôi
Zn
670-5010
15 - 250
10 - 450
Cu
4,5 – 3420
2 - 60
2 - 125
Ni
13 – 4910
7,8 - 30
10 - 20
Cd
1,5 – 1390
0,3 - 0,8
0,04 - 0,1

Pb
46 – 2780
6,6 - 15
20 - 1250
Cr
16,7- 3870
5,2 - 55
10 - 15
Hg
0,2 – 48
0,09 - 0,2
0,05
As
1,7 – 23
3 - 25
0,1 - 24,0
Co
1,6 – 249
0,3 - 24
0,4 - 3,0
Bên cạnh việc sử dụng các loại phân tổng hợp, trong trong hoa người dân ở Tây Tựu
và Mê Linh cũng sử dụng một lượng lớn vôi bột để cải tạo và khử trùng cho đất trước khi
trồng hoa. Do vôi được sản xuất từ đá vôi nên hàm lượng KLN trong vôi cũng khá lớn.
c) Nhận xét: So sánh lượng phân bón thực tế trên đồng ruộng chuyên canh hoa ở Mê
Linh và Tây Tựu với lượng phân bón theo yêu cầu k thuật, thì lượng phân bón N, P2O5, K2O
mà người nông dân sử dụng trong trồng hoa không cân đối và cao hơn rất nhiều. Theo kết quả
khảo sát, lượng phân bón N, P2O5, K2O cho 1.000 m2 đất trồng hoa trong một vụ có sự chênh
lệch giữa yêu cầu k thuật với sử dụng của người dân trồng hoa ở Mê Linh và Tây Tựu là
khá lớn, bảng 3.15. Bên cạnh đó, theo phản ảnh của người dân trồng hoa ở Mê Linh và Tây
Tựu, thì hiện tượng phân bón “giả” cũng đang là vấn đề nhức nhối của người dân. Trong các

loại phân bón, tỷ lệ nitơ, phốtpho, kali chỉ bằng 1/4 đến 1/8 số liệu công bố trên nhãn mác.
3.4.3. Ảnh hưởng của phế thải của cây hoa ồng ti n, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng
Để đánh giá hàm lượng KLN trong cây hoa, chúng tôi đã phân tích xác định các KLN
trong các phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng tươi lấy tại nơi trồng
hoa ở Tây Tựu và Mê Linh. Kết quả phân tích nêu trong bảng 3.18.
Căn cứ kết quả phân tích có thể thấy n, Cr, Cu, Pb và Ni là 5 KLN có hàm lượng lớn
nhất trong các phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng. Theo con đường
này, đây là nguyên nhân làm cho hàm lượng KLN gồm n, Cr, Cu, Pb và Ni trong đất chuyên
canh trồng cây hoa mất đi không đáng kể.
Như vậy, có thể nói rằng, nếu tính tổng lượng các loại vôi, phân bón vô cơ và hữu có
thì lượng KLN đưa vào đất chuyên canh là rất lớn. Theo số liệu ở bảng 3.14, 3.15, 3.16, 3.17
18


