Tải bản đầy đủ (.docx) (128 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NHỮNG Ý KIẾN CỦA PHẠM TIẾN DUẬT VỀ VĂN CHƯƠNG VÀ NGHỆ THUẬT THƠ CA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.28 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG LAN HƯƠNG

HÀ NỘI NHƯ NHỮNG DIỄN NGÔN
(KHẢO SÁT TRONG VĂN HỌC MIỀN BẮC
VIỆT NAM 1945- 1975)
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS. Trần Đình Sử

HÀ NỘI- 2015
1


Lêi c¶m ¬n
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS Trần Đình Sử đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo khoa ngữ văn, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã giảng dạy, tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ,
động viên giúp đỡ tôi vững bước trên con đường khoa học.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Hoàng Lan Hương


2


MỤC LỤC

3


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định sự tồn tại cả một dòng văn
học nghệ thuật về thành phố. Bởi sự hiện diện của thành phố trong tác phẩm
nghệ thuật không còn đơn giản chỉ là phông nền, bối cảnh cho những câu
chuyện, những tâm tình mà nó chính là “nhân vật chính” của những tác phẩm
ấy. Sự hiện diện của thành phố trong văn chương nghệ thuật cũng không đơn
thuần là sự chuyển hóa hình ảnh thành phố vật chất vào tác phẩm mà quan
trọng hơn, hình ảnh thành phố được thể hiện như thế nào, bản thân nó đã là
một ý tưởng. Trong những tác phẩm đầu tiên về thