Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Đánh giá tình hình đăng kí đất đai,cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ địa chính huyện Gia Lâm – TP Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.26 KB, 62 trang )

MỤC LỤC

i


DANH MỤC VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Chữ viết tắt
ĐKĐ Đ
GCN
GCNQSDĐ
HĐND
HSĐC
QSDĐ
TNMT
UBND
VPĐKQSDĐ

Diễn giải
Đăng ký đất đai


Giấy chứng nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hội đồng nhân dân
Hồ sơ địa chính
Quyền sử dụng đất
Tài nguyên và Môi trường
Ủy ban nhân dân
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất

ii


DANH MỤC BẢNG

iii


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

iv


PHẦN1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng nền tảng cho sự sống và mọi hoạt
động sản xuất của con người đều bắt nguồn từ đất đai. Đất đai là yếu tố cấu
thành nên lãnh thổ của mỗi quốc gia, là một tư liệu sản xuất đặc biệt, đất đai
cung cấp nguồn nước cho sự sống, cung cấp nguồn nguyên vật liệu và khoáng
sản, là không gian của sự sống đồng thời bảo tồn sự sống. Đất đai là địa bàn
phân bố dân cư, xây dựng các công trình văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng.

Trải qua nhiều thế hệ, cha ông ta đã tốn nhiều công sức và xương máu để tạo
lập vốn đất đai như hiện nay. Để tiếp tục sự nghiệp khai thác và bảo vệ quỹ
đất tốt hơn, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật phục vụ
công tác quản lý có hiệu quả.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã nêu: “ Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch và
pháp luật đảm bảo sử dụng đất tiết kiệm, đúng mục đích và có hiệu quả.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng đất đai ngày càng tăng do dân số tăng nhanh,
kinh tế phát triển đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đang diễn ra mạnh mẽ mà đất đai thì có diện tích có hạn. Chính những điều
này làm cho việc phân bổ đất đai vào các mục đích khác nhau càng trở nên
khó khăn, các quan hệ đất đai càng thay đổi với tốc độ chóng mặt và ngày
càng phức tạp.
Để khắc phục tình trạng nêu trên thì công thì công tác đăng kí đất đai
(ĐKĐĐ), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và lập hồ sơ
địa chính (HSĐC) có vai trò hết sức quan trọng. ĐKĐĐ thực chất là thủ tục
hành chính bắt buộc nhằm thiết lập một hồ sơ địa chính đầy đủ và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ sử dụng đất hợp pháp, nhằm thiết lập
mối quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng trên cơ sở đó Nhà nước nắm
1


chắc và quản chặt toàn bộ đất đai theo pháp luật. Từ đó, chế độ sở hữu toàn
dân đối với đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của người được sử dụng được
bảo vệ và phát huy, đảm bảo đất đai được sử dụng đầy đủ, hợp lý, tiết kiệm,
hiệu quả. Mặt khác, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng đất
ổn định, lâu dài đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, điều đó góp phần ổn định kinh
tế chính trị, xã hội, người dân yên tâm sản xuất đầu tư, tạo được niềm tin cho
nhân dân vào Đảng và Nhà nước ta.
Thực tế hiện nay công tác này ở một số địa phương diễn ra còn chậm,

hiệu quả công việc chưa cao, tình trạng quản lý lỏng lẻo, tài liệu chưa chính
xác, việc mua bán chuyển nhượng đất đai diễm ra ngầm chưa thông qua cơ
quan nhà nước, tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai vẫn còn xảy ra nhiều.
Huyện Gia Lâm cũng không nằm ngoài thực tế chung đó. Mặc dù trong
thời gian qua được sự quan tâm của các cấp chính quyền, các ngành song
công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn gặp
nhiều hạn chế, khó khăn do nhiều nguyên nhân tác động.
Từ thực tế cũng như nhận thức được vai trò,tầm quan trọng của vấn đề,
đồng thời được sự phân công của khoa Quản Lý Đất Đai – Trường Đại Học
Nông Nghiệp Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Nguyên Hải, tôi
tiến hành thực hiện đề tài: “ Đánh giá tình hình đăng kí đất đai,cấp giấy
chúng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ địa chính huyện Gia Lâm –
TP Hà Nội”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
- Tìm hiểu thực trạng về đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyến sử
dụng đất và lập hồ sơ địa chính trên địa bàn huyện Gia Lâm.
- Xác định những tồn tại để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện
công tác đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ
địa chính tại địa bàn nghiên cứu.
2


*Yêu cầu
- Nắm vững nội dung quản lý nhà nước về đất đai, những quy định về
đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ địa
chính của Bộ Tài Nguyên Môi Trường của thành phố và của huyện;
- Hiểu rõ những quy trình, quy phạm, văn bản về đăng kí cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất;
- Số liệu điều tra , thu thập phải khách quan, trung thực, chính xác;

- Những đề xuất, kiến nghị đưa ra phải có tính khả thi và phù hợp với
điều kiện thực tế ở địa phương.