và 3.18 cho thấy, n, Cr, Cu, Pb, Ni, Cd và s là các KLN được đưa vào đất chuyên canh
trồng hoa là lớn nhất, trong đó n, Cu, Cr và Ni là những KLN có hàm lượng cao hơn hẳn.
Đây chính là các yếu tố có thể làm cho môi trường đất nơi chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu
và Mê Linh bị ô nhiễm nặng bởi các kim loại này.
3.5. Tồn lƣu kim loại nặng (KLN) trong đất chuyên canh trồng hoa
3.5.1. Tồn lưu KLN trong đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu
Kết quả phân tích xác định hàm lượng trung bình của một số KLN trong đất chuyên
canh trồng hoa ở Tây Tựu 3 năm 2009, 2012 và 2014 (bảng 3.19 và 3.20) cho thấy hàm lượng
KLN ở dạng tổng số có hàm lượng cao nhất là các mẫu đất trồng hoa; kế đến trong các mẫu
đất trồng rau và thấp nhất ở mẫu đất đối chứng và ở lớp đất canh tác 0-20 cm đều cao hơn lớp
đất dưới 20-40 cm. Điều này cho thấy việc canh tác các loại cây trồng khác nhau (mức độ
thâm canh, đặc điểm sinh học và nhu cầu dinh dưỡng thực vật) đã có tác động đến sự tích lu
một số KLN trong đất. Cụ thể:
- Hàm lượng Cu. Trong đất chuyên canh trồng hoa hồng có hàm lượng Cu cao nhất và
cao hơn giới hạn cho phép quy định tại QCVN 03:2008/BTNMT khoảng 3,24 lần vào tháng 5
và 3,04 lần vào tháng 7. Hàm lượng Cu trong đất chuyên canh trồng hoa cao có thể do phân

bón. Như đã nêu ở trên, hàm lượng Cu trong phân chuồng, vôi, phân đạm và phân lân tương
ứng như sau (tính hàm lượng cao nhất): 60 mg/kg, 125 mg/kg, 15 mg/kg và 155 mg/kg; và
người dân ở Tây Tựu thường bón phân vượt lượng yêu cầu k thuật hướng dẫn trồng hoa.
- Hàm lượng Pb. Trong các mẫu đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu, một số mẫu
đất chuyên canh trồng hoa ở tầng đất 0-20 cm có hàm lượng Pb vượt ngưỡng QCVN 03:2008
khoảng 1,14 - 1,64 mg/kg. Trong khi đó các mẫu đất trồng hoa đồng tiền, hàm lượng Pb tổng
số vượt ngưỡng giá trị tiêu chuẩn QCVN 03:2008 không đáng kể, khoảng 1,14 lần. Đất so
sánh (đất trồng rau cải và đất đối chứng) có hàm lượng Pb thấp hơn ngưỡng giá trị tiêu chuẩn
QCVN 03:2008/BTNMT, và thấp hơn so với trong đất chuyên canh trồng hoa khoảng 10,18
lần.
- Hàm lượng Cd. Trong các lớp đất trồng hoa ở lớp 0-20 cm đã có dấu hiệu tích lu
Cd, hàm lượng Cd tổng số dao động từ 2,34-3,23 mg/kg vào tháng 5 và từ 2,26-2,91 mg/kg
vào tháng 7; nếu tính cho hàm lượng tích lũy cao nhất ở cả hai tháng lấy mẫu trong năm thì
Cd tổng số vượt giá trị ngưỡng giới hạn cho phép là từ 1,46-1,62 lần. Đối với các mẫu đất so
sánh (đất trồng rau và đất đối chứng) thì hàm lượng Cd tổng số đều thấp hơn ngưỡng cho
phép theo tiêu chuẩn QCVN 03:2008.
- Hàm lượng Hg. Trong tất cả các mẫu đất chuyên canh trồng hoa lấy ở Tây Tựu chưa
có dấu hiệu ô nhiễm Hg. Hàm lượng Hg tổng số đều thấp hơn nhiều so với QCVN 03:2008.
- Hàm lượng Zn. n là nguyên tố dinh dưỡng vi lượng rất cần thiết cho thực vật nên
được thực vật sử dụng với lượng rất lớn. Hàm lượng n xác định được trong các mẫu đất
nghiên cứu ở Tây Tựu (lớp đất 0-20 cm) cho thấy môi trường đất trồng hoa ở Tây Tựu chưa
bị ô nhiễm bởi Zn.
Về hàm lượng KLN linh động trong đất chuyên canh trồng hoa. Hàm lượng KLN linh
động ở lớp đất 0-20 cm đều cao hơn so với lớp đất dưới (20-40 cm).
Với hàm lượng Cu, Pb và Cd trong đất chuyên canh trong hoa ở Tây Tựu vượt ngưỡng
tiêu chuẩn cho phép, và hàm lượng Cu và Pb linh động cao, và hàm lượng n linh động thấp
có thể nói rằng chất lượng đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu đã bị suy thoái, ảnh hưởng
khá lớn tới sự sinh trưởng và phát triển của sinh vật đất.
Bảng 3.1 . Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động
trong đất chuyên canh trồng hoa lấy vào tháng 7 hàng năm ở Tây Tựu

