Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận nghiệp vụ quản lý ngoại hối của ngân hàng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.12 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


ĐỀ TÀI 5 PHẦN 1 :
NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Nhóm 9 :
STT

Họ và tên

1

Thái Thị Trang

2

Nguyễn Thị Đồng Diễm

3

Nguyễn Thị Kim Ngân

4

Nguyễn Thị Thơm

5

Huỳnh Thị Ngọc Hồng


6

Kiều Thị Cẩm Vân

Công việc phụ trách
Những vấn đề chung: word +
slide
Trưởng nhóm: phân công, tổng
hợp, thuyết trình
Những vấn đề chung: word +
slide
Chính sách quản lý ngoại hối
trung quốc: word + slide + thuyết
trình
Chính sách quản lý ngoại hối:
slide + word + thuyết trình
Chính sách quản lý ngoại hối:
slide + word

Tỷ lệ hoàn
thành
100%
100%
100%
100%
100%
100%


BÁO CÁO KẾT QUẢ CÔNG VIỆC

STT

Họ và tên

1

Thái Thị Trang

2

Nguyễn Thị Đồng Diễm

3

Nguyễn Thị Kim Ngân

4

Nguyễn Thị Thơm

5

Huỳnh Thị Ngọc Hồng

6

Kiều Thị Cẩm Vân

Công việc phụ trách
Những vấn đề chung: word +

slide
Trưởng nhóm: phân công,
tổng hợp, thuyết trình
Những vấn đề chung: word +
slide
Chính sách quản lý ngoại hối
trung quốc: word + slide
Chính sách quản lý ngoại hối:
slide + word+ thuyết trình
Chính sách quản lý ngoại hối:
slide + word

Tỷ lệ hoàn
thành
100%
100%
100%
100%
100%
100%

Ký tên


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính quốc tế ngày một trở nên mang tính toàn cầu hoá cao độ, sự xoá
bỏ dần các hạn chế về ngoại hối kéo theo sự chu chuyển các luồng ngoại tệ ngày càng gia

tăng không chỉ về số lượng, tốc độ mà còn cả chiều rộng và chiều sâu. Những biến động về
lãi suất và tỷ giá ngày càng lớn và khó có thể dự liệu trước. Trong bối cảnh đó, việc NHTW
duy trì và quản lý một cách tích cực cũng như tăng cường đa dạng hoá dự trữ ngoại hối đã
trở thành vấn đề nóng. Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó. Vấn đề quản lý ngoại hối,
giữ vững giá trị đồng tiền luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Trong những năm qua, quá trình đổi về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái
đã được những kết quả nhất định góp phần ổn định giá trị đồng tiền, cải thiện các cân thanh
toán, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Để đạt được những kết quả trên một loạt các chính
sách, quy định về quản lý ngoại hối và các hoạt động liên quan đến ngoại hối đã được ban
hành và ngày càng hoàn thiện theo hướng tạo một cơ chế quản lý ngoại hối năng động phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hỗ trợ thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ,
tạo tiền đề để thực hiện mục tiêu trên đất nước Việt Nam chỉ lưu hành đồng Việt Nam và
hướng tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Việc điều hành tỷ giá cũng
được thực hiện một cách ngày càng linh hoạt góp phần thúc đẩy xuất khẩu, thu hút vốn
nước ngoài, hạn chế ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực. Trong khuôn khổ tiểu luận
này, nhóm trình bày những kinh nghiệm quản lý ngoại hối ở Trung Quốc.

4


I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGOẠI HỐI VÀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI

1.1. Khái niệm ngoại hối
Ngoại hối là một thuật ngữ dùng để chỉ các phương tiện sử dụng trong giao dịch
quốc tế (International transaction) bao gồm:
- Ngoại tệ (Foreign Currency): Ngoại tệ là đồng tiền nước ngoài hoặc đồng tiền chung
của một nhóm nước.
- Công cụ thanh toán bằng ngoại tệ: đây là công cụ thanh toán được ghi bằng tiền nước
ngoài như: séc (cheque), phối phiếu (Bill of Exchange), lệnh phiếu (promissory Note), thẻ
ngân hàng (Card Bank), giấy chuyển ngân (Transfer).

- Các loại chứng từ có giá bằng ngoại tệ: như trái phiếu chính phủ (Government Bonds),
trái phiếu công ty (Corporte Bonds), cổ phiếu (Stock).
- Vàng (Gold): bao gồm vàng thuộc dự trữ của nhà nước, vàng trên tài khoản nước ngoài
của người cư trú, vàng khối, vàng thỏi, vàng miếng.
- Đồng tiền quốc gia-bản tệ (Local Currency), đồng tiền quốc gia được xem là ngoại hối
nếu đồng tiền đó được sử dụng trong thành toán quốc tế, hoặc được chuyển vào chuyển ra
(xuất nhập khẩu) khỏi quốc gia.
Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng
thì bất cứ một quốc gia nào cũng không thể tự mình khép kín mọi hoạt động, cũng không
thể phát triển đất nước một cách đơn độc, riêng lẻ đặc biệt giai đoạn hiện nay, khi nền kinh
tế thị trường đang ngày một sôi động, luôn đòi hỏi sự hợp tác, liên minh giữa các quốc gia.
Do vậy việc dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa chiến lược
quan trọng, có dự trữ ngoại hối cần thiết tức là nhà nước đã nắm được trong tay một công cụ
quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Về nguồn gốc sâu xa, dự trữ ngoại hối chính là kết quả, là biểu hiện của sức mạnh của
tiềm lực kinh tế quốc gia. Dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng khả năng thanh toán
quốc tế, thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phất triển kinh tế và đời sống trong nước,mở
rộng hoạt động đầu tư, hợp tác kinh tế với các nước khác phục vụ mục tiêu chính sách kinh
tế mở.