3


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan hệ thống hồ sơ ĐKĐĐ,cấp GCNQSDĐ tại Việt Nam qua
các thời kì
2.1.1. Thời kỳ phong kiến
Ở nước ta, công tác đạc điền và quản lý điền địa được hình thành từ thế
kỷ thứ 6. Tuy nhiên, theo các tài liệu cũ nhất mà ngày nay còn giữ lại được là
hệ thống địa bạ thời Gia Long (Mai Văn Phấn và Đào Xuân Bái, 2010) [22].
Trong thời kỳ này, nước ta tiến hành đo đạc lập sổ địa bạ cho từng cụm,
từng xã với mục đích phân rõ đâu là đất công, đâu là đất tư và định từng hạng
đất để thu thuế.
Mỗi triều đại (Lý – Trần – Hồ - Lê – Nguyễn) đều lựa chọn cho mình
phương pháp xử lý các mối quan hệ về đất đai theo cách riêng, phù hợp theo
từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, lợi ích cụ thể của giai cấp thống trị
và yêu cầu xây dựng nhà nước đương thời. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, công
trình đo đạc, thành lập địa bạ trên quy mô toàn quốc của Nhà Nguyễn là công
trình to lớn và có ý nghĩa nhất, đóng góp rất quan trọng trong việc hoạch định
các chính sách về quản lý đất đai và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam ở thế
kỷ XIX (Phùng Văn Nghệ, 2010) [20].
2.1.2. Thời ký Pháp thuộc
Dưới thời Pháp thuộc, do chính sách phân chia cai trị của thực dân Pháp
trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại nhiều chế độ điền địa khác nhau: chế độ quản
lý địa bộ tại Nam Kỳ: chế độ bảo tồn điền trạch, sau đó thành quản thủ địa
chánh tại Trung Kỳ; chế độ Bảo thủ ( còn gọi là “ Đế cương”) để áp dụng với

bất động sản của người Pháp và kiểu dân kết ước theo luật lệ Pháp quốc; chế
độ điền thổ theo sắc lệnh 29/03/1939 áp dụng tại Bắc Kỳ; chế độ điền thổ
theo sắc lệnh 21/07/1925 ( sắc lệnh 1925) áp dụng tại Nam Kỳ và các nhượng
4


địa Pháp quốc ở Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng ( Mai Văn Phấn và Đào
Xuân Bái,2010) [22].
2.1.3. Thời kỳ Mỹ - Ngụy
Trong thời ký này dưới sự cai trị của Mỹ - Ngụy đã tiến hành chững
chính sách đất đai, nổi bật là chính sách : “ Quốc sách cải tạo điền địa” của
Ngô Đình Diệm, sau đó là chính sách: “ Người cày có ruộng” của Nguyễn
Văn Thiệu. Công tác địa chính chủ yếu của thời ký này là lập sổ địa bạ và lập
sổ điền chủ nhằm quản lý việc sử dụng đất và thu thuế.
- Từ năm 1951 đến năm 1955, thành lập Nha địa chính và Nam phần,
Trung phần, Cao nguyên Trung phần.
- Từ năm 1956 đến năm 1959, thành lập Nha Tổng giám đốc địa chính,
Địa hình để thi hành các quốc sách về điền thổ và nông nghiệp.
- Từ năm 1960 đến năm 1975, thành lập Nha Điều tra nhằm xây dựng tài
liệu, tổ chức điều hành các công tác đo đạc, thành lập bản đồ, lập sổ địa chính
ở Nam Kỳ.
2.1.4 Thời kỳ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Nhà nước Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời, công tác địa chính bắt đầu được củng cố từ Trung ương đến địa
phương. Các thông tư, nghị định đã được ban hành nhằm tăng cường hiệu quả
của công tác quản lý và sử dụng đất.
- Ngày 18/02/1945, Luật Cải Cách Ruộng đất ra đời, đánh đổ hoàn toàn
chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến, thực hiện khẩu hiệu “ Người cày có
ruộng”. Sau khi thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc người dân thi đua

làm ăn tập thể theo kiểu hợp tác xã.
- Hiến pháp năm 1992, ra đời quy định ba chế độ sở hữu ruộng đất, đó
là: sở hữu toàn dân, sỏ hữu tư nhân và sở hữu tập thể.
- Năm 1960, Chính phủ quyết định chuyển Sở địa chính từ Bộ Tài Chính
thành Vụ Quản lý Ruộng đất thuộc Bộ Nông Nghiệp.
5


- Năm 1970, Bộ Nông Nghiệp đã triển khai chỉnh lý bản đồ giải thửa và
thống kê diện tích đất đai cả nước.
- Ngày 19/11/1979, Chính phủ có Nghị định số 404/NĐ – CP cho thành
lập hệ thống quản lý đất đai trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân
dân (UBND) các cấp. Toàn bộ quỹ đất đai do Tổng cục Quản lý Ruộng đất
quản lý.
- Hiến pháp năm 1980 quy định: “ Đất đai là tài nguyên thiên nhiên
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý theo pháp luật” nhằm
thống nhất công tác quản lý đất đai trên phạm vi toàn quốc [23].
- Hiến pháp năm 1992 ra đời quy định: “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật đảm bảo sử
dụng đất tiết kiệm, đúng mực, có hiệu quả” nhằm tăng cường hiệu quả hoạt
động quản lý đất đai và phù hợp với tình hình chung của đất nước [25].
- Luật Đât đai năm 1993 ra đời dựa trên tinh thần của Hiến pháp 1992,
trong đó Luật Đất đai quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng đất.
Đây là bộ luật đất đai quy định đầy đủ và chi tiết những vấn đề có liên quan
đến đất đai, cũng như quá trình sử dụng đất của người sử dụng đât. Sau 5 năm
thực hiện, Luật Đất đai năm 1993 vẫn còn nhiều điểm bất cập và không phù
hợp với thực tế sử dụng đất. Chính vì vậy Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Đất đai 1993 vào các năm 1998,2001.
- Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI, đã thông qua Luật đất đai năm
2003; đây là bộ luật đầy đủ nhất cho công tác quản và sử dụng đất ở nước ta ở

thời điểm hiện tại, tuy nhiên quá trình triển khai Luật Đất đai 2003 và thực
tiễn cuộc sống vẫn đòi hỏi phải có những vấn đề mới cần được bổ sung, đặc
biệt là công tác giải phóng mặt bằng. Do đó trong giai đoạn tới, Luật Đất đai
2003 sẽ được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh một số điều cho phù hợp với sự
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
2.2 Cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý của công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ
và lập HSĐC
2.2.1 Cơ sở lý luận của công tác ĐKĐ Đ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC
6


Thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, kinh tế nước ta trong những năm gần đây đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, tham gia vào thị trường của thế giới, đời sống xã hội không
ngừng được cải thiện nâng cao. Đi đôi với sự phát triển đó nảy sinh những
nhu cầu về việc sử dụng đất ngày càng gia tăng, dẫn đến tình hình sử dụng đất
có nhiều biến động. Bên cạnh đó, những nguồn lợi không nhỏ mà đất đai đem
lại cùng với đặc tính riêng biệt của nó, đất dai trở thành tư liệu sản xuất thu
hút được nhiều sự đầu tư. Chính vì vậy, công tác quản lý và sử dụng đất đai
đã và đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm sâu sắc.
Với vai trò điều tiết các quan hệ có liên quan đến đất đai, ĐKĐĐ, cấp
GCNQSDĐ và lập HSĐC đã trở thành nguồn động lực cho công tác quản lý
nhà nước về đất đai, tạo đà cho sự phát triển chung của đất nước.
ĐKĐĐ và tài sản gắn liền với đất lầ một thủ tục hành chính thiết lập
HSĐC đầy đủ và cấp GCNQSDĐ, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, đủ điều
kiện và hợp pháp nhằm xác lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước
với người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất làm cơ sở để Nhà
nước quản lý chặt chẽ đất đai và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật và đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với
đất ( Hoàng Anh Đức,2010) [17].

GCNQSDĐ là chứng thư pháp lý xác định QSDĐ hợp pháp của chủ sử
dụng đất trước pháp luật, là cơ sở pháp lý để chủ sử dụng đất thực hiện quyền
và nghĩa vụ sử dụng đất của mình, là bộ phận cấu thành của HSĐC.
HSĐC là hệ thống tài liệu, sổ sách, bản đồ chứa đựng những thông tin
cần thiết đã được thiết lập trong quá trình đo đạc, lập BĐĐC, ĐKĐĐ ban đầu
và đăng kí biến động đất đai, cấp GCNQSDĐ.
Thông qua công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC Nhà nước
nắm bắt được các thông tin đất đai, tình hình sử dụng và quản lý đất đai, để
từ đó quản lý chặt chẽ mọi biến động đất đai theo đúng pháp luật.
2.2.2 Căn cứ pháp lý của công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC
2.2.2.1 Hiến pháp
7


Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp
lý có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật cảu Việt Nam. Do sự phát triển
của đất nước, Hiến pháp tất yếu sẽ có sự thay đổi. Kế thừa và phát triển Hiến
pháp năm 1946,1959, Hiến pháp năm 1980 ra đời quy định: “ Đất đai, rừng
núi sông hồ...đều thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 19); “ Nhà nước thống nhất
quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm đảm bảo đất đai được sử dụng
hợp lý và tiết kiệm...” ( Điều 20) [23]. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, hệ
thống quản lý đất đai còn tồn tại nhiều bất cập.
Năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
VI đã đề ra đường lối Đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau đó,
Hiến pháp năm 1992 ra đời quy định: “ Đất đai, rừng núi...đều thuộc sở hữu
toàn dân”; Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả...” (Điều 18) [25].
2.2.2.2 Luật Đất đai
Năm 1987, Luật Đất đai ra đời, đánh dấu một cộc mốc quan trọng của hệ