Dạng tổng số (mg kg)
Dạng linh động (mg kg)

Tầng
hiệu
đất
H
Cu
Zn
Pb
Cd
Hg
Cu
Zn
Pb
Cd
mẫu
(cm)
g
Đối
6Đ20111,2
0,22 0,04
1,2
0,0
5,68
11,27
1,83
6,21
chứng ĐC-T7
4

8
0
4
4

19


2Đ200,26
6,92
70,13 13,65
CN-T7
2
2Đ400,22
4,28
63,78 12,87
CN-T7
4
1Đ2053,32 83,12 79,85 2,26
Hoa
ĐT-T7
đồng
1Đ40tiền
38,12 73,27 17,82 1,29
ĐT-T7
3Đ20- 123,8
98,86 85,13 2,91
Hoa
H2-T7
5

hồng 2
3Đ40năm
99,35 31,43 17,78 0,29
H2-T7
4Đ20112,8 114,7
79,62
2,86
Hoa
H4-T7
7
6
hồng 4
4Đ40năm
67,46 67,09 22,34 1,19
H4-T7
5Đ20- 152,1
93,78 99,12 2,91
Hoa
H6-T7
6
hồng 6
5Đ40- 128,4
năm
31,87 19,76 0,25
H6-T7
3
QCVN
03:2008/BTNM
50
200

70
2
T
* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được
Rau
cải
ngọt

0,05
2
0,05
1
0,18
0,04
0,29
0,06
0,32

2,18
2,17
16,4
6
13,3
2
16,2
5
12,4
0
10,3
2


0,02

9,39

0,29

11,5
2

0,02

9,18

1,7
1
1,2
7
2,5
1
1,1
8
2,4
1
1,6
0
2,2
4
1,1
8

2,5
2
1,6
4

9,52
6,81
11,6
7
10,6
1
10,3
2
8,72
9,42
6,14
9,54
8,90

0,0
7
0,0
4
0,0
9
0,0
5
0,0
6
0,0

3
0,0
8
0,0
5
0,0
8
0,0
5

-

0,5*

Bảng 3.20. Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động
trong đất chuyên canh trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở Tây Tựu

Tầng
Dạng tổng số (mg kg)
Dạng linh động (mg kg)
hiệu
đất
Cu
Zn
Pb
Cd
Hg
Cu
Zn
Pb

Cd Hg
mẫu
(cm)
Đối
6Đ20chứng
ĐC-T5 6,03 117,91 11,90 0,24 0,042 1,79 1,22 6,12 0,03
2Đ20Rau
CN-T5 7,45
74,48 14,33 0,28 0,056 2,12 1,66 9,23 0,06
cải
2Đ40ngọt
CN-T5 4,42
64,73 13,11 0,23 0,045 2,10 1,23 6,61 0,03
1Đ20Hoa
ĐT-T5 56,19 88,27 83,84 2,34 0,193 15,97 2,43 11,42 0,08
đồng
1Đ40tiền
ĐT-T5 39,14 74,81 18,23 1,30 0,045 12,92 1,14 10,31 0,04
3Đ20Hoa
H2-T5 130,91 104,99 89,39 3,16 0,318 15,76 2,34 10,25 0,05
hồng 2
3Đ40năm
H2-T5 100,25 31,38 18,78 0,31 0,062 12,03 1,55 8,46 0,02
4Đ20Hoa
H4-T5 83,96 119,87 121,19 2,89 0,351 10,01 2,17 9,12 0,08
hồng 4
4Đ40năm
H4-T5 68,97 69,12 23,68 1,24 0,023 9,11 1,16 5,79 0,04
5Đ20Hoa
H6-T5 161,92 99,41 105,07 3,23 0,315 11,17 2,47 9,22 0,07

hồng 6
năm
5Đ40- 129,21 32,78 20,27 0,27 0,023 9,00 1,64 8,50 0,04 -

20


H6-T5
QCVN
50
200
70
2
03:2008/BTNMT
* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được