5


Quỹ dự trữ ngoại hối bao gồm: Ngoại tệ mạnh, vàng và kim loại quý, dự trữ quỹ tiền
tệ quốc tế IMF, quyền rút vốn đặc biệt SDR và các tài sản tài chính có tính linh hoạt cao...
1.2. Hoạt động ngoại hối
Hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao dịch
vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch
vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.
Chủ thể: là người cư trú và người không cư trú, trực tiếp tham gia vào các giao dịch

vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
Đối tượng của hoạt động: là các loại ngoại hối được phép lưu thông trên lãnh thổ VN
và các dịch vụ về ngoại hối.
Theo nội dung và tính chất kinh tế, hoạt động ngoại hối gồm các giao dịch sau:
- Giao dịch vãng lai: Các giao dịch vãng lai bao gồm các khoản thanh toán và chuyển
tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương
mại và ngân hàng ngắn hạn; các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng...
- Giao dịch về vốn: là giao dịch chuyển vốn giữa người cư trú và người không cư trú.
Đây là giao dịch liên quan đến sự vận động của vốn – đó là các dòng vốn chảy vào, các
dòng vốn chảy ra khỏi quốc gia… Giao dịch về vốn gồm:
+ Các giao dịch về đầu tư trực tiếp: là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào VN vốn
ngoại tệ bằng tiền mặt hoặc các tài sản khác trị giá được bằng ngoại tệ nhằm thực hiện các
hoạt động đầu tư tại VN và trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư
với mục đích đầu tư. Nhà đầu tư cần phải mở tài khoản vốn đầu tư trực tiếp tại NHTM cổ
phần tại Việt Nam. Theo đó việc góp vốn đầu tư bằng tiền của nhà đầu tư nước ngoài và nhà
đầu tư Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được thực hiện
thông qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp. Nhà đầu tư nước
ngoài, nhà đầu tư Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được
thực hiện góp vốn đầu tư bằng ngoại tệ hoặc bằng đồng Việt Nam theo mức vốn đầu tư
tại Giấy chứng nhận đầu tư.
+ Các giao dịch về đầu tư gián tiếp: là hoạt động đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức
mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng
6


khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài. Việc đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài được thực hiện theo hai phương thức tự doanh và ủy thác dưới hai hình thức: i) trực
tiếp mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác ở nước ngoài; ii) đầu tư thông qua việc
mua, bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài, ủy thác đầu tư cho các định chế
tài chính trung gian khác ở nước ngoài. Tổ chức tự doanh phải mở một tài khoản vốn đầu tư

gián tiếp ra nước ngoài bằng ngoại tệ tại 01 (một) NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối tại Việt Nam để thực hiện các giao dịch thu, chi liên
quan đến hoạt động tự doanh đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Tổ chức nhận ủy thác phải mở
một tài khoản vốn nhận ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài bằng ngoại tệ tại một
NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối tại Việt
Nam để thực hiện các giao dịch thu, chi liên quan đến hoạt động nhận ủy thác đầu tư gián
tiếp ra nước ngoài (phải quản lý tách biệt số tiền nhận ủy thác đầu tư của từng nhà đầu tư,
quản lý tách biệt số tiền nhận ủy thác đầu tư của nhà đầu tư với số tiền tự doanh đầu tư gián
tiếp ra nước ngoài).
+ Vay và trả nợ nước ngoài: Người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân
phải tuân thủ các điều kiện vay, trả nợ nước ngoài, thực hiện đăng ký khoản vay, mở và sử
dụng tài khoản, rút vốn và chuyển tiền trả nợ, báo cáo tình hình thực hiện khoản vay theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác nhận
đăng ký khoản vay trong phạm vi tổng hạn mức vay vốn nước ngoài do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt hằng năm.
+ Cho vay và thu hồi nợ nước ngoài: cho vay và thu hồi nợ nước ngoài gọi chung là
giao dịch về tín dụng quốc tế. Các giao dịch này thực hiện với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế như (WB, IMF, ADB) với các tổ chức liên hiệp quốc (UNDF, FAO,…).
+ Phát hành chứng khoán trong và ngoài nước: Người cư trú là tổ chức phát hành
chứng khoán bên ngoài lãnh thổ Việt Nam khi được cơ quan chức năng cho phép và thực
hiện thông qua tài khoản mở tại TCTD được phép. Người không cư trú là tổ chức phát hành
chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam khi được cơ quan chức năng cho phép và thực hiện
thông qua tài khoản mở tại TCTD được phép.

7


+ Hoạt động khác: các giao dịch khác (ở trên lãnh thổ quốc gia) có liên quan đến ngoại
hối như mua bán ngoại tệ, kinh doanh vàng, kinh doanh ngoại tệ.
NHTW tham gia vào hoạt động mua, bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp,

giám sát, điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua, bán cuối cùng. Thông qua việc mua
bán, NHTW thực hiện giám sát và điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ,
đồng thời theo dõi diễn biến tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với
các NHTW các nước khác củng cố sức mua đồng tiền hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự
trong quan hệ quốc tế có lợi cho nước mình.
1.3. Quản lý ngoại hối
Quản lý ngoại hối là một nhiệm vụ quan trọng mà bất kỳ một chính phủ nào cũng phải
thực hiện. Hoạt động ngoại hối không những liên quan đến sự vận động của ngoại hối, làm
cho ngoại hối đi ra, đi vào một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến dự trữ quốc tế của quốc gia
đó, do đó quản lý ngoại hối là yêu cầu bắt buộc khi điều hành hoạt động kinh tế- xã hội của
một chính phủ. Đặc biệt trong thời đại phát triển mạnh, các quan hệ kinh tế, thời đại của sự
hội nhập và phát triển thì quản lý ngoại hối càng có ý nghĩa quan trọng.
Quản lý ngoại hối do NHTW của các nước thực hiện, ở một số nước, quản lý ngoại
hối do cơ quan chuyên trách thực hiện. tuy nhiên, do các giao dịch hối đoái phần lớn đều
phải thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng, nên việc quản lý ngoại hối ở các nước đều do
NHTW đảm nhiệm và đạt hiệu quả tốt hơn.
II. CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
2.1. Khái niệm về chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối còn gọi là chính sách hối đoái (Exchange Policy), là tổng
hợp những thể chế về ngoại hối và các biện pháp có liên quan để quản lý và tác động
đến ngoại hối cũng như các hoạt động ngoại hối của một quốc gia, nhằm tạo sự cân đối, ổn
định để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Chính sách hối đoái thực chất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia
do đó chính sách hối đoái, không phải là một chính sách độc lập hoàn toàn, mà nó phụ thuộc
vào các bộ phận khác của chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2. Mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối
8


Tất cả mọi chính sách đều phải hướng đến mục tiêu cụ thể, không có mục tiêu sẽ mất

phương hướng hoạt động. Vậy mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối là gì?
- Mục tiêu cơ bản: Mục tiêu cơ bản của chính sách quản lý ngoại hối là giữ vững sự ổn
định, cân đối vĩ mô và thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Đây là mục tiêu cao nhất và
phải phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
- Mục tiêu cụ thể: Các mục tiêu cụ thể của chính sách quản lý ngoại hối gồm:
+ Ổn định tỷ giá, tạo điều kiện để thúc đầy ngoại thương và các quan hệ tài chính đối
ngoại phát triển có lợi cho đất nước. NHTW thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy tập
trung các nguồn ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) vào tay mình, để thông qua đó Nhà nước sử
dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối
ngoại. đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp tỷ giá
khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung
ứng.
+ Bảo toàn và tăng cường dự trữ ngoại hối nhà nước, đảm bảo khả năng thanh toán nợ
quốc tế và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu đột xuất khác. Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia,
NHTW phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ
mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không
bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Vì thế NHTW cần phải mua
bán chuyển đổi để phát triển chống thất thoát quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nước, bảo vệ độc
lập chủ quyền về tiền tệ.
+ Cải thiện cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc
tế của một nước với nước ngoài. Cán cân thanh toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng
cung cầu về ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của
đồng tiền. Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn
đến khả năng cung về ngoại tệ cao hơn nhu cầu, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu
hướng giảm. Ngược lại khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra
nước ngoài dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng, trường hợp này tỷ giá
vận động theo xu hướng tăng lên. Như vậy trong cả hai trường hợp nếu không có sự can
9



thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo cung cầu ngoại hối trên thị trường. Tuy
nhiên ở nhiều nước NHTW đóng vao trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mục tiêu của chính
sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ gia ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không
tăng, không giảm thì NHTW hoặc mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong
nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối tăng lên tương ứng hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để
đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại
hối giảm đi tương ứng.
+ Bảo vệ tính độc lập chủ quyền của đồng tiền quốc gia, từng bước nâng vị thế của đồng
tiền quốc gia trên thị trường quốc tế - tiến tới thực hiện chuyển đổi đồng Việt nam. Làm cho
hoạt động ngoại hối đi vào nề nếp ổn định, tuân thủ pháp luật để góp phần ổn định kinh tế xã hội.
2.3. Vai trò quản lý ngoại hối của NHTW
Là bộ máy chuyên quản của hoạt động quản lý ngoại hối, NHTW có nhiệm vụ trọng
yếu là hoạch định, điều hành, quản lý và giám sát chính sách tỷ giá, chính sách quản lý
ngoại hối nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, ổn
định tiền tệ, ổn định thị trường, giá cả, tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định
cuộc sống và trật tự xã hội. Thông qua hoạt động quản lý ngoại hối, NHTW cung cấp một
cách tốt nhất các điều kiện tiền tệ (mà cụ thể là ngoại hối) cho nền kinh tế, hay nói cách
khác là tăng tính hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ tiền tệ trên cả phương diện vĩ mô
và vi mô.
NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối để đạt các mục đích vĩ mô như kiềm chế
lạm phát và ổn định thị trường đồng thời theo đuổi các mục đích trực tiếp như tác động tỷ
giá, giảm thiểu biến động tỷ giá, tạo thanh khoản cho thị trường, và tác động dự trữ ngoại
hối.
2.4. Đối tượng quản lý ngoại hối
2.4.1 Người cư trú
Người cư trú là tổ chức hoặc cá nhân có trụ sở làm việc, sống và hoạt động lâu dài trên
lãnh thổ Việt Nam, gồm:

10



a. Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động kinh doanh tại Viêt Nam (gọ chung là tổ

chức tín dụng) gồm các Ngân hàng NHTM NN, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân.
b. Tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (gọi chung là tổ
chức kinh tế) gồm các DNNN, công ty cổ phần, DNTN, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, nhà thấu nước ngoài, chi nhánh công ty nước ngoài… hoạt động ở Việt nam.
c. Co quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt
Nam.
d. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam tại nước ngoài
e. Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các điểm a, b, c nói trên.
f. Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú tại nước ngoài có thời
hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định tại điểm d, e nói
trên và các cá nhân đi theo họ (vợ, chồng, con cái…)
g. Công dân Việt nam đi học tập, du lịch, chữa bệnh và thăm viếng nước ngoài.
h. Người nước ngoài cư trú tại Việt nam có thời hạn từ 12 tháng trở lên, trừ các trường hợp
người nước ngoài đi học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm việc cho các cơ quan đại diện
ngoại giao, lãnh sự, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt nam.
2.4.2. Người không cư trú
Người không cư trú là những tổ chức, cá nhân không phải là ngươi cư trú. Người
không cư trú về cơ bản không phải là đối tượng chịu sự quản lý ngoại hối của NHTW Việt
Nam, nếu họ không có hoạt động giao dịch nào liên quan đến Việt Nam. Như vậy, người
không cư trú, nếu có hoạt động liên quan đến các luồng vận động ngoại hối ra vào Việt nam
thì thuộc đối tượng quản lý ngoại hối của Việt Nam.
2.5. Chính sách quản lý ngoại hối của NHTW
2.5.1. Cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái
- Cơ chế tự do tỷ giá

Điều này có nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại
hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước, do vậy tỷ giá - giá cả
ngoại hối phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá thả nổi dẫn đến lãi suất,
luồng vốn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối.
11


- Cơ chế quản lý tỷ giá
 Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn

Theo cơ chế này nhà nước độc quyền ngoại thương và độc quyền ngoại hối. Nhà nước
thực hiện các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả hoạt động ngoại hối vào tay
mình. Tỷ giá do nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ
tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được nhà nước cấp
bù, ngược lại nếu lãi thì nộp cho nhà nước. Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế tập trung.
 Cơ chế quản lý tỷ giá có điều tiết

Cơ chế quản lý hoàn toàn, nhà nước có thể áp đặt khống chế được thị trường, ngăn
chặn ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong . Tuy nhiên,
trong nền kinh tế thị trường, cách quản lý này sẽ không phù hợp, cản trở và gây khó khăn
cho nền kinh tế. Để khắc phục sự áp đặt, nhà nước đã tiến hành điều tiết nhưng đã gắn với
thị trường, nhà nước tiến hành kiểm soát một mức độ nhất định để nhằm phát huy tính tích
cực của thị trường, hạn chế nhược điểm do thị trường gây ra, tạo điều kiện cho kinh tế trong
nước phát triển và ổn định ,ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài.
2.5.2. Hoạt động ngoại hối của NHTW
- Hoạt động mua bán ngoại hối
NHTW tham gia vào hoạt động mua, bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp,
giám sát, điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua, bán cuối cùng .Thông qua việc mua
bán, NHTW thực hiện giám sát và điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ,
đồng thời theo dõi diễn biến tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với

các NHTW các nước khác củng cố sức mua đồng tiền hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự
trong quan hệ quốc tế có lợi cho nước mình.
 Mua bán trên thị trường trong nước

