Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp phòng văn hóa và thông tin huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.75 KB, 68 trang )

B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

1. Đơn vị thực tập.
Phòng văn hoá và thông tin huyện Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Nội dung thực tập.
Nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề thuộc các lĩnh vực văn hoá, lịch sử, du
lịch, con người cư trú trên địa bàn huyện Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc. Cụ thể
là tìm hiểu, nghiên cứu về nét đẹp văn hoá của dân tộc Sán Dìu cư trú và sinh
hoạt trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Thời gian thực tập.
Đợt 1: Từ ngày 7 tháng 11 năm 2011.
Đến ngày 2 tháng 12 năm 2011.
Đợt 2: Từ ngày 6 tháng 2 năm 2012.
Đến ngày 16 tháng 3 năm 2012.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

1

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.



1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐƠN VỊ, CƠ QUAN (Nơi sinh viên thực
tập).
1.1. Số liệu điều tra.
Bao gồm các số liệu điều tra về dân số của dân tộc Sán Dìu sinh sống trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó còn những số liệu liên quan đến văn hoá
truyền thống, phong tục tập quán, trang phục truyền thống và văn hoá ẩm thực
của đồng bào.
1.2. Phân tích số liệu.
Những số liệu trên được cung cấp từ thống kê của phòng văn hoá và
thông tin huyện Bình Xuyên, theo số liệu của Ban dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc và
tập hợp báo cáo của huyện, thị xã tính đến năm 2007.
Từ những số liệu trên, chúng ta thấy dân tộc Sán Dìu là một dân tộc có
số lượng đông đảo trong cộng đồng cư dân sinh sống trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc. Qua đó, đồng bào đã góp sức của mình cho công cuộc bảo vệ và xây
dựng quê hương đất nước, góp phần làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc Sán
Dìu nói riêng và làm phong phú thêm cho nền văn hoá của con người Việt
Nam nói chung.
2. Thuận lợi và khó khăn.
2.1. Thuận lợi.
Phòng văn hoá và thông tin huyện Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc luôn
tạo điều kiện tốt nhất cho sinh viên chúng em đến thực tập, tìm hiểu và nghiên
cứu những vấn đề mình còn quan tâm và thắc mắc.
Phòng còn được trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị, thông tin đầy đủ
như:
Phòng có thư viện lớn với nhiều sách, báo, tạp chí…về các lĩnh vực văn
hoá, lịch sử, du lịch và các lĩnh vực khác. Hơn nữa, phòng còn có nhà truyền

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh


2

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

thống_là nơi trưng bày những tư liệu, hiện vật, hình ảnh về lịch sử, truyền
thống, con người huyện Bình Xuyên. Đặc biệt, phòng văn hoá và thông tin
được trang bị phòng máy tính, khu sinh hoạt văn nghệ rất tiện ích.
Bên cạnh đó, phòng thường xuyên tổ chức các chuyến đi dã ngoại đến các
khu di tích lịch sử, văn hoá, làng nghề trong huyện để tìm hiểu, nghiên cứu,
tăng thêm hiểu biết của các cán bộ trong công việc quản lí văn hoá nói chung.
Không những thế, phòng còn luôn tổ chức, tập luyện và biểu diễn các chương
trình văn nghệ rất sôi nổi và luôn đạt kết quả cao.
2.2. Khó khăn.
Bên cạnh những mặt thuận lợi thì phòng văn hoá và thông tin huyện
Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc còn tồn tại một số hạn chế nhỏ do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan như:
Đội ngũ cán bộ trình độ còn hạn chế nên việc hướng dẫn sinh viên thực tập
còn nhiều bất cập.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư nhưng còn nhiều hạn chế đó
là phòng máy chưa được nối mạng internet, số lượng sách báo, tạp chí về văn
hoá, lịch sử, du lịch, xã hội trong thư viện chưa thực sự đầy đủ nên việc tìm
hiểu, nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn.
Trên đây là những hạn chế nhỏ. Hi vọng tương lai không xa, phòng văn

hoá và thông tin huyện Bình Xuyên sẽ nhanh chóng khắc phục những hạn chế
đó, phát huy những thuận lợi để trở thành một đơn vị vững mạnh, không chỉ
là một trung tâm thông tin về văn hoá, lịch sử, du lịch, con người trên địa bàn
huyện, tỉnh mà còn khám phá thêm nhiều nét đẹp văn hoá khác trên mọi miền
tổ quốc và bạn bè thế giới.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

3

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

2. KẾ HOẠCH THỰC TẬP TOÀN ĐỢT.
STT

THỜI GIAN

NỘI DUNG CÔNG VIỆC

DỰ KIẾN

1


THỰC HIỆN KẾT QUẢ
Giới thiệu, gặp mặt với cơ Ngày

2

quan thực tập.
07/11/2011
Đọc sách, tìm hiểu, nghiên cứu Từ
ngày Đạt
ở thư viện của phòng văn hoá 08/11/2011
và thông tin huyện Bình đến

3

Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.
Luyện tập văn nghệ.

GHI CHÚ

kết

quả cao.

ngày

20/11/2011
Từ
ngày
21/11/2012
đến


4

ngày

31/11/2011
Tham gia biểu diễn văn nghệ Ngày

Đạt

chương trình “Vì người tàn tật 01/12/2011

quả cao.

kết

và trẻ em mồ côi” do phòng tổ
5

chức.
Nộp phiếu đánh giá kết quả Ngày
thực tập và kết thúc thực tập 02/21/2011

6

đợt 1.
Tham quan, tìm hiểu nghiên Từ

ngày Đạt


cứu văn hoá, lịch sử, con 06/02/2012
người huyện Bình Xuyên qua đến

kết

quả cao.

ngày

các tư liệu, hiện vật trưng bày 15/02/2012
trong nhà truyền thống của
7

phòng.
Đi dã ngoại tìm hiểu, nghiên Từ

ngày Đạt

cứu, tham quan về nếp sống và 16/02/2012

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

4

kết

quả cao.

Líp: K34E



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

sinh hoạt của đồng bào Sán đến

ngày

Dìu ở các huyện Lập Thạch, 25/02/2012
Tam Đảo, Bình Xuyên và thị
8

xã Phúc Yên.
Đi đến các xã, thị trấn trong Từ

ngày Đạt

huyện Bình Xuyên thống kê 26/02/2012
“Gia đình văn hoá”.
9

đến

ngày

nhạc chào mừng ngày quốc tế 01/03/2012


10

quả cao.

29/02/2011
Luyện tập văn nghệ, ca múa Từ
ngày Đạt
phụ nữ. Đọc sách báo trong đến

kết

kết

quả cao.

ngày

thư viện.
08/03/2012
Đọc sách báo trong thư viện để Từ
ngày
tìm tài liệu hoàn chỉnh cho báo 09/03/2013
cáo thực tập tốt nghiệp của đến

11

mình.
11/03/2012
Viết báo cáo thực tập tốt Từ
ngày Đạt

nghiệp.

12/03/2013
đến

12

ngày
kết

quả cao.

ngày

15/03/2012
Nộp báo cáo và phiếu đánh giá Ngày

Đạt

kết quả, kết thúc thực tập tốt 16/03/2012

quả cao.

kết

nghiệp.
3. KẾT QUẢ THỰC TẬP.
Đề tài:
“NÉT ĐẸP VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở VĨNH PHÚC.”


NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

5

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn các cô chú trong phòng văn hoá và thông tin huyện
Bình Xuyên - tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

6

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.


bản báo cáo thực tập tốt nghiệp này. Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới cô Nguyễn Thị Nhẫn (trưởng phòng văn hoá thông tin huyện Bình Xuyên),
người đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình triển khai
nghiên cứu đề tài để bản báo cáo của tôi đạt hiệu quả.
Do thời gian nghiên cứu và đây là bước đầu làm quen với công việc
nghiên cứu khoa học nên báo cáo của tôi không tránh khỏi thiếu xót. Vì vậy
tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn sinh viên để báo
cáo thực tập tốt nghiệp của tôi thêm chất lượng và hữu ích.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Vĩnh Phúc, ngày 15 tháng 03 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Diệu Linh

MỤC LỤC
Mở đầu............................................................................................................10
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................10

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

7

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.


2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................12
3. Mục đích nghiên cứu.............................................................................12
4. Mục tiêu nghiên cứu..............................................................................13
5. Đối tượng nghiên cứu............................................................................13
6. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................13
7. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................13
8. Bố cục....................................................................................................14
Nội dung.....................................................................................................15
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu nét đẹp văn hoá dân tộc
Sán Dìu ở Vĩnh Phúc................................................................................15
1.1

Khái niệm Văn hoá..........................................................................15

1.2

Khái niệm Văn hoá truyền thống.....................................................17

1.3

Khái niệm Phong tục tập quán.........................................................18

1.4

Khái niệm văn hoá ẩm thực.............................................................19

Chương 2: Nét đẹp văn hoá dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc..................21
2.1.1. Tên gọi..............................................................................................21
2.1.2. Dân số...............................................................................................22
2.1.3. Cấu trúc làng bản, nhà ở...................................................................23

2.1.4. Quan hệ gia đình, hôn nhân..............................................................23
2.1.5. Quan hệ xã hội..................................................................................25
2.1.6. Nhận định chung về dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc..........................26
2.2. Nét đẹp văn hoádân tộc Sán Dìu ở Vĩnh phúc....................................27
2.2.1. Văn hoá truyền thống.......................................................................27
2.2.1.a. Ngôn ngữ_chữ viết........................................................................28
2.2.1.b. Văn thơ..........................................................................................29
2.2.1.c. Đố chữ...........................................................................................30

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

8

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

2.2.1.d. Soọng cô........................................................................................32
2.2.1.e. Trò chơi dân gian...........................................................................35
2.2.2. Phong tục tập quán...........................................................................36
2.2.2.a. Sinh đẻ...........................................................................................36
2.2.2.b. Cưới xin.........................................................................................39
2.2.2.c. Tang ma........................................................................................45
2.2.2.d. Lễ cấp sắc......................................................................................50
2.2.2.e. Các lễ tết trong năm.......................................................................52

2.2.3. Trang phục truyền thống và Văn hoá ẩm thực.................................52
2.2.3.a. Trang phục truyền thống...............................................................52
2.2.3.b. Văn hoá ẩm thực............................................................................54
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hoá dân tộc Sán
Dìu ở Vĩnh Phúc.......................................................................................60
3.1. Thuận lợi.............................................................................................60
3.2. Khó khăn.............................................................................................62
3.3. Giải pháp.............................................................................................63
Kết luận......................................................................................................65
Tài liệu tham khảo......................................................................................66
Phụ lục và một số hình ảnh........................................................................67

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

9

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

Nước ta là một quốc gia có nhiều dân tộc. Các dân tộc ở nước ta cùng
cư trú lâu đời với nhau, do đó cùng chung số phận lịch sử, cùng góp sức

người, sức của vào quá trình dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển đất
nước. Mỗi dân tộc ở nước ta đều có sắc thái văn hoá riêng. Sắc thái văn hoá
đó tạo nên văn hoá dân tộc, đồng thời góp phần làm cho văn hoá Việt Nam đa
dạng mà lại thống nhất.
Nằm ở phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc là tỉnh có cả đồng bằng,
trung du và miền núi, có các dân tộc thiểu số sinh sống. Thống kê đến nay,
Vĩnh Phúc có trên 20 dân tộc thiểu số, tổng số 9.127 hộ với 43.056 khẩu
chiếm 3,58 dân số toàn tỉnh. Trong đó dân tộc Sán Dìu chiếm số lượng lớn
nhất 8.412 hộ với 39.539 khẩu chiếm 91,82 % dân số các dân tộc thiểu số của
tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong quá trình hình thành và phát triển, đồng bào dân tộc Sán Dìu ở
Vĩnh Phúc đã luôn sát cánh cùng với nhân dân các dân tộc khác phấn đấu cho
công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Đặc biệt hơn 60 năm qua
từ khi thành lập tỉnh Vĩnh Phúc, đồng bào dân tộc Sán Dìu đã nêu cao tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn
kết: Cá nhân_Gia đình_Bản làng_Tổ quốc, với bản sắc văn hoá truyền thống
đậm nét trong các hình thức biểu hiện về đời sống, sinh hoạt, phong tục tập
quán, tín ngưỡng.
Qua thời gian và sự phát triển của xã hội, đồng bào dân tộc Sán Dìu
còn giữ được những giá trị thuộc bản sắc dân tộc, song có những giá trị đã bị
biến đổi, mai một, ảnh hưởng không nhỏ đến việc giữ gìn bản sắc dân tộc
thiểu số nói chung và dân tộc Sán Dìu nói riêng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII có nên rõ: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

10

Líp: K34E



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học nghệ thuật của các
dân tộc thiểu số”. Nhằm tiếp tục thực hiện một cách có hiệu quả chủ trương
đường lối của Đảng, Nhà nước và của tỉnh, đặc biệt là thực hiện tốt chính
sách về dân tộc đồng thời tìm hiểu đời sống kinh tế, văn hoá của từng dân tộc
thiểu số ở Vĩnh Phúc một cách hệ thống, chi tiết hơn, từ đó giúp cho các dân
tộc tự tìm hiểu về mình và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau để xây dựng một
nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Việc tìm hiểu về những nét tiêu biểu của từng dân tộc thể hiện trong
văn hoá là rất quan trọng vì qua đó chúng ta có cơ sở để nhận diện các dân tộc
một cách rõ ràng hơn. Trên cơ sở định hướng quan trọng này, trong những
năm qua việc nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn các giá trị truyền thống của các
dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc nói chung và đồng bào dân tộc Sán Dìu nói
riêng được quan tâm, đầu tư, triển khai, nghiên cứu, bước đầu đã thu được
những kết quả như: công trình nghiên cứu về văn hoá vật thể (nhà ở, sinh
hoạt, trang phục truyền thống, các di tích lịch sử văn hoá…) và phi vật thể
(hát soọng cô…).
Xuất phát là người con được sinh ra trên quê hương là nơi có số lượng
người Sán Dìu khá đông đảo, được sống trong môi trường và thưởng thức câu
hát Soọng cô, nghe lời cúng khấn tổ tiên, cúng thần linh trong các ngày lễ tết,
nghe câu văn than trong các dịp tang lễ, tham dự các lễ hội dân gian, vui chơi
các trò chơi dân gian cùng các bạn trẻ…thấy được những nét tiêu biểu mang
đậm bản chất văn hoá người Sán Dìu. Do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Nét

đẹp văn hoá dân tộc Sán Dìu ở Vinh Phúc” làm đề tài báo cáo thực tập tốt
nghiệp của mình. Đồng thời đó còn là cơ sở quan trọng để giúp tôi tiếp cận và
tìm hiểu những nét đẹp văn hoá của các dân tộc khác nhằm phục vụ cho công
việc nghiên cứu văn hoá của tôi sau này.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