thống pháp luật về đất đai. Luật Đất đai đầu tiên của chúng ta quy định: “Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao
đất cho các nông trường, lâm trường, xí nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân để sử dụng ổn định, lâu dài”.
ĐKĐĐ, lập và quản lý HSĐC, quản lý các hợp đồng sử dụng đất là một trong
7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai (Điều 9) [24].
Trong thực tế thực hiện, Luật Đất đai năm 1987 đã bộc lộ quá nhiều hạn
chế, nên đã không kích thích được năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Trước
thực trạng đó, năm 1993, Luật Đất đai mới thay thế cho Luật Đất đai năm
1987 đã mở ra nội hàm rộng: “ Đât đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng
đất thuộc về người sử dụng đất” [26]. Tại điều 13 của Luật Đất đai 1993 tiếp
tục khẳng định ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC là một trong 7 nội dung
quan trọng trong quản lý Nhà nước về đất đai. Thông qua ĐKĐĐ, cấp
8


GCNQSDĐ, Nhà nước xác định được diện tích, mục đích sử dụng của các
chủ sử dụng đất, đồng thời các chủ sử dụng đất cũng thấy rõ được quyền lợi
và nghĩa vụ đối với Nhà nước [26].
Luật Đất đai năm 1993 có ý nghĩa rất to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế,
góp phần ổn định chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trước tình hình phát triển
nhanh chóng về kinh tế - xã hội, pháp luật về đất đai có những bộc lộ hạn chế
như: chưa xác định rõ nội dung cốt lõi của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
do Nhà nước thống nhất quản lý; pháp luật về đất đai chưa đủ tầm giải quyết
một cách có hiệu quả những vấn đề về đất đai để đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ đổi mới...
Để khắc phục những hạn chế thiếu sót trên, thực hiện Nghị quyết
số12/2001/QH11 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
khóa XI (2002 – 2007) ngày 26 tháng 12 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc
hội khóa XI đã thông qua Luật Đất đai năm 2003 [27]. Luật Đất đai năm 2003

được xây dựng trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc cơ bản mà Hiến pháp năm
1992 quy định, đồng thời thể chế hóa các quan điểm đã được xác định trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về: “ Tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” [31].
2.2.2.3 Các văn bản dưới luật
Sau cách mạng thánh 8 năm 1945, cải cách ruộng đất chính quyền cách
mạng tịch thu ruộng đất của địa chủ cho dân nghèo. Do điều kiện thiếu thốn,
chiến tranh kéo dài hệ thống hồ sơ chế độ cũ để lại không được chỉnh lý và
không sử dụng được. Hệ thống tài liệu đất đai là bản đồ giải thửa đo đạc thủ
công bằng thước dây, bán đạc cải tiến và sổ mục kê kiêm thống kê ruộng đất (
Hoàng Anh Đức) [17].
- Chỉ thị 344/TTg ngày 03/07/1958 của Hội đồng Chính phủ ( nay là
Chính phủ) cho tái lập hệ thống Địa chính trong Bộ Tài chính;
- Nghị định 404/CP ngày 09/11/1979 của Hội đồng Chính phủ ( nay là
Chính phủ) về việc thành lập hệ thống tổ chức quản lý ruộng đất trực thuộc
9


Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản lý Nhà nước dối với ruộng đất trên toàn
bộ lãnh thổ;
- Quyết định 201/CP ngày 01/07/1980 của Hội đồng Chính phủ ( nay là
Chính phủ) về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản
lý ruộng đất trong cả nước;
- Chỉ thị số 299 – TTg, ngày 10/11/1980 do Thủ tướng chính phủ ban
hành về việc triển khai đo đạc giá thửa nhằm nắm lại quỹ đất;
- Ngày 5/11/1981. Tổng cục quản lý ruộng đất ban hành quyết định số
56/QĐ – ĐKTK quy định về trình tự thủ tục ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ;
- Ngày 8/11/1988. Luật đất đai ra đời. Trong đó nêu rõ :” ĐKĐĐ, lập và
quản lý hồ sơ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê

đất đai, cấp GCNQSDĐ” đây là một trong nội dung quản lý Nhà nước về đất
đai;
- HIến pháp năm 1992;
- Luật đất đai năm 1993 được thông qua vào ngày 14/7/1993;
- Quyết định số 499/QĐ- ĐC ngày 27/07/1995 của Tổng cục địa chính
hướng dẫn các thủ tục ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC thay thế cho
thông tư số 346/TT- TCĐC ngày 16/03/1998;
- Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày
26/11/2003;
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 do Chính phủ ban
hành về hướng dẫn thi hành luật đất đai năm 2003;
- Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về ban hành các quy định về cấp GCNQSDĐ;
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/20064của Bộ Tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn lập chỉnh lý, quản lý HSĐC;
- Thông tư số 95/2005/TT-BTC ngày 26/10/2005 của Bộ Tài Chính
hướng dẫn các quy định của pháp luật về lệ phí trước bạ;
- Thông tư số 70/2006/TT-BTC ngày 02/08/2006 của Bộ Tài Chính
hướng dẫn sửa đổi, bổ sung thông tư số 117/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004
của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày
03/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất;
10


- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 25/05/2006 của Bộ Tài nguyên
và môi trường ban hành quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
- Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 01/01/2007 của bộ Tài nguyên
và môi trường ban hành hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ đia chính;

- Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch, giá đất, thu
hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư;
- Nghi định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp GCN, thu hồi đất thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại vế đất đai;
- Nghị định số 88/2009/NĐ-CP quy định về GCNQSDĐ, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
- Quyết định số 08/2006/QĐ – BTNMT ngày 21/07/2006 của Bộ TNMT
ban hành quy định về GCNQSDĐ;
- Thông tư số 70/2006/TT- BTC ngày 02/08/2006 hướng dẫn sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 117/2004/TT- BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định sô 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về thu tiền sử dụng đất;
- Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24/08/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để chấn chỉnh việc cấp
GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và xây dựng
cơ sở dữ liệu đất đai;
- Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/05/2012 của Chính phủ quy
định về quản lý, sử dụng đất trồng lúa;
2.3 Tình hình ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ cảu một số nước trên thế giới
2.3.1 Thụy điển
Thụy Điển là một trong những quốc gia có hệ thống ĐKĐĐ với những
thông tin đất đai điện tử hiệu quả trên thế giới. Các phần mềm quản lý dữ liệu

11


liên tục được cải tiến và nhiều kỹ thuật thông tin mới được ứng dụng thành
công đã mang đến bộ mặt mới cho hệ thống ĐKĐĐ Thụy Điển.

Hệ thống đăng ký bất động sản được kết nối tới các cơ sở dữ liệu địa lý
của Thụy Điển thông qua hệ thống tọa độ. Các cơ sở dữ liệu địa lý có chứa
các thông tin về địa hình, sử dụng đất, thủy văn, thực vật... (Tommy
Osterberg,2010) [32]. Do vậy, ngoài các thông tin về địa chính và chủ quyền
mà Cơ quan đo đạc Đất đai quốc gia có được từ chính hoạt động của mình,
các thông tin về quy hoạch, về giá trị bất động sản cũng được các cơ quan
quản lý liên quan chuyển đến, cập nhật thường xuyên, liên tục trong sổ đăng
ký bất động sản với quy trình đăng ký, xử lý, cập nhập thông tin được pháp
luật quy định chặt chẽ [21].
Như vậy với quá trình phát triển ít biến động, hầu hết các đơn vị đất đai
ở Thụy Điển đều đã được đăng ký, thể hiện đầy đủ thông tin trong sổ Đăng ký
bất động sản. Trên cơ sở đó, hệ thống ngân hàng dữ liệu đất đai tại Thụy Điển
đã được xây dựng thành công theo hướng tin học hóa. Người có nhu cầu có
thể tiếp cận thông tin đất đai qua mạng internet một cách dễ dàng nhanh
chóng và thuận tiện. Không có những thủ tục hành chính rắc rối, phiền hà đối
với người đăng ký. Nhiều sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi hệ thống
đăng ký đất đai của Thụy Điển không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước
mà cả nhu cầu của nhiều nước trên thế giới [21].
2.3.2 Tây Australia
Cũng giống như Thụy Điển, Australia là một trong số các nước có hệ
thống quản lý đất đai tốt nhất thế giới, trong đó tập trung vào các lĩnh vực:
ĐKĐĐ,đo đạc và thành lập BĐĐC. Tại Tây Australia, hệ thống ĐKĐĐ
Torrens được áp dụng từ năm 1875 dựa trên Bộ luật chuyển nhượng đất đai
năm 1874 (Ngô Đức Mậu,2010) [19]. Nguyên lý cơ bản của hệ thống Torrens
là việc xác lập quyền về đất dựa trên cơ sở đăng ký và cấp GCN về nhà đất
hoặc bất động sản, không đòi hỏi các loại chứng thư giao dịch, các giấy tờ có
liên quan khác và công việc thẩm tra phức tạp tốn thời gian như yêu cầu ở hệ
12