NHTW tiến hành mua, bán với các NHTM tại hội sở chính của các ngân hàng này mà
không trực tiếp mua- bán với các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái do
NHTW công bố. Ở đây NHTW sử dụng một phần dự trữ để bán cho các NHTM và mua
ngoại tệ của các NHTM đưa vào dự trữ. Thông qua việc mua bán, NHTW thực hiện cung

12


ứng tiền tệ hoặc rút bớt khỏi lưu thông, trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng tiền
bản tệ.
Việc giao dịch, mua bán của NHTW với các NHTM trên thị trường hối đoái chủ yếu
được thực hiện thông qua hệ thống điện thoại, telex hoặc hệ thống computer có nối mạng
giữa NHTW với các NHTM. Ngoài ra NHTW cũng có thể hoạt động thông qua việc mua
bán trực tiếp với khách hàng không phải là doan nghiệp như các cơ quan hành chính hoặc
các tổ chức khác.
 Mua bán trên thị trường quốc tế

Với nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối NHTW thực hiện mua bán trên thị trường quốc
tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối. NHTW phải tính toán gửi ngoại hối ở
nước nào có lợi mà vẫn đảm bảo an toàn, nghiên cứu lãi suất thực tế và xu hướng tăng lên
của lãi suất ngoại tệ để kinh doanh có lãi. Qua mua, bán ngoại hối có chênh lệch giá thì
phần chênh lệch đó hình thành lợi nhuận của ngân hàng. NHTW thực hiện việc mua bán
ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền NHTW. Nghiệp vụ này ảnh hưởng đến dự trữ ngoại
hối,ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Như vậy NHTW thông qua mua bán ngoại tệ có thể can
thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn.
2.5.3. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW

NHTW thực hiện các hoạt động ngoại hối khác như
- Quản lý, điều hành thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, bằng cách
đưa các quy chế gia nhập thành viên, quy chế hoạt động, quy định giới hạn tỷ giá mua bán
ngoại tệ trên thị trường....
- Tham gia xây dựng các dự án pháp luật và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
luật về quản lý ngoại hối. NHTW được giao nhiệm vụ ban hành các thông tư hướng dẫn cụ
thể để phục vụ cho việc quản lý của mình được thống nhất.
- Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Dựa vào luật pháp và điều
kiện cụ thể trong từng thời gian, NHTW đưa ra các quy định cần thiết để cấp giấy phép cho
các đơn vị, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối.
- Kiểm tra giám sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối của các tổ chức tín dụng.
- Biên lập cán cân thanh toán.
13


III. Chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc
3.1. Quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước
3.1.1. Thực trạng dự trữ ngoại hối
Hiện nay, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đang là một vấn đề cả thế giới quan tâm
khi mà những con số thống kê mới đây đã cho thấy, lượng dự trữ ngoại hối của quốc gia này
đã lên tới trên 3000 tỷ USD, chiếm gần 30% lượng dự trữ ngoại hối toàn thế giới. Tháng
11/1996, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc lần đầu tiên đạt mức 100 tỷ USD, đến cuối năm
1997 là 140 tỷ USD, lúc này Trung Quốc mới nới lỏng chính sách kết hối ngoại tệ, cho phép
một số doanh nghiệp (Công ty xuất nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất có giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu) được giữ lại một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức tối đa không
quá 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm.
Sang năm 2001, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã lên đến 200 tỷ USD và liên tục
tăng trong các năm sau đó. Năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 286,4 tỷ
USD, chính sách kết hối ngoại tệ tiếp tục được nới lỏng, các công ty và doanh nghiệp được
giữ ngoại tệ trên tài khoản, mức tối đa không quá 20% tổng nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch

vãng lai.
Đến tháng 2/2006, lần đầu tiên Trung Quốc vượt Nhật Bản trở thành nước có số dự trữ
ngoại hối lớn nhất thế giới và đến tháng 10/2006 đã vượt qua mức 1000 tỷ USD. Năm 2007,
dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã tăng lên tới 1.528,249 tỷ USD. Ngày 13/8/2007 Cục Quản
lý ngoại hối ban hành cho phép các tổ chức kinh tế căn cứ nhu cầu sử dụng ngoại tệ phục vụ
cho sản xuất kinh doanh được quyền giữ lại số ngoại tệ từ giao dịch vãng lai trên tài khoản.
Đến cuối tháng 6/2009, đã phá vỡ mức 2000 tỷ USD, tháng 3/2011, đạt mức 3000 tỷ USD,
và đến hiện nay khoản dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã đạt đến con số khoảng 3.200 tỷ
USD. Như vậy trong vòng 20 năm, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã tăng lên hơn 30 lần
(và chiếm 30% dự trữ ngoại hối toàn thế giới).
Lượng dự trữ ngoại hối lớn một mặt giúp Trung Quốc dễ dàng kiểm soát thị trường
ngoại hối, điều hành chính sách tỷ giá và giúp quốc gia vượt qua khủng hoảng kinh tế,
nhưng mặt khác lại đưa quốc gia này đối mặt với những thách thức lớn.

14


Trong khi nhiều quốc gia chủ yếu mở rộng dự trữ ngoại khối bằng thặng dư từ kim
ngach xuất nhập khẩu thì Trung Quốc có nguồn cung cấp ngoại tệ khổng lồ từ cả cán cân
vãng lai và cán cân vốn. Đối với cán cân vãng lai, từ sau khi gia nhập WTO vào năm 2001,
hoạt động thương mại quốc tế của Trung Quốc tăng trưởng vô cùng nhanh chóng. Theo số
liệu thống kê hải quan từ công ty nghiên cứu Global Trade Information Services, hiện nay
Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu hàng hoá lớn nhất thế giới. Thặng dư từ cán cân thương
mại tạo nên nguồn thu ngoại tệ chủ yếu và ổn định nhất cho Trung Quốc. Đối với cán cân
vốn, Trung Quốc cũng nhận được những khoản đầu tư lớn từ nước ngoại nhờ tính hấp dẫn
của một thị trường lớn, đang phát triển bùng nổ. Theo số liệu từ Bộ Thương mại Trung
Quốc năm 2015, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước này đạt 126,3 tỷ USD tăng
6,4% so với năm trước, một con số tăng trưởng khả quan trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh
tế thế giới.
Vậy làm thế nào để quản lý hiệu quả lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ và gia tăng

nhanh chóng như vậy? Đây là một bài toán khó đặt ra cho các cơ quan quản lý ngoại hối của
Trung Quốc. Và Cục quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia chính là cơ quan chủ yếu đảm nhận
trọng trách nặng nề này. một quốc gia đang phát triển với tốc độ mở cửa và hội nhập kinh tế
thế giới rất nhanh chóng, liệu có thể học tập những gì từ Trung Quốc trong vấn đề xây dựng
và quản lý nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia.
3.1.2. Cách thức tổ chức quản lý
Cục Quản lý ngoại hối Trung Quốc, gọi tắt là SAFE (State Administration of Foreign
Exchange), là một cơ quan trực thuộc NHTW Trung Quốc. SAFE được thành lập vào năm
1995, dưới sự uỷ quyền của NHTW Trung Quốc, có nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối quốc
gia. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, đòi hỏi SAFE luôn luôn phải tuân thủ theo
những nguyên tắc cơ bản liên quan đến quản lý danh mục đầu tư như an toàn, thanh khoản
và khả năng sinh lời.
Trụ sở của SAFE được đặt tại Bắc Kinh, Trung Quốc, bao gồm 8 ban trực thuộc.
Trong số 8 bộ phận này, Ban Quản lý dự trữ chịu trách nhiệm chính về việc quản lý và đầu
tư dự trữ ngoại hối quốc gia. Bên cạnh đó, SAFE còn có 4 văn phòng ở nước ngoài bao gồm
Hồng Kông, Singapore, London và New York. Được biết đến nhiều nhất là văn phòng của
15


SAFE tại Hồng Kông, được thành lập vào năm 1997. Văn phòng này hoạt động dưới hình
thức một công ty độc lập với nhiều khoản đầu tư có lợi nhuận và rủi ro cao. Công ty đầu tư
của SAFE tại Hồng Kông có lẽ là một trường hợp ngoại lệ, bởi từ khi thành lập đến nay
chiến lược đầu tư của SAFE vẫn trung thành với hai nguyên tắc cơ bản là độ an toàn và tính
thanh khoản. Chính vì vậy, SAFE đang phải đối mặt với thách thức rất lớn khi phải quản lý
khối dự trữ khổng lồ và gia tăng không ngừng. Nếu cơ quan này tiếp tục đầu tư vào danh
mục trái phiếu chính phủ có độ an toàn cao thì lợi tức sinh lời rất thấp, thậm chí không đủ
bù đắp phần thua lỗ nếu có sự giảm giá đối với các đồng tiền trong rổ dự trữ.
Với mục đích nhằm quản lý hiệu quả hơn nguồn tài sản dự trữ, vào tháng 9 năm 2007,
Trung Quốc đã thành lập Tổng Công ty Đầu tư Trung Quốc (CIC) với số vốn ban đầu là 200
tỷ USD được lấy từ dự trữ ngoại hối. Sự ra đời của tập đoàn đầu tư này đã giúp lượng dự trữ

ngoại hối của Trung Quốc được đầu tư theo hướng linh hoạt hơn, theo đuổi những danh
mục tài sản có tính sinh lời cao.
3.1.3. Chiến lược đầu tư
Quan sát bảng 1 ta thấy danh mục tài sản dự trữ của Trung Quốc chủ yếu là các loại
ngoại tệ, chiếm đến 98% tổng giá trị. Lượng ngoại tệ này như đã đề cập ở trên, có nguồn thu
chủ yếu từ thặng dư cán cân thương mại và dòng vốn đầu tư từ nước ngoài vào Trung Quốc.
Khối ngoại tệ khổng lồ cũng đặt Trung Quốc trước mối lo về rủi ro tỷ giá. Bất cứ sự suy
giảm giá trị nào, dù là nhỏ, có liên quan đến đồng tiền trong cơ cấu dự trữ ngoại hối cũng sẽ
khiến Trung Quốc thua lỗ một khoản tiền lớn. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đặt ra là phải đa dạng
hoá rổ đồng tiền dự trữ. Theo số liệu ước tính, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc hiện nay có
khoảng 65% giá trị là USD, 25% giá trị là EUR, 10% giá trị còn lại là bảng Anh, yên Nhật
và một số đồng tiền khác.
Như vậy, 2/3 lượng tài sản dự trữ của Trung Quốc được đầu tư trên thị trường Mỹ.
Theo số liệu từ Bộ tài chính Hoa Kỳ (U.S. Department of Treasury), cho đến hết năm 2011,
Trung Quốc là quốc gia sở hữu lượng chứng khoán Mỹ lớn nhất thế giới với tổng giá trị lên
tới 1.727 tỷ USD.
Theo dõi cụ thể cơ cấu các loại chứng khoán Mỹ mà Trung Quốc nắm giữ, ta thấy loại
tài sản được ưa thích nhất vẫn là các loại chứng khoán ít rủi ro như trái phiếu kho bạc và trái
16


phiếu của các Tổ chức Chính phủ. Mặc dù vậy, Cơ quan Quản lý ngoại hối của Trung Quốc
ngày càng quan tâm hơn đến các loại tài sản có lợi tức sinh lời cao. Tính đến hết năm 2011,
số cổ phần mà Trung Quốc nắm giữ trên thị trường Hoa Kỳ đã lên tới 159 tỷ USD, chiếm
9,2% tổng giá trị chứng khoán Mỹ mà quốc gia này đang sở hữu. Mặt khác, chiến lược đầu
tư của Trung Quốc cũng ngày càng tập trung vào trái phiếu kho bạc và giảm thiểu việc nắm
giữ các chứng khoán nợ có độ rủi ro cao như trái phiếu của các công ty tư nhân và nợ ngắn
hạn. Đây được coi là biện pháp đồng thời để vừa tăng tính sinh lời vừa đảm bảo độ an toàn
cho dự trữ ngoại hối của Trung Quốc trước những biến động của khủng hoảng tài chính Mỹ.
Nếu như trước đây, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc chủ yếu bằng USD, thì hiện nay,

để tránh tổn thất do đồng USD mất giá và tránh bị phụ thuộc ngày càng nhiều vào kinh tế
Mỹ, Trung Quốc đã chuyển 25% dự trữ ngoại tệ sang đồng EUR. Trong bối cảnh khủng
hoảng nợ công Châu Âu, nếu EU sụp đổ thì Trung Quốc sẽ bị tổn thất rất lớn cả về thương
mại và tài chính, do EU cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Vì vậy, thời
gian gần đây, Trung Quốc đã có những cam kết sử dụng lượng dự trữ khổng lồ của mình để
cứu trợ EU.
“Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”- Khi các đồng tiền mạnh trên thế giới đều đứng trước nguy
cơ báo động trong cơn bão khủng hoảng thì cũng là lúc Trung Quốc phải chuyển hướng đầu
tư vào một loại tài sản khác, đó chính là vàng.
Danh sách 10 quốc gia, tổ chức có lượng dự trữ vàng nhiều nhất thế giới
Quốc gia/ tổ chức
1. Mỹ
2. Đức
3. IMF
4. Italy
5. Pháp
6. Trung Quốc
7. Thuỵ Sỹ
8. Nga
9. Nhật
10. Hà Lan

Khối lượng vàng (tấn)
8.133,5
3.396,3
2.814,1
2.451,8
2.435,4
1.054,1
1.040,1

883,3
765,2
612,5

17

Tỷ trọng vàng/ dự trữ ngoại hối (%)
74,5%
71,4%
_
71,0%
71,1%
1,6%
16,3%
9,1%
2,9%
59,8%


Nguồn: World Gold Council
Hiện nay Trung Quốc đang sở hữu lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, nhưng
khối lượng vàng mà nước này nắm giữ lại chỉ đứng thứ 6, xếp sau Mỹ, IMF và một số các
nước EU (bảng 3). Điểm đặc biệt là tỷ trọng vàng trong cơ cấu dự trữ ngoại hối của Trung
Quốc là vô cùng nhỏ, chưa đến 2% trên tổng giá trị dự trữ. Điều này khiến giá trị dự trữ
ngoại hối của quốc gia phụ thuộc rất lớn vào đồng tiền của các nước khác. Mới đây, ngày
12/03/2012, ông Y Gang, Phó Thống đốc NHTW kiêm Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối
Trung Quốc (SAFE) tuyên bố “Chúng tôi sẽ không bỏ trứng vào cùng một giỏ”. Trung
Quốc đang tiếp tục đa dạng hoá chiến lược đầu tư, chuyển đổi lượng dự trữ ngoại hối sang
vàng để bảo vệ mình trước những cú sốc từ hậu khủng hoảng kinh tế Mỹ, sự sụp đổ của
Lehman Brothers và khủng hoảng nợ tại Châu Âu.

Đi đôi với điều chỉnh chiến lược đầu tư, điều chỉnh quy mô dự trữ ngoại hối cũng đang
là một vấn đề khiến Chính phủ Trung Quốc đau đầu. Thông thường, dự trữ ngoại hối được
sử dụng với 3 mục đích cơ bản là phục vụ thanh toán quốc tế, trả nợ nước ngoài và can thiệp
thị trường để ổn định tỷ giá. Sự tăng lên nhanh chóng của dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã
khiến số tiền này vượt quá nhu cầu cần thiết và có thể gây phản tác dụng. Quy mô dự trữ
càng lớn thì chi phí cơ hội càng gia tăng và những rủi ro ngoại hối nghiêm trọng.
“Tranh luận về mức dự trữ ngoại hối hợp lý, nhiều ý kiến cho rằng Trung quốc chỉ cần
duy trì mức dự trữ ngoại hối từ 1.000 – 1.300 tỷ USD. Cơ sở để đưa ra con số này là dựa
trên nguyên tắc: Nhà nước phải đảm bảo ngoại tệ cho việc trả nợ nước ngoài, bao gồm cả nợ
ngắn hạn và nợ trung, dài hạn, khoảng 500 tỷ USD; Đảm bảo ngoại tệ cho 3 tháng nhập
khẩu, khoảng 660 tỷ USD; Đảm bảo ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển lợi
nhuận về nước, khoảng 100 tỷ USD. Đối với số ngoại hối dư thừa cần phải có kế hoạch
phân bổ sử dụng cho hợp lý.” (Theo PoBC).
Vào năm 2011, ông Chu Tiểu Xuyên, Thống đốc NHTW Trung quốc thừa nhận: “ Quy
mô dự trữ ngoại hối của Trung quốc đã vượt quá mức hợp lý của nền kinh tế, dự trữ ngoại
hối lớn làm cho thanh khoản dư thừa gây sức ép cho NHTW, Chính phủ đã có chỉ thị cần
giảm bớt quy mô dự trữ ngoại hối và phải đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ ”
3.1.4. Bài học đối với Việt Nam
18


Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có nhiều nét tương đồng về đặc điểm địa lý
và kinh tế. Tuy nền kinh tế Trung Quốc có quy mô lớn hơn Việt Nam nhưng cả hai đều là
những nước đang phát triển, đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Do đó,
những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc xây dựng và quản lý dự trữ ngoại hối nhà
nước, cũng như những chính sách liên quan là bài học quý cho Việt Nam.
Thứ nhất, tiếp tục phát huy các nguồn lực để gia tăng nguồn thu ổn định cho dự trữ
ngoại hối. Trung Quốc là một kinh nghiệm tốt để Việt Nam học tập trong việc thu hút các
nguồn ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước. Để có được một tiềm lực ngoại hối vững
mạnh, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh chính sách sản xuất hướng vào xuất khẩu, hạn chế

nhập khẩu. Thực thi chính sách tỷ giá hợp lý cũng có thể là một công cụ mang lại lợi thế lớn
cho xuất khẩu trong nước. Thặng dư cán cân thương mại là nguồn cung cấp ngoại tệ cơ bản
và ổn định cho dự trữ ngoại hối quốc gia. Mặt khác phải tăng cường thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Tiếp tục điều chỉnh một cách linh hoạt các quy định về đầu tư quốc tế, tạo môi
trường thuận lợi để thu hút các dòng ngoại hối chảy vào Việt Nam.
Thứ hai, duy trì quy mô dự trữ ngoại hối hợp lý. Theo thông lệ quốc tế mức dự trữ
ngoại hối vừa đủ là mức đủ để trang trải tổng số nợ nước ngoài đến hạn thanh toán trong
vòng một năm và về dài hạn thì ở mức 12 tuần nhập khẩu. Bài học của Trung Quốc cho thấy
sự gia tăng về dự trữ quá mức cần thiết đặt ra thách thức với các NHTW phải đa dạng hóa
đầu tư dự trữ ngoại hối để sinh lời. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu như hiện
nay thì việc đa dạng hóa danh mục đầu tư lại càng trở nên khó khăn. Vì vậy Cơ quan Quản
lý dự trữ cần đo lường một mức dự trữ vừa đủ và xây dựng kế hoạch phân bổ lượng dự trữ
dư thừa nếu có một cách hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng mục tiêu, chiến lược quản lý dự trữ ngoại hối theo các nguyên tắc
cơ bản: An toàn, thanh khoản và sinh lời. Duy trì dự trữ ngoại hối nghĩa là quốc gia đã chấp
nhận đánh đổi một mức chi phí cơ hội nhất định. Tuy nhiên, tùy thuộc vào chiến lược quản
lý dự trữ ngoại hối và mức độ đa dạng hóa công cụ đầu tư mà các chi phí cơ hội một quốc
gia phải chịu có thể thấp hơn, đồng thời vẫn bảo đảm độ an toàn và thanh khoản. Dự trữ nên
được đầu tư vào các công cụ Trái phiếu Chính phủ, tiền gửi tại các ngân hàng có tín nhiệm