11

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

2. Lịch sử vấn đề.
Như chúng ta đã biết, dân tộc Sán Dìu ở nước ta có 126.237 người (1999).
Đã có rất nhiều cuốn sách, công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí nói về
người Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và ở một số địa phương khác nói riêng.
Đó là:
“Người Sán Dìu ở Việt Nam” (1983) của Ma Khánh Bằng.
“Phong tục và nghi lễ chu kì đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam”
(2005) của Diệp Trung Bình.
Và trong một số cuốn sách khác có đề cập đến người Sán Dìu ở tỉnh Quảng
Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã góp phần khắc hoạ rõ nét và
sinh động về những nét đẹp văn hoá của dân tộc Sán Dìu nói chung. Tuy

nhiên, những công trình này chỉ dừng lại ở mức khái quát nhất về dân tộc Sán
Dìu trên cả nước mà chưa nêu chi tiết về nét đẹp văn hoá của đồng bào trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Bởi vậy, người viết tiếp tục kế thừa những thành tựu
của những người đi trước, tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu hoàn thiện đề tài
“Nét đẹp văn hoá dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc”.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Tìm hiểu nghiên cứu về những nét đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc Sán
Dìu ở Vĩnh Phúc được thể hiện trong đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán,
văn hoá truyền thống, trang phục truyền thống và văn hoá ẩm thực để thấy
được thực trạng của những nét đẹp văn hoá ấy. Đồng thời nêu được vị trí
quan trọng của văn hoá dân tộc Sán Dìu trong tổng thể đời sống văn hoá ở
Vĩnh Phúc, những mặt tích cực, hạn chế và đưa ra giải pháp.
4. Mục tiêu nghiên cứu.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

12

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

Phân tích, đánh giá những nét đẹp văn hoá ấy trong những năm qua với
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Từ đó rút ra những thuận
lợi và khó khăn để đề xuất giải pháp để giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hoá

dân tộc Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
5. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là dân tọc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc mà cụ
thể là các vấn đề liên quan tới đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán, văn hoá
truyền thống, trang phục truyền thống và văn hoá ẩm thực…để thấy được
những nét đẹp văn hoá riêng của dân tộc này.
6. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi không gian là: Dân tộc Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu tài liệu về những nét đẹp văn hoá của dân tộc
Sán Dìu ở Vĩnh Phúc trong những năm gần đây. Từ đó đưa ra những dự kiến,
định hướng bảo vệ những nét đẹp văn hoá ấy trong những năm tới.
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.a. Phương pháp thu thập và xử lí thông tin.
Nghiên cứu đề tài qua việc thu thập các tài liệu sẵn có: thông qua các
tài liệu, văn bản, sách báo, tạp chí, báo cáo, website và tư liệu do địa phương
cung cấp có liên quan tới đề tài.
7.b. Phương pháp khảo sát thực địa.
Thông qua việc tham quan trực tiếp những nét đẹp văn hoá, trực tiếp
tim hiểu nếp sống và sinh hoạt của dân tộc Sán Dìu, phỏng vấn trực tiếp
người dân bản địa và những nghệ nhân, già làng tiêu biểu.
7.c. Phương pháp thống kê.
Là phương pháp nhằm tổng hợp các số liệu của các đối tượng để tiến
hành phân tích, so sánh, đánh giá nhằm làm rõ những vấn đề thuộc bản chất

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

13

Líp: K34E



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

của đối tượng nghiên cứu. Đồng thời thông qua các số liệu thống kê, ta có thể
thấy được tính quy luật đúng đắn của hiện tượng và rút ra nhận xét, kết luận
đúng đắn.
7.d. Phương pháp phỏng vấn.
Là phương pháp đưa ra những câu hỏi với người dân địa phương…để
thu thập thông tin. Thực chất phỏng vấn tựa như quan sát gián tiếp bằng cách
“nhờ người khác quan sát hộ”, sau đó hỏi lại kết quả quan sát của họ. Trong
phỏng vấn, chúng ta cần phải chọn người đối thoại, đó có thể là người rất am
hiểu, ít am hiểu, họ có thể cho ý kiến về những khía cạnh khác nhau.
7.e. Phương pháp so sánh.
So sánh dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc với dân tộc Sán Dìu ở một số địa
phương khác như người Sán Dìu ở Bắc Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh…
để thấy được nét đặc trưng tiêu biểu của người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc.
8. Bố cục.
Ngoài phần mở đầu và kết kuận, báo cáo thực tập gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu nét đẹp văn hoá dân tộc Sán Dìu
ở Vĩnh Phúc.
Chương 2: Nét đẹp văn hoá dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc.
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hoá dân tộc Sán Dìu ở
Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU NÉT ĐẸP

VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở VĨNH PHÚC

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

14

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

1.1. Khái niệm văn hoá.
Văn hoá là một thuật ngữ xuất hiện sớm và mang nhiều ý nghĩa. Có
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá bởi nó mang ý nghĩa rộng vừa mang ý
nghĩa hẹp. Vì vậy xuất phát từ những góc nhìn khác nhau để đưa ra những
định nghĩa, khái niệm khác nhau.
Xét trên bình diện ngôn ngữ, văn hoá bắt nguồn từ tiếng Latinh là: Culture
nghĩa gốc là trồng trọt, vun trồng. Sau này nó mở rộng ra các nghĩa: cư trú,
luyện tập, nuôi dưỡng, từ đó tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga cũng sử dụng ở
góc độ khoa học.
Nghĩa ban đầu của từ văn hoá trong tiếng Hán có nghĩa gốc là xăm thân
để con người bảo vệ mình trước các loài thuỷ quoái, không để chúng tấn
công; làm đẹp mình trước tự nhiên và đồng loại. Sau này từ “văn hoá” được
hiểu rộng hơn, đó là dáng vẻ bên ngoài của sự vật, vẻ đẹp bên ngoài và còn
biểu hiện cái đẹp của ngôn ngữ thông qua văn chương, học vấn và trí tuệ. Từ
“hoá” cũng có nhiều nghhĩa là thay đổi, biến đổi. Do đó “văn hoá” là toàn bộ

những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên và xã hội.
Khái niệm văn hoá là cách nói khác với thuật ngữ văn hoá. Chúng ta có
thể khẳng định văn hoá là một khái niệm khoa học dùng để mô tả các quan hệ,
các quá trình, các tương tác văn hoá. Cách tiếp cận về giá trị học về văn hoá,
ngoài việc mô tả các giá trị vật chất và tinh thần còn luận chứng về các giá trị
phổ quát trong văn hoá.
Văn hoá là một khái niệm mang nội hàm với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần. Một số khái niệm
văn hoá hay được nhắc đến nhiều nhất đó là:

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

15

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

Định nghĩa văn hoá của UNESCO theo nghĩa rộng thì văn hoá là phúc
thể_tổng thể các đặc trưng diện mạo về vật chất và tinh thần, tri thức, tình
cảm…khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng, vùng miền, quốc gia, dân tộc.
Định nghĩa về văn hoá của UNESCO theo nghĩa hẹp thì văn hoá là một
tổng thể những hệ thống biểu trưng (kí hiệu) chi phối cách ứng xử và giao
tiếp trong một cộng đồng khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Văn hoá
bao gồm hệ thống những giá trị để xem xét, đánh giá một sự kiện, một hiện

tượng theo cộng đồng ấy.
Văn hoá là tổng thể hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn qua mối quan
hệ tương tác giữa con người với tự nhiên, con người với xã hội và con người
với chính bản thân mình.
Văn hoá là cách tác động, tiếp cận, cách cấy vào ba thế giới:Thế giới tự
nhiên xung quanh con người để biến nó phục vụ đời sống, vào xã hội mà con
người sẽ tổ chức nó để chinh phục tự nhiên, vào đời sống tâm linh của mình
để hiểu mình là ai trong thế giới. Mỗi xã hội không hề giống nhau trong các
kiểu tác động đó.Vì thế có thể nói đến văn hoá là nói đến văn hoá của từng xã
hội cụ thể, từng tộc người cụ thể. Và vì thể mà nền văn hoá đều có tính duy lí
tương đối của nó trong phạm vi xã hội ấy trong không gian và thời gian cụ thể
ấy.
Chúng ta có thể khẳng định văn hoá là vấn đề mang tính toàn cầu. Văn
hoá không chỉ mang tính lịch sử mà còn mang tính động, luôn luôn phát triển
cùng thời đại. Chúng ta không thể luận giải hết nội hàm của khái niệm văn
hoá nếu tách nó ra sự vận động của thời đại, đặc biệt là thời đại ngày nay khi
văn hoá được sản sinh không ngừng bởi các sáng tạo của con người và cũng

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

16

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện


Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

không ngừng xảy ra những va chạm giữa các xu hướng, khuynh hướng văn
hoá khác nhau.
1.2. Khái niệm văn hoá truyền thống.
Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đều có những văn hoá
truyền thống đặc trưng riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết
tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để
tạo nên bản sắc riêng của một dân tộc. Giá trị văn hoá truyền thống đó được
truyền lại cho thế hệ sau và trở thành một động lực nội sinh để phát triển đất
nước.
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “Giá trị truyền thống được hiểu là
những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí không
phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị, mà phải là cái tốt cơ bản, phổ
biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định,
đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa
của khái niệm giá trị truyền thống.”
Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng: Truyền thống văn hoá là những giá
trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn
mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và
được cố định hoá dưới dạng phong tục tập quán, lễ nghi, luật pháp, dư luận.
Một khái niệm khác, nền văn hóa được truyền lại gọi là truyền thống văn hoá.
Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu của con người, tích tập được
trong quá trình tìm hiểu, thể hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc
sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hoà của nó như là một hiện
thân của trí tuệ.
Theo Giáo sư Trần Nguyên Việt thì theo đó, có thể coi truyền thống là
một bộ phận tương đối ổn định của ý thức xã hội, được lặp đi lặp lại trong

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh


17

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

suốt tiến trình hình thành và phát triển của các nền văn hoá tinh thần và vật
chất, là một giá trị nhất định đối với từng nhóm người, từng giai cấp, cộng
đồng và xã hội nói chung.
Vì vậy khi nói tới văn hoá truyền thống là nói đến những truyền thống
đã được lịch sử đánh giá khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng
đồng trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Đồng thời khi xem xét đánh giá
truyền thống và các giá trị văn hoá truyền thống cần phải có quan điểm biện
chứng, quan điểm lịch sử cụ thể, nghĩa là phải đặt chúng trong những điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định của cả quá khứ và hiện tại.
1.3. Khái niệm phong tục tập quán.
Phong tục tập quán là những nếp sống do những người sống trong xã
hội tự đặt ra, nó được áp dụng vào đời sống và phục vụ con người nhưng
không mang tính chất vi phạm pháp luật. Phong tục cũng dần dần thay đổi
khác đi để phù hợp với đời sống hiện tại của từng thời kì. Toàn bộ những hoạt
động sống của con người đã được hình thành trong tiến trình lịch sử và ổn
định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất trong
cộng đồng.

Phong tục không mang tính cố định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức,
tuy nhiên nó cũng không tuỳ tiện, nhất thời như hoạt động sống thường ngày.
Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững. Phong tục của một dân
tộc, một địa phương, một tầng lớp xã hội, thậm chí một dòng họ và gia tộc
thực hiện qua nhiều chu kì khác nhau của đời sống con người. Hệ thống
phong tục bao gồm các phong tục liên quan tới vòng đời của con người như
phong tục sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ, tang ma, cúng giỗ…hay
các phong tục liên quan tới các hoạt động sống của con người theo chu kì thời

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

18

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

tiết trong năm như lễ tết, lễ hội…hay các hoạt động từ gieo hạt đến thu hoạch,
đánh bắt…
Phong tục là một bộ phận của văn hoá có vai trò quan trọng trong việc
hình thành truyền thống của một dân tộc, địa phương. Nó ảnh hưởng thậm chí
chế định những ứng xử cá nhân trong cộng đồng. Phong tục được tuân thủ
theo quy định của luật tục hoặc hương ước, người vi phạm có thể bị phạt vạ.
Cùng với sự phát triển của xã hội, một số phong tục không còn phù hợp với
thời đại mới bị đào thải, trong khi một số phong tục mới được hình thành.

Tập quán là phương thức ứng xử và hoạt động đã định hình quen thuộc
và đã thành nếp sống trong đời sống, trong cộng đồng. Tập quán gần gũi với
thói quen ở chỗ nó mang tính tĩnh tại, bền lâu, khó thay đổi. Trong những tình
huống nhất định, tập quán biểu hiện như một hành vi mang tính tự động hoá.
Tập quán hay xã hội định hình một cách tự phát hoặc hình thành ổn định
thông qua sự rèn luyện và là kết quả của quá trình giáo dục có định hướng rõ
rệt.
Phong là nề nếp đã được lan truyền rộng rãi, tục là thói quen lâu đời.
Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội. Tập quán là làm nhiều
thành quen. Như vậy phong tục tập quán là những thói quen được đưa và nếp
sống thường ngày, mỗi dân tộc đều có những thói quen cá biệt ban đầu về sau
do sự tiếp xúc với nhau nên có những ảnh hưởng, bắt chước và có những cái
giống nhau.
1.4. Khái niệm ẩm thực.
Theo từ điển thông dụng thì ẩm thực chính là ăn uống, là hoạt động
cung cấp năng lượng cho con người sống và hoạt động. Chính vì vậy, nói đến
ẩm thực là nói đến việc ăn uống và các món ăn cùng với nguồn gốc và lịch sử
của nó.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

19

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện


Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

Theo nghĩa rộng, văn hoá ẩm thực là một phần văn hoá nằm trong tổng
thể, phức thể của các đặc trưng, diện mạo về vật chất và tinh thần, tri thức,
tình cảm…khắc hoạ mội số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình,
làng xóm, vùng miền, quốc gia. Nó chi phối một phần không nhỏ trong cách
ứng xử, giao tiếp trong ăn uống và nghệ thuật chế biến thức ăn, ý nghĩa, biểu
tượng tâm linh trong món ăn đó.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá ẩm thực là những tập quán và khẩu vị của con
nguời, những ứng xử của con người trong ăn uống, những tập tục kiêng kị
trong ăn uống, những phương thức chế biến, bày biện trong ăn uống và cách
thưởng thức món ăn…Hiểu và sử dụng đúng các món ăn sao cho có lợi cho
sức khoẻ nhất cho gia đình và bản thân.

CHƯƠNG 2

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

20

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

NÉT ĐẸP VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở VĨNH PHÚC


2.1. Khái quát về dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc.
2.1.1. Tên gọi.
Người Sán Dìu cư trú ven triền núi thấp, trên các gò đồi ven núi. Họ
sống chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Từ lâu, ngưòi Sán Dìu có tên tự nhận là “Slan Deo Nhín” và theo âm Hán
Việt thì “Slan Deo Nhín” có nghĩa là Sơn Dao Nhân tức là người Dao trên
núi. Tuy vậy, các tộc người xung quanh lại gọi người Sán Dìu với nhiều tên
gọi khác nhau chủ yếu là dựa vào đặc điểm canh tác hay đặc điểm y phục
như: Trại Đất (người Trại ở nhà đất) để phân biệt với Trại Cao tức người Cao
Lan (ở nhà sàn), Trại Ruộng, Mán quần cộc…
Trong tác phẩm “Kiến văn tiểu lục” của nhà bác học Lê Quý Đôn
(1723_1782) có nói nhiều đến các tộc người phía Bắc, riêng ở khu Tuyên
Quang (giáp Vĩnh Phúc hiện nay) là một địa bàn có nhiều người Sán Dìu cư
trú, có tới “Bảy chủng tộc người Man” là Sơn Trang, Sơn Tử, Cao Lan, Sơn
Man, Sơn Bán, Sơn Miêu, Hờn Ban…trong bảy tên Man được Lê Quý Đôn
nhắc tới thì tên Man đáng được chúng ta lưu ý và phán đoán vì không riêng gì
người Dao mới gọi là Man. Có điều, khẳng định là tất cả các nhóm Dao ở
nước ta đều có tên là Man hay Mán, từ đó chúng ta có thể nghĩ rằng Man
chính là Dao, Sơn Man chính là Sơn Dao hay cũng chính là Sán Dìu vì theo
các nhà dân tộc học thì người Sán Dìu đã định cư ở Việt Nam khoảng 300
năm nay.
Theo tác giả Bùi Đình trong một công trình “Tìm hiểu đồng bào miền
núi Việt Nam” (HN, 1980), có viết “Mán quần cộ còn có tên là Sơn Dao, họ