0,5*

3.5.2. Tồn lưu KLN trong đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh
Kết quả phân tích hàm lượng một số KLN trong đất, phân bón, vôi và phế thải của cây
hoa sau thu hoạch đã chỉ ra rằng sự tích lũy và gây ô nhiễm KLN cho đất trồng hoa ở Mê Linh
chủ yếu do các nguồn phân bón hữu cơ, phân bón hóa học và vôi. Kết quả phân tích hàm
lượng trung bình một số KLN trong đất chuyên canh hoa ở Mê Linh trong 3 năm 2010, 2012
và 2014 vào tháng 5 và tháng 7 ở các tầng đất 0-20 cm và 20-40 cm được chỉ ra trong bảng
3.21 và 3.22, cho thấy: (Thêm 2 bảng số liệu này vào)
Bảng 3.21. Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động
trong đất chuyên canh trồng hoa lấy vào tháng 7 hàng năm ở Mê Linh
Dạng tổng số (mg kg)
Tầng đất
(cm)

Cu
Zn
As
Cd
6Đ20-ĐC-M7
4,10 110,45 0,184 0,25
2Đ20-CN-M7 72,65 85,20 0,187 4,97
Rau cải
ngọt
2Đ40-CN-M7 49,25 69,58 0,072 4,28
1Đ20-HC-M7 56,82 96,85 0,183 5,70
Hoa cúc
1Đ40-HC-M7 32,89 84,43 0,092 4,92
Hoa hồng 3Đ20-H2-M7 115,76 98,82 0,282 7,84
2 năm
3Đ40-H2-M7
93,47 47,64 0,048 4,83
82,24 104,33 0,341 8,87
Hoa hồng 4Đ20-H4-M7
4 năm
4Đ40-H4-M7
53,17 79,26 0,038 4,91
86,83 135,31 0,245 7,93
Hoa hồng 5Đ20-H6-M7
6 năm
5Đ40-H6-M7
71,34 89,24 0,083 5,72
QCVN 03:2008/BTNMT
50
200

12
2
* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được

Ký hiệu
mẫu
Đối chứng

Hg
0,037
0,082
0,034
0,072
0,026
0,387
0,036
0,325
0,047
0,094
0,038
0,5*

Dạng linh động (mg kg)
Cu
Zn
As
Cd
1,825 1,210 0,001 0,015
2,743 1,426 0,032 0,045
0,203 0,182 0,012 0,019

3,552 3,243 0,025 0,063
0,130 0,224 0,009 0,008
7,324 2,543 0,032 0,079
0,356 0,184 0,007 0,018
8,463 3,362 0,054 0,068
0,283 0,142 0,007 0,028
7,358 1,342 0,046 0,093
0,515 0,095 0,026 0,025

Hg
-

Bảng 3.22. Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động
trong đất chuyên canh trồng hoa lấy vào tháng 5 hàng năm ở Mê Linh

hiệu
mẫu
Đối
chứng
Rau cải
ngọt
Hoa
cúc
Hoa
hồng
2 năm
Hoa

Tầng đất
(cm)

6Đ20-ĐC-M5
2Đ20-CN-M5
2Đ40-CN-M5
1Đ20-HC-M5
1Đ40-HC-M5
3Đ20-H2-M5
3Đ40-H2-M5
4Đ20-H4-M5

Dạng tổng số (mg kg)

Dạng linh động (mg kg)