19


cao và một ít vào Trái phiếu Công ty; theo đuổi các chiến lược đầu tư dài hạn chứ không
chạy theo các cuộc đầu cơ ngắn hạn trên Thị trường ngoại hối.
Thứ tư, thành lập các Cơ quan chuyên trách về quản lý dự trữ. Để xây dựng chiến
lược đầu tư hiệu quả và biến dự trữ ngoại hối thực sự trở thành một công cụ của Chính phủ
trong điều hành Thị trường ngoại hối, đáp ứng tốt vai trò của nó trong thương mại quốc tế,
đòi hỏi cần có một cơ quan độc lập và chuyên nghiệp về vấn đề này. Cơ quan đó sẽ được
giao toàn bộ trách nhiệm trong việc hình thành chính sách và thực thi các chiến lược liên

quan đến dự trữ ngoại hối. Về lâu dài, cần phải đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ cao
chuyên trách trong việc gia tăng, sử dụng và đầu tư vốn, tạo cơ sở cho việc xây dựng cũng
như duy trì nguồn dự trữ ngoại hối vững mạnh.
Thứ năm, gia tăng tính minh bạch trong quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia và công
khai hoá số liệu. Hầu hết các số liệu về quy mô và cơ cấu dự trữ ngoại hối của Trung Quốc
đều được đăng tải đầy đủ trên các trang thông tin của Chính phủ. Điều này giúp tạo lập
niềm tin của dân chúng vào việc ổn định tỷ giá và tăng cường việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Thứ sáu, điều hành và kiểm soát thị trường ngoại hối một cách hợp lý. Bên cạnh
những chính sách liên quan đến tỷ giá, thu hút vốn đầu tư, các biện pháp quản lý ngoại hối
chặt chẽ cũng góp phần tạo nên sự ổn định của nền kinh tế và tăng nhanh dự trữ ngoại hối.
Để tránh hiện tượng đầu cơ ngoại tệ trong nền kinh tế, cần có những biện pháp cả hành
chính và kinh tế để thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng và quỹ dự trữ ngoại hối.
Thúc đẩy sự phát triển của Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, hạn chế những hoạt động sử
dụng ngoại tệ không hợp lý trong nền kinh tế, nghiêm cấm các hành vi găm giữ, kinh doanh
ngoại tệ trái phép.
Hy vọng những kinh nghiệm từ quản lý ngoại hối của Trung Quốc sẽ giúp Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có những định hướng hợp lý nhằm cải thiện và quản lý tốt nguồn dự
trữ ngoại hối quốc gia.
3.2. Quản lý hoạt động ngoại hối (quản lý tỷ giá)
3.2.1. Cơ chế tỷ giá của Trung Quốc qua các năm
 Giai đoạn trước chuyển đổi nền kinh tế - năm 1979

20


Cũng như các nước khác trong hệ thống XHCN, trước thời điểm chuyển đổi kinh tế,
Trung Quốc xây dựng và áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá nhưng không
tuân theo hoàn toàn đúng những nguyên tắc của chế độ tỷ giá cố định. Thực chất của
chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá trong giai đoạn này ở các nước XHCN nói chung và ở

Trung Quốc nói riêng đã xoá nhoà những tín hiệu của thị trường - động lực kinh doanh đối
với các đơn vị kinh tế. Cơ chế nay đã thực sự tước đoạt quyền chủ động trong kinh tế,
không gắn kết lợi ích của các chủ thể kinh tế với hoạt động kinh doanh của chính họ. Do đó,
làm cho các đơn vị kinh tế không quan tâm đến hiệu quả của quá trình sản xuất - kinh
doanh, hoàn toàn ỷ lại vào sự sắp đặt của Nhà nước. Chính cơ chế này đã góp phần đưa nền
kinh tế của các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc rơi vào thời kỳ suy thoái và khủng
hoảng kinh tế sâu sắc (những năm 70 - 80). Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của Trung
Quốc diễn ra từ cuối những năm 70, chính xác là từ năm 1979. Cùng với quá trình này, chế
độ và chính sách tỷ giá hối đoái cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của
nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định
hướng XHCN.
 Giai đoạn sau chuyển đổi nền kinh tế đến đầu những năm 1990 (1979-1993)

Trước hết, Trung Quốc để cho tỷ giá ấn định trước đây linh động theo sát với
những diễn biến của tỷ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị
trường vào trong cơ chế xác định tỷ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển đổi cơ
chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và
định hướng của nhà nước.
Sau những điều chỉnh trên, tỷ giá phản ánh tương đối sát với những tín hiệu của thị
trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ. Trong những năm đầu của thập kỷ 90,
tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla Mỹ được duy trì tương đối ổn định
ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD.
 Giai đoạn 1994 – 1997

Trên đà lạm phát bắt đầu tăng nhanh từ giai đoạn trước, dự đoán được tỷ lệ lạm phát sẽ
còn tiếp tục dâng cao nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa, nhận thấy trong tình
hình lạm phát này nếu vẫn duy trì tỷ giá hối đoái theo hướng cố định tương đối thì sẽ có
21



những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế
do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực tế.
Chính phủ Trung Quốc đã ra một quyết định có ý nghĩa bước ngoặt cho nền kinh tế Trung
Quốc.
Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5.8
NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (2.9/5.8). Kết hợp với tỷ
lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% giai đoạn 1990 – 1993 thì tỷ lệ phá giá thực tế
là 50.14%. Như vậy, có thể thấy hành động trên của Trung Quốc không đơn thuần là nhằm
điều chỉnh để đồng Nhân dân tệ phản ánh đúng sức mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ
ý trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm
thúc đẩy cao độ xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài và tạo thặng dư trong cán cân thương
mại.
Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nội tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ giá ấn
định cũ của Nhà nước để chuyển sang khoảng tỷ giá được dao động quanh mức tỷ giá
vừa bị đánh tụt ở trên. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ giá này lên thị
trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các quy định hỗ trợ như: thực hiện chế độ
ngân hàng kết nối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị
trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; cải tiến
và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán ngoại hối, xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối
với thu chi ngoại hối...kết hợp với việc kiểm soát chặt chẽ của NHTW đối với các hoạt động
ngoại hối của các NHTM bằng cách quy định ngân hàng nào được phép chuyển đổi và với
số lượng là bao nhiêu. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại
hối.
Đối với các công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ
hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang
Nhân dân tệ. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước thì được yêu cầu phải nộp 100% ngoại
tệ thu được thay vì 50% như trước đây. Nhưng mặt khác, nhà nước cho phép các công ty
xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ mạnh, các công ty nước ngoài được từng bước giao dịch,