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

21

Líp: K34E



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

sống rải rác khắp vùng đồng bằng ven biển Móng Cái, Đầm Hà, Hà Cối,
Quảng Yên (Quảng Ninh), phủ Lạng Thương, Thái Nguyên, Vĩnh Yên, Tuyên
Quang…Lác đác ngoài hải đảo trong Vịnh Hạ Long như Cái Bào, Cái Lân
nhóm ở ngoài duyên hải như Đầm Hà, Hà Cối, Quảng Yên…phong tục của
họ đều theo người Kinh nhưng trong các phủ Lạng Thương, Thái
Nguyên,Tuyên Quang, Vĩnh Yên vẫn còn giữ được tính cách Mán. Cách ăn
mặc của họ không khác gì người Kinh nhưng khi đi làm ruộng hay đi rừng,
đàn ông thường mặc áo cánh ngắn tay và quần đùi, nên người ta gọi là Mán
quần cộc; đàn bà mặc áo chàm dài, váy ngắn, chân quấn xà cạp và nhuộm
răng đen. Người Mán quần cộc chỉ chuyên về nông nghiệp, không có công
nghệ gì khác.”
Đến đầu năm 1960, tổng cục thống kê Trung ương mới khẳng định tên
Sán Dìu và từ đó về sau Sán Dìu thành tên gọi chính thức được ghi trong các
văn bản của Nhà nước, đến nay dân tộc Sán Dìu là một trong 54 dân tộc ở
Việt Nam.
2.1.2. Dân số và địa bàn cư trú
Theo số liệu Ban dân tộc tỉnh Vĩnh phúc tập hợp báo cáo của các
huyện, thị xã đến năm 2007, người Sán Dìu đã là một trong các thành phần
dân tộc thiểu số đang sinh sống tại tỉnh Vĩnh Phúc với 8.412 hộ và 39.539
khẩu, là dân tộc thiểu số đông nhất, chiếm 91,82% dân số dân tộc thiểu số
toàn tỉnh. Người Sán Dìu sống tập trung ở các làng bản thuộc các huyện Lập
Thạch, Tam Đảo, Bình Xuyên và xã Ngọc Thanh của thị xã Phúc Yên.

Đây là một vùng đất có vị trí quan trọng đặc biệt về quân sự, quốc
phòng và an ninh quốc gia. Các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm của
cha ông ta trước đây đều phải dựa vào vùng bán sơn địa, vùng núi hiểm trở
này để lập vùng căn cứ. Về tiềm năng phát triển kinh tế nông_lâm nghiệp, đây

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

22

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

cũng là vùng đất quan trọng có nhiều tài nguyên tự nhiên đặc biệt như nguồn
nước, nông lâm sản, động vật quý hiếm. Ngoài ra đây còn là vùng có tiềm
năng lớn phát triển về du lịch, điều dưỡng, hội thảo và du lịch tâm linh.
2.1.3. Cấu trúc làng bản và nhà ở.
Người Sán Dìu thường sống thành từng làng xóm nhỏ (khoảng 30_40
nóc nhà), làng to có khi tới 300_400 hộ (xã Minh Quang, xã Đạo Trù_huyện
Tam Đảo). Làng (son) được thiết lập dưới những chân núi thấp, trên đồi, nhà
dựa lưng vào đồi, nhìn ra những cánh đồng màu mỡ hoặc những nơi gần
ruộng, gần nguồn nước, thuận tiện cho sinh hoạt và sản xuất. Điều đặc biệt là
người Sán Dìu sống định cư lâu đời, không có tập quán du canh,du cư như
một số dân tộc khác.
Nhà xưa nhất của người Sán Dìu, theo ghi chép của ông Bônipaxi vào

đầu thế kỉ XX như sau: “Nhà được cất trên mặt đất, khung nhà bằng gỗ, tường
và liếp tre đan, ít khi làm bằng đất ép, mái bằng rơm rạ, nhà chính thường có
hai gian nhô ra, một hàng hiên gian nhà chính chạy dài giữa hai gian nhô ra
này. Trong gian nhô ra, bên có buồng của ông chủ nhà,bên trái là bếp. Hai
gian này chiếm hết bề rộng của nhà, nhưng gian chính được cắt theo chiều dài
bằng một tấm liếp, như vậy người ta tạo ra một thứ hành lang và người ta đi
bằng lối bếp vào phòng của ông chủ gia đình. Hành lang này được ngăn cho
tới khoảng giữa của bề rộng thành những ngăn buồng nhỏ để các con trai, con
gái, con dâu, đầy tớ nằm.
2.1.4. Quan hệ gia đình và hôn nhân.
Về quan hệ gia đình, từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 ở vùng
người Sán Dìu do chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển mạnh nên không còn
hiện tượng gia đình lớn kiểu tứ đại đồng đường hay ngũ đại đồng đường cùng
sinh sống mà đã chuyển sang gia đình phụ quyền. Trong nhà, người chồng