Cu

Zn

As

Cd

Hg

Cu

Zn

As

Cd


Hg

4,36
76,43
51,81
59,77
34,60
121,78

116,19
90,48
73,89
102,85
89,66
104,95

0,190
0,195
0,075
0,191
0,096
0,294

0,26
5,15
4,43
6,02
5,20
8,28


0,038
0,085
0,035
0,076
0,027
0,409

1,789
2,688
0,199
3,385
0,124
6,980

1,162
1,355
0,173
3,081
0,213
2,416

0,001
0,031
0,012
0,024
0,009
0,030

0,015

0,043
0,018
0,061
0,008
0,076

-

98,33
86,52

50,59
110,80

0,050
0,356

5,10
9,37

0,038
0,343

0,339
8,065

0,175
3,194

0,007

0,051

0,017
0,068

-

21


hồng
4Đ40-H4-M5
4 năm
55,93
84,17
0,039 5,18
Hoa
5Đ20-H6-M5
91,35 143,70 0,253 8,37
hồng
6 năm 5Đ40-H6-M5
75,83
94,77
0,086 6,04
QCVN 03:2008/BTNMT
50
200
12
2
* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được


0,050
0,099

0,270
7,012

0,135
1,275

0,007
0,044

0,028
0,093

-

0,040
0,5*

0,491

0,090

0,025

0,025

-


- Hàm lượng Cu trong các mẫu đất nghiên cứu có sự chênh lệch khá lớn giữa đất trồng
rau và đất chuyên canh trồng hoa hồng và hoa cúc. Nếu chỉ tính lượng Cu cao nhất vào tháng
5 và tháng 7 thì thấy, trong đất chuyên canh hoa hồng hàm lượng Cu đều cao vượt 2,44 lần
vào tháng 5 và 2,32 lần vào tháng 7 ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT và đều
cao hơn ngưỡng cho phép QCVN 03:2008, trừ mẫu đất đối chứng.
- Hàm lượng Cu trong các mẫu đất nghiên cứu có sự chênh lệch khá lớn giữa đất trồng
rau và đất chuyên canh trồng hoa hồng và hoa cúc. Nếu chỉ tính lượng Cu cao nhất vào tháng
5 và tháng 7 thì thấy, trong đất chuyên canh hoa hồng hàm lượng Cu đều cao vượt 2,44 lần
vào tháng 5 và 2,32 lần vào tháng 7 ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT và đều
cao hơn ngưỡng cho phép QCVN 03:2008, trừ mẫu đất đối chứng.
- Hàm lượng Cd. Phân bón, đặc biệt trong phân lân, phân bùn là một trong các tác
nhân gây ra sự tích lũy Cd trong đất. Phân lân thường có hàm lượng Cd cao trở thành nguồn
gây ô nhiễm Cd trong đất nông nghiệp. Sự tập trung Cd trong đất do bón phân lân làm tăng từ
0,07 đến 10 mgCd/kg đất nông nghiệp [1]. Nếu chỉ tính hàm lượng Cd cao nhất vào tháng 5
thì thấy, trong đất chuyên canh trồng hoa có hàm lượng Cd đều cao và vượt ngưỡng cho phép
theo QCVN 03:2008/BTNMT, tương ứng đất trồng hoa hồng, hoa cúc và rau cải ngọt là 4,69
lần, 3,01 lần và 2,58 lần; trong khi đó đất đối chứng có hàm lượng Cd cao nhất là 0,26 mg/kg
dưới ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT và thấp hơn các mẫu đất trồng hoa.
Nguyên nhân gây ô nhiễm Cd có thể do việc bón phân lân, phân đạm, phân chuồng đã trong
đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh. Điều này cũng đã được chứng minh khi sử dụng phân
gà bón có hàm lượng Cd là 6,721 mg/kg bón cho đất nông nghiệp [14].
- Hàm lượng Hg và As. Trong tất cả các mẫu đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh chưa
có dấu hiệu ô nhiễm, hàm lượng Hg và As tổng số đều thấp hơn nhiều so với QCVN [3].
- Hàm lượng Zn. Cũng như trường hợp ở Tây Tựu, hàm lượng n xác định được trong
đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh chưa gây nên ô nhiễm đối với môi trường đất.
Hàm lượng các KLN linh động trong đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh nêu trong
bảng 3.21 và 3.22 cho thấy, hàm lượng KLN linh động trong đất nghiên cứu rất khác nhau tùy
thuộc vào cây trồng canh tác và thời gian canh tác; theo đó:
Hàm lượng Cu linh động trong đất nghiên cứu giảm theo hướng, cao nhất ở đất