thống cũ. Hệ thống Torrens đã tạo nên những chuyển biến mới trong các giao
dịch chuyển biến mới trong các giao dịch chuyển quyền nhà đất hoặc bất
động sản [18].
So với nhiều nước khác, để đáp ứng yêu cầu cho một hệ thống quản lý
Đất đai hiện đại, Chính phủ Australia đã nỗ lực rất lớn trong cải cách thể chế
và hành chính công tác ĐKĐĐ tại Tây Australia. Qua nhiều lần chuyển mình
Tây Australia đã cải cách thành công công tác ĐKĐĐ.
2.3.3 Trung Quốc
Theo Bộ TNMT (2012) [10], hệ thống đăng ký bất động sản Trung Quốc
mới chỉ được xây dựng trong những năm gần đây theo hệ thống đăng ký
Torrens. Vì thế, hệ thống đăng ký tại đây mang những đặc điểm chung của hệ
thống Torrens thông dụng.
Trong hệ thống đăng ký bất động sản, đối tượng đăng ký đều được xác
định là các quyền đối với bất động sản và trong hệ thống này, GCN đăng ký
là vấn đề đặc biệt quan trọng. Cơ quan đăng ký của Trung Quốc thực hiện cấp
GCN quyền sở hữu bất động sản (cơ quan đăng ký cấp một bản giấy chứng
nhận cho chủ sở hữu và lưu một bản để quản lý). GCN quyền sở hữu đất đáp
ứng yêu cầu về “ tính xác nhận”, trong đó cung cấp thông tin liên quan đến
bất động sản mà người có nhu cầu xác lập giao dịch có thể tin tưởng và người
có nhu cầu xác nhận giao dịch chỉ dựa vào thông tin có trong GCN để đánh
giá tình trạng pháp lý của bất động sản. Quyền sở hữu cũng như các quyền
khác của người đứng tên trong GCN là không thể hủy bỏ [11].
Việc thu phí đối với việc đăng ký bất động sản không theo diện tích, thể
tích bất động sản hoặc tỷ lệ giá cả mà được thu theo từng thời điểm đăng ký.
Tức việc thu phí đối với việc đăng ký bất động ản được ấn định thành mức
phí cố định trong từng thời điểm nhất định [11].
2.4 Những quy định chung về ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC
2.4.1 Đăng ký đất đai
2.4.1.1 Khái niệm


13


ĐKĐĐ là thủ tục hành chính do cơ quan Nhà nước thực hiện đối với các
đối tượng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, sở hữu tài sản trên đất
(gọi chung là người sử dụng); là việc ghi nhận về QSDĐ ,quyền sở hữu tài
sản trên đất đối với một thửa đất xác định vào HSĐC và cấp GCNQSDĐ,
quyền sở hữu tài sản trên đất cho những chủ sử dụng đất hợp pháp qua đó xác
lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước với người sử dụng [17].
2.4.1.2 Đối tượng đăng ký quyền sử dụng đất
- Người sử dụng đất phải đăng ký QSDĐ. Đối tượng này bao gồm: người
đang sử dụng đất, người có quan hệ trực tiếp với Nhà nước trong việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ sử dụng đất theo pháp luật.
- Đăng kí ban đầu
Là đăng kí được thực hiện với các trường hợp được nhà nước giao đất,
cho thuê đất để sử dụng mà người sử dụng đất hợp pháp tiến đến cấp
GCNQSDĐ.
Đăng kí ban đầu được thực hiện trong các trường hợp:
* Được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
* Người đang sử dụng đất mà chưa có GCN.
- Đăng kí biến động
Được thực hiện với người sử dụng đất đã có GCNQSDĐ hoặc có giấy tờ
hợp lệ về quyền sử dụng đất theo quy định tại điều 50 – Luật đất đai 2003 mà
có thay đổi về quyền sử dụng đất với các trường hợp: chuyển đổi, chuyển
nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, được phép đổi tên,
thay đổi hình dạng, kích thước thửa đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thay
đổi thời hạn sử dụng đất.
2.4.2 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GCNQSDĐ là chứng thư pháp lý chứng nhận quyền sử dụng đất hợp
pháp của người sử dụng đất như: chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, tặng cho,


14


cho thuê, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất...để họ yên tâm đầu tư,
cải tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng đất [17].
- Các trường hợp được Nhà nước cấp GCNQSDĐ:
* Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trừ trường hợp cho thuê,
thuê lại của người khác hoặc đất công ích.
* Người được Nhà nước giao đất từ 15/10/1993 đến trước ngày luật đất
đai có hiệu lực mà chưa được cấp GCNQSDĐ.
* Người đang sử dụng đất theo quy định của điều 50,51 luật đất đai 2003
mà chưa được cấp GCNQSDĐ.
* Người được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử
dụng đất, người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp, bảo
lãnh bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ, các tổ chức sử dụng đất là pháp
nhân mới dược hình thành do các bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
* Đối tượng sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của tòa án, quyết
định thi hành án của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
* Đối tượng trúng đấu giá quyền sử dụng đất.
* Đối tượng sử dụng đất của khu công nghiệp.
* Đối tượng mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.
* Đối tượng được Nhà nước thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở [27].
- Thẩm quyền cấp GCNQSDĐ
* UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp GCNQSDĐ cho tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức,cá nhân
nước ngoài.
* UBND cấp huyện cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng
dân cư, người Việt Nam ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyến sử dụng
đất [27].