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

23

Líp: K34E


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

(cha) là chủ gia đình, con theo họ cha, con trai được thừa hưởng tài sản. Cha
mẹ quyết định cưới gả cho con. Con trai, con gái phải được xem lá số, so tuổi

trước khi nên duyên vợ chồng. Vì vậy, người cha đứng đầu và có trách nhiệm
điều hành mọi công việc về đối nội và đối ngoại (từ việc làm ăn. Lo toan
trong các việc cưới xin, ma chay, cúng bái, lễ tết cho đến việc đối nhân xử thế
với làng xóm, dòng tộc). Còn mẹ là người giúp việc đắc lực của cha và là
người có trách nhiệm chính trong việc lo toan những việc sinh con, nội trợ,
lợn gà…
Đối với người Sán Dìu, khi con trai lớn lên, trưởng thành lấy vợ thì bố
mẹ cho ra ở riêng ngay, nếu gia đình có nhiều con trai khi lấy vợ cha cho cặp
vợ chồng anh cả ra ở riêng trước để làm gương cho các em sau. Để chuẩn bị
cho con cái đến tuổi trưởng thành lấy vợ, lấy chồng và ra ở riêng bố mẹ cho
phép con cái có quyền gây vốn riêng. Nguồn vốn ấy có được nhiều hay ít do
sự cần cù chịu khó và quyết tâm làm ăn của mỗi người, sự phân công lao
động trong gia đình người Sán Dìu rất rõ ràng.
Trong gia đình truyền thống của người Sán Dìu, bố mẹ con cái ít to
tiếng với nhau, đứa trẻ khi sinh ra được bố mẹ chăm nom chu đáo, hết cữ
người ta đặt tên cho đứa trẻ. Thông thường tinh thần gia tộc của người Sán
Dìu rất mạnh mẽ do vậy ở nhiều xóm làng, toàn bộ dân cư ở đó đều là anh em
họ hàng với nhau hay ít nhất cũng là những người có quan hệ về hôn nhân.
Về quan hệ hôn nhân, chúng ta thấy hôn nhân của người Sán Dìu là chế
độ hôn nhân tiến bộ (một vợ một chồng), tuy nhiên trước cách mạng tháng
tám năm 1945 còn nặng tính chất cưới xin lạc hậu. Nhà trai phải bỏ ra một số
tiền và hiện vật như thịt lợn, gạo, đồ nữ trang cho nhà gái, thực chất là trao
đổi mua bán người con gái. Hai bên nhà trai và nhà gái có sự thoả thuận công
khai về tiền, bạc trắng và số lễ đem sang nhà gái.

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

24

Líp: K34E



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Phòng văn hoá và thông tin huyện

Bình Xuyên_tỉnh Vĩnh Phúc.

Việc hôn nhân chủ yếu do hai bên cha mẹ quyết định, căn cứ và cái gọi
là “Môn đăng hộ đối”, nghĩa là căn cứ vào tài sản và địa vị xã hội của hai bên
gia đình có tương xứng hay không nhưng quan trọng nhất là “lá số” của đôi
trai gái phải phù hợp. Nếu hai bên họ hàng, cha mẹ đồng ý mà thầy mo sau
khi tra cứu sách bói cho biết “lá số” của đôi trai gái không hợp nhau, nghĩa là
xung khắc thì cuộc hôn nhân không thể tiến hành.
Trong quan hệ hôn nhâncủa người Sán Dìu, nguyên tắc là người cùng
dòng họ (cùng huyết thống) không được lấy nhau, nhất là trong cung một hệ
thống tên đệm. Nếu cùng một dòng họ mà khác chi muốn lấy nhau, nhất thiết
đôi trai gái phải làm lễ tạ tổ tiên. Điều đặc biệt là người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc
không có hình thức “Hôn nhân thế tục” nghĩa là vợ chết, người đàn ông có thể
lấy chị hoặc em gái vợ làm vợ kế, hay khi chồng chết, người đàn bà có thể lấy
anh trai hoặc em trai của người chồng quá cố làm chồng mới. Đây được coi là
vi phạm tục lệ dân tộc.
2.1.5. Quan hệ xã hội.
Trong quan hệ xã hội và sinh hoạt giũa các thành viên trong làng xã,
người Sán Dìu lấy tình đoàn kết tương thân, tương ái làm gốc, họ dễ xoá bỏ
những hiềm khích, chính vì vậy từ trước tới nay người Sán Dìu ít có những vụ
kiện tụng ra công đường. Trong cộng đồng bản làng ấy mọi người sống với
nhau đoàn kết, gán bó trong tình yêu thương, chung lưng đấu cật, đùm bọc
như anh em ruột thịt. Điều này được thể hiện rất rõ trong các phong tục tập
quán của người Sán Dìu như dựng nhà mới, cưới xin, ma chay…

Khi một gia đình trong bản có ý định làm ngôi nhà mới chỉ cần họ đến
báo với bà con dân bản thì mọi người trong bản sẵn sàng giúp đỡ. Họ tự lo đồ
ăn thức uống rồi cùng chủ nhà vào rừng chặt cây lấy gỗ…Làm xong những
công việc ấy, họ lại tự về nhà mình để ăn uống mà không làm phiền tới gia

NguyÔn ThÞ DiÖu Linh

25

Líp: K34E


×