chuyên canh trồng hoa hồng, tiếp theo đến đất trồng hoa cúc, đất trồng rau và thấp nhất là đất
đối chứng. Hàm lượng Cu trong đất chuyên canh trồng hoa vượt ngưỡng cho phép; hàm lượng
Cu linh động cao trong đất chuyên canh trồng hoa, đặc biệt cao trong đất trồng hồng.
Hàm lượng Cd linh động trong đất nghiên cứu giảm theo hướng, cao nhất ở đất
chuyên canh trồng hoa hồng, tiếp theo đến đất trồng hoa cúc, đất trồng rau và thấp nhất là đất
đối chứng.
- Hàm lượng n linh động ở lớp đất 0-20 cm chuyên canh trồng hoa thấp, dao động từ
1,275 – 3,243 mg/kg.
Mặc dù ở cả hai địa phương Tây Tựu và Mê Linh sử dụng phân bón trong chuyên
canh trồng hoa có hàm lượng Zn rất lớn (Zn trong phân chuồng từ 15-250 mg/kg, vôi 10450 mg/kg, đạm 1-42 mg/kg và phân lân từ 50-750 mg/kg), nhưng hàm lượng Zn trong các
mẫu đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh còn thấp hơn tiêu chuẩn cho phép,
đất chưa bị ô nhiễm bởi n. Điều này có thể có mấy nguyên nhân sau: thứ nhất, cây hoa sử
dụng và tích lũy một lượng lớn Zn (Zn trong chất thải là thân cây và lá cây hồng dao động
từ 158-182 mg/kg); thứ hai, do sử dụng nhiều vôi làm môi trường pH của đất thay đổi lớn
hơn 6, dẫn đến n hòa tan đi sâu xuống lớp đất dưới hoặc bị rửa trôi; thứ ba, khi bón nhiều
22


phân lân, thì phân lân và kẽm có thể xảy ra đối kháng, dẫn đến Zn nằm ở trạng thái bất lợi,
cây trồng khó sử dụng làm thức ăn nhưng lại thuận lợi cho quá trình rửa trôi.
- Hàm lượng KLN Cu, n và Hg trong đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê
Linh là khá tương đồng với nhau, trừ đất trồng hoa hồng 6 năm. Hàm lượng Cd trong đất
chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh lại cao hơn ở Tây Tựu (hình 3.1 và 3.2). Nếu so sánh giữa
đất đối chứng với đất chuyên canh trồng hoa thì thấy, sự tích lũy KLN trong đất chuyên canh
trồng hoa khá lớn. Hàm lượng KLN cao nhất trong đất chuyên canh trồng hoa so với đất đối
chứng, vào tháng 7.
- Hàm lượng Cu, Pb và Cd trong đất chuyên canh trồng hoa đã vượt ngưỡng cho phép.
Hàm lượng KLN linh động trong các mẫu đất nghiên cứu ở lớp 0-20 cm đều cao hơn lớp đất
dưới 20-40 cm. Đặc biệt với đất chuyên canh trồng hoa hồng – trong đó có hồng 6 năm, hàm
lượng Cu, Pb và Cd linh động rất lớn, nên khả năng gây tác động xấu đến sinh vật đất là rất