22



mua bán các loại ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn
vào thị trường tiền tệ thế giới.
Nhìn chung, so với giai đoạn 1990 – 1993, các chính sách tỷ giá hối đoái của Trung
Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân dân tệ Trung
Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) công nhận là đồng tiền chuyển đổi tự
do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến các khoản thanh toán về mậu
dịch hàng hoá – dịch vụ cũng như các khoản lợi nhuận các công ty nước ngoài chuyển về
nước).
Chỉ tiêu
Lạm phát (% năm)
Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD)
Tốc độ tăng trưởng (% năm)

1994
24,24
8,6187
12,70

1995
16,90
8,3514
10,50

1996
8,32
8,3142
9,50


1997
2,80
8,2898
8,80

Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ phận
trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực nhanh chóng
khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế Trung Quốc
 Giai đoạn trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (cuối 1997 – 2005)

Nếu trước thời điểm khủng hoảng Trung Quốc vẫn duy trì ổn định tỷ giá đồng Nhân
dân tệ thì ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế sẽ ít nghiêm trọng hơn. Trên thực
tế là đồng Nhân dân tệ đã bị lao đao, đặc biệt là trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng
năm 1997, một lý do lớn là do sự thả nổi đồng nội tệ trong giai đoạn 1993 – 1996 như đã
nghiên cứu ở trên.
Năm 1998, để bảo vệ đồng Nhân dân tệ trước làn sóng tấn công của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc laị quay lại kiểm soát chặt chẽ thị trường
ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và những dự kiến về phá giá đồng Nhân dân tệ. Đồng thời,
để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng của nền kinh tế, chính phủ Trung
Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền tệ nới lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung
Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền gửi đồng Nhân dân tệ, đồng thời giảm

23


cả lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Thêm vào đó là các chính sách: hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ
trợ vốn doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng các tầng lớp dân cư.
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO).Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau khi gia nhập WTO,
Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên, vấn đề quan

trọng là chính sách tỷ giá của Trung Quốc cần được thực thi sao cho đảm bảo hài hoà được
với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của quốc gia khổng lồ này trong giai đoạn này. Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO có xu hướng ngày
càng cao ở mức khó kiểm soát, trong khoảng 8-9%/năm. Trước tình hình này, ngày
28/10/2004, NHTW Trung Quốc đã quyết định tăng tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi bằng
đồng nhân dân tệ kỳ hạn một năm từ 1,98% lên 2,25% và tăng lãi suất cho vay từ 5,31% lên
5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên phạm vi toàn cầu trong năm
2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước này đang bắt đầu thực hiện cải
cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 7 năm 1995 này của NHTW
Trung Quốc nhằm mục đích duy trì những kết quả điều tiết vĩ mô mà họ đã đạt được trong
giai đoạn vừa qua, đồng thời góp phần hạ nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền
vững của nền kinh tế.
Các luồng vốn khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực tăng giá lên đồng Nhân
dân tệ. Để kiểm soát giá đồng Nhân dân tệ, NHTW phải mua vào ngoại tệ, tăng khả năng
thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng hơn
40% từ đầu năm lên đến 540 tỷ USD tính đến cuối tháng 10 năm 2004. Với con số này,
Trung Quốc trở thành nước có lượng dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật
Bản (820 tỷ USD). Trên cơ sở xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung
Quốc cũng từng bước nới lỏng biên độ giao dịch của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, từ
mức 3% hiện nay tiến tới 4-5%.
Những biện pháp trên của Trung Quốc không những đã giúp hạn chế sự tăng giá của
đồng Nhân dân tệ, mà còn khiến đồng tiền này duy trì ở mức giá thấp trong thời gian dài,
khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, giữ vững mức tỷ giá hiện hành (8,26 - 8,28
NDT/USD) cũng không phải là điều dễ thực hiện. Theo đánh giá, có những thời điểm
24


NHTW Trung Quốc phải bỏ Nhân dân tệ ra để mua tới 600 triệu USD mỗi ngày. Biện pháp
can thiệp này không thể duy trì liên tục kéo dài. Do vậy, Trung Quốc đã thực hiện một số
biện pháp để làm dịu sức ép đối với đồng Nhân dân tệ, cụ thể là :

- Thí điểm từ 1/11/2003 cho phép 14 tỷnh, khu vực được đầu tư ra nước ngoài nhiều hơn,
mức trần từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD.
- Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích xuất khẩu,
xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản vay tiền và hạn chế
hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trái phiếu cũng như các thị
trường chứng khoán Trung Quốc.
Nhờ các nỗ lực điều chỉnh trên của chính phủ, đồng Nhân dân tệ đã đứng vững trong
thời gian này và cả một khoảng thời gian dài về sau. Tính cho đến năm 2005, tỷ giá ngoại tệ
của Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức 8.28 NDT đổi lấy 1 USD, với biên độ
dao động khá rộng +/- 0.3% mỗi ngày.
 Giai đoạn từ 07.2005 đến nay

Vào ngày 22.07.2005, Trung Quốc chính thức thông báo hàng loạt những biện pháp
như sau:
- Đồng Nhân dân tệ được điều chỉnh ở mức độ vừa phải: tăng giá 2.1% tức là đạt mức
8.11 NDT/USD.
- Một sự thay đổi quan trọng hơn: đồng Nhân dân tệ sẽ không tiếp tục, bị ấn định với
USD nữa, mà thay vào đó sẽ được xác định dựa trên một số các đồng tiền mạnh nhất định
như €, ¥, K. Won, ...(quyết định này đã được Uỷ ban nhà nước thông qua vào 21.07.2005)
- Mặc dù biên độ dao động tỷ giá trong ngày khá lớn (+/- 3% đối với USD +/-5% đối với
Euro, ...), thì về mặt lý thuyết, sự biến động hằng ngày này vẫn được tính đến. Vì thế, ví dụ
như USD có thể bị định giá cao khoảng 6% một tháng, thì cơ quan chức năng sẽ dùng biên
độ tối đa 3% áp dụng cho USD.
Những biện pháp trên thể hiện một bước chuyển lớn về tiền tệ của Trung Quốc, từ
chính sách tỷ giá hầu như là cố định sang một cơ chế tỷ giá thả nổi theo cung cầu thị trường
có sự điều tiết của nhà nước. Theo Trung Quốc, điều này phù hợp với bối cảnh thực tế của
sự phát triển khu vực ngoài nước của Trung Quốc. Từ thời điểm chuyển đổi chính sách trên
25



×