2.4.3 Hồ sơ địa chính

15


HSĐC là hệ thống tài liệu, bản đồ, số liệu, sổ sách chứa đựng những
thông tin cần thiết về mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của đất đai được
thiết lập trong quá trình đo đạc, lập bản đồ địa chính, ĐKĐĐ và cấp
GCNQSDĐ.
Hồ sơ đia chính gồm: bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê, sổ theo
dõi biến động đất đai và bản lưu GCNQSDĐ.
Nguyên tắc lập hồ sơ địa chính:
- Hồ sơ địa chính được lập theo đơn vị hành chính cấp xã.
- Việc lập và chỉnh lý hồ sơ địa chính thực hiện theo đúng trình tự thủ tục
hành chính đã quy định [3].
- Hồ sơ địa chính dạng số, trên giấy phải đảm bảo tính thống nhất nội
dung thông tin thửa đất với GCNQSDĐ và hiện trạng sử dụng đất.
Trách nhiệm lập HSĐC [3]
- Sở tài nguyên và môi trường tổ chức việc lập HSĐC
- VPĐKQSDĐ thuộc sở Tài nguyên và Môi trường triển khai việc lập
HSĐC gốc và làm 02 bản sao để gửi VPĐKQSDĐ thuộc phòng Tài nguyên
và Môi trường
Trách nhiệm chỉnh lý và cập nhập HSĐC [3]
- VPĐKQSDĐ thuộc sở Tài nguyên và Môi trường chỉnh lý và cập nhập
hồ sơ gốc.
- VPĐKQSDĐ thuộc phòng Tài nguyên và Môi trường, cán bộ địa chính
xã, phường, thị trấn chỉnh lý, cập nhập bản sao HSĐC.
Trách nhiệm quản lý HSĐC [3]
- VPĐKQSDĐ thuộc sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm quản
lý HSĐC gốc và các tài liệu liên quan.

- VPĐKQSDĐ thuộc phòng Tài nguyên và Môi trường quản lý bán sao
HSĐC và các tài liệu liên quan.

16


- UBND xã, phường, thị trấn quản lý bản sao HSĐC. Bản trích sao
HSĐC đã được chỉnh lý, cập nhập và các giấy tờ kèm theo do VPĐKQSDĐ
thuộc sở Tài nguyên và Môi trường gửi đến để chỉnh lý, cập nhập bản sao
HSĐC.
2.5 Kết quả ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC của cả nước và TP Hà Nội
2.5.1. Kết quả ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC của cả nước
Tính đến tháng 12/2013, cả nước đã thực hiện đo đạc lập bản đồ địa
chính với tổng diện tích trên 25 triệu ha đất, chiếm 76% tổng diện tích cần đo
đạc, trong đó tỷ lệ 1/200 là 15,30 nghìn ha; tỷ lệ 1/500 là 237,80 nghìn ha; tỷ
lệ 1/1000 là 1.526 nghìn ha; tỷ lệ 1/2000 là 4.443 nghìn ha; tỷ lệ 1/5000 là
3.181,5 nghìn ha; tỷ lệ 1/10000 là 15.664,90 nghìn ha (Tổng cục quản lý đất
đai, 2013) [35].
Cho đến nay các địa phương trong cả nước đã cấp 35.394.800
GCNQSDĐ, với diện tích 20.264 nghìn ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp
đạt 85,1% diện tích; đất lâm nghiệp đạt 86,3%; đất nuôi trồng thủy sản đạt
83% diện tích cần cấp; đất ở nông thôn đạt 79,3%; đất ở đô thị đạt 69%.
Phần lớn các địa phương đã triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính
thay thế hồ sơ địa chính dạng giấy. Trong đó, 2 tỉnh Đồng Nai và An Giang
đã hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đến cấp xã [1].
2.5.2. Kết quả ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC của thành phố Hà Nội
Báo cáo kết quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường của
UBND TP Hà Nội chỉ rõ: Hiệu quả sử dụng đất đai ở một số nơi, một số đơn
vị còn thấp, tình trạng lấn chiếm đất công, tự chuyển mục đích sử dụng đất
còn xảy ra trên địa bàn một số quận, huyện. Công tác cấp giấy chứng quyền

sử dụng đất vẫn chưa đạt kế hoạch đề ra, hệ thống hồ sơ địa chính của nhiều
quận, huyện còn thiếu...
Theo số liệu tổng hợp của Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hà Nội [33],
tới nay thành phố đã cấp được 646.863 sổ đỏ đất nông nghiệp, đạt 93%; cấp
được 1.014.760 sổ đỏ cho các hộ gia đình, cá nhân tại khu vực đô thị và nông
thôn, đạt 92%; cấp được 4.808 sổ đỏ cho các tổ chức, đơn vị sử dụng đất, đạt
17


40,9%. Hiện, thành phố còn khoảng 3.500 trường hợp chưa cấp GCNQSDĐ,
cộng với khoảng 15.000 trường hợp mua nhà theo nghị định 61 của Chính
phủ đang tồn đọng (thống kê của Sở Xây dựng Hà Nội) và khoảng hơn 34.000
trường hợp “ đang xem xét” từ các quận, huyện, tổng cộng Hà Nội còn
khoảng 52.000 trường hợp chưa được cấp GCNQSDĐ.
PHẦN 3

ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đánh giá công tác đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
và lập hồ sơ địa chính tại huyện Gia Lâm
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Gia Lâm
- Điều kiện tự nhiên;
- Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội;
- Đánh giá chung;
3.2.2. Hiện trạng sử dụng đất đai của huyện Gia Lâm
3.2.3. Kết quả ĐKĐĐ và cấp GCNQSDĐ của huyện
- Trình tự, thủ tục đăng kí, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập
hồ sơ địa chính

- Kết quả ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC trên địa bàn huyện Gia
Lâm;
3.2.4. Đánh giá chung về công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC
của huyện
- Những mặt đạt được trong công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập
HSĐC của huyện;
- Những tồn tại, vướng mắc công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập
HSĐC của huyện,
3.2.5. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và
lập HSĐC trên địa bàn huyện
18


3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu
- Nghiên cứu các văn bản Luật và văn bản dưới Luật về đất đai từ trước
đến nay của Trung ương và địa phương.
- Điều tra, thu thập số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp.
3.3.2 Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh và xử lý số liệu
- Phương pháp phân tích trên cơ sở các số liệu thu thập và các số liệu điều
tra.
- Sử dụng phần mềm Excel để tính toán số liệu, vẽ biểu đồ để minh họa số
liệu.
3.3.3. Phương pháp điều tra tham vấn của các nhà chuyên môn
Tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn nhằm đưa ra các giải pháp
đẩy nhanh tiến độ ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC.

PHẦN 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
4.1.1 Điều kiện tự nhiên của huyện Gia Lâm
* Vị trí địa lý
Gia Lâm là huyện ngoại thành nằm ở cửa ngõ phía Đông thành phố Hà
Nội, huyện có vị trí địa lý như sau:
19


Phía Bắc giáp quận Long Biên, huyện Đông Anh và tỉnh Bắc Ninh.
Phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hưng Yên.
Phía Tây giáp quận Long Biên và quận Hoàng Mai.
Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên.
Huyện Gia Lâm có vị trí địa lý thuận lợi trong phát triển kinh tế – xã hội
và giao lưu thương mại. Khu vực nông thôn huyện Gia Lâm là địa bàn hấp
dẫn các nhà đầu tư do có những thuận lợi về địa lý kinh tế.
* Địa hình, địa mạo
Huyện Gia Lâm thuộc vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng, có
địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chung của địa
hình và theo hướng dòng chảy của sông Hồng. Tuy vậy, địa hình của huyện
khá đa dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo thuận lợi cho phát triển
kinh tế, xây dựng các công trình hạ tầng dân dụng và khu công nghiệp, đảm
bảo yêu cầu cho phát triển kinh tế xã hội của huyên.
* Khí hậu
Huyện Gia Lâm mang đặc điểm chung của khí hậu, thời tiết vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng:
- Một năm chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa nóng ẩm kéo dài từ tháng 4 đến
tháng 10, mùa khô hanh keo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Giữa 2 mùa
nóng ẩm và mùa khô hanh có các thời kỳ chuyển tiếp khí hậu tạo ra một dạng
khí hậu 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
- Nhiệt độ không khí trung bình năm 23,5 0C, mùa nóng nhiệt độ trung

bình tháng đạt 27,40C.
- Lượng mưa trung bình hàng năm 1400-1600mm. Mưa tập trung vào
mùa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 9, mưa nhiều nhất vào tháng 7 và tháng 8.
- Số giờ nắng trung bình năm khoảng 1.500 giờ, thấp nhất là 1.150 giờ,
cao nhất là 1.970 giờ. Tổng lượng bức xạ cao, trung bình khoảng
4.272Kcal/m2/tháng.
20


- Hướng gió thịnh hành là gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc.
Gió mùa Đông Nam bắt đầu vào tháng 5, kết thúc vào tháng 10 mang theo
nhiều hơi nước từ biển vào. Gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau thường gây ra lạnh và khô. Rét đậm trong tháng 12 và tháng 1 và thường
gây ra những thiệt hại cho sản xuất.
*Thủy văn
Chế độ thủy văn của huyện chịu ảnh hưởng của các sông: sông Hồng,
sông Đuống, sông Cầu Bây, sông Bắc Hưng Hải, sông Thiên Đức chảy qua.
Gia Lâm có hệ thống sông ngòi khá dày đặc với mật độ mạng lưới sông ngòi
vào khoảng 0,7 – 0,9km/km2. Hiện tại, sông Hồng, sông Đuống là nguồn cung
cấp nước chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh trên địa bàn
huyện. Sông ngòi Gia Lâm được phân làm 2 loại: các sông chính và sông nội
đồng
4.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Gia Lâm
4.1.2.1 Tăng trưởng kinh tế - xã hội
- Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu do huyện quản lý tăng
10-10,5%, trong đó:
+ Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng : 9,0-9,5%
+ Giá trị sản xuất dịch vụ tăng
: 14,5-15,0%
+ Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng

: 2,0-2,5%
- Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu do Huyện quản lý:
+ Công nghiệp, xây dựng
: 54,3%
+ Thương mại, dịch vụ
: 29,7%;
+ Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản : 16%.
Biểu đồ4.1 Cơ cấu kinh tế của huyện Gia Lâm năm 2013

21


×