cao.
- Hàm lượng n linh động trong đất thấp chứng tỏ đất chuyên canh trồng hoa ở Tây
Tựu và Mê Linh bị cằn cỗi. Hàm lượng n linh động trong đất thấp có ảnh hưởng xấu đối với
cây trồng.
3.6. Ảnh hƣởng của hoạt động chuyên canh hoa đến hệ sinh vật đất
3.6.1. Ảnh hưởng quần xã động vật chân hớp bé Collembola
a) Thành phần loài và phân bố
- Tây Tựu: Họ Entomobryidae có số loài tập trung nhiều nhất (14/35 loài, chiếm 40%
tổng số loài). Kết quả phân tích cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé Collembola ở Tây
Tựu được nêu ở bảng 3.23. Họ Entomobryidae có số loài tập trung nhiều nhất (14/35 loài,
chiếm 40% tổng số loài),tiếp theo là 3 họ (Neanuridae, Isotomidae, Sminthurididae) có số loài
xấp xỉ nhau, từ 3-5 loài. 7 họ còn lại chỉ có 1 loài. Giống Lepidocyrtus thuộc họ
Entomobryidae là giống có số loài nhiều nhất (9 loài, chiếm 64,29% tổng số loài của họ
Entomobryidae và 25,71% tổng số loài chung).
- Mê Linh: ghi nhận 23 loài (chiếm 50% tổng số loài) phân bố ở cả đất đối chứng (đất
không bị tác động bởi hoạt động canh tác) và thí nghiệm (bị tác động bởi hoạt động canh tác)
và là các loài hay gặp ở sinh cảnh đất nông nghiệp ở 6 sinh cảnh nghiên cứu ở Mê Linh. Kết
quả phân tích cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé Collembola ở Mê Linh được nêu ở
bảng 3.24. Các loài ghi nhận ở đợt thu mẫu 2 đều là những loài ghi nhận được ở đợt thu mẫu
1, ngoại trừ 3 loài Dicranocentrus indicus, Sinella pseudomonoculata, Calvatomina
tuberculata là những loài có dạng sống trên bề mặt đất và trong lớp thảm, do đợt thu mẫu thứ
2 vào cuối mùa khô - đầu mùa mưa nên mặt đất khô hơn, thảm thực vật che phủ mặt đất nhiều
hơn.
Tóm lại: Ở cả hai khu vực nghiên cứu, trong cả hai đợt thu mẫu, ruộng trồng đồng tiền
luôn có thành phần loài nghèo nàn. Điều này cho thấy tính chất đặc biệt của ruộng này đó là
ruộng được bao xung quanh bởi hệ thống nhà lưới nên khả năng di cư hay xâm nhập của các
loài bị hạn chế, thêm vào đó chế độ chăm sóc với mật độ cao các loại thuốc diệt nấm là những
nguyên nhân làm thành phần loài ở ruộng trồng này nghèo nàn.
b) Số loài
- Tây Tựu: ghi nhận được 35 loài Collembola thuộc 23 giống, 11 họ phân bố ở 6 sinh

cảnh nghiên cứu. Số loài Collembola ghi nhận ở đất trồng hoa hồng các năm (2, 4, 6 năm) có số
loài ghi nhận hơn kém không đáng kể so với số loài ghi nhận ở đất đối chứng, nhưng ở đợt thu
mẫu thứ 2 thì số loài ở các ruộng trồng hồng giảm rõ rệt hơn, từ khoảng ½ đến ¼ số loài so với
đối chứng (tương ứng: ĐC: 15 loài, hồng 4 năm: 4 loài, hồng 2 năm: 8 loài, hồng 6 năm: 9 loài).
Kết quả trình bày ở bảng 3.25
- Mê Linh: xác định được 46 loài Collembola thuộc 25 giống, 10 họ ở đất chuyên canh
trồng hoa ở xã Mê Linh, Hà Nội. Họ Entomobryidae có số loài nhiều nhất (24/46 loài, chiếm
52,17% tổng số loài).
c) Số cá thể

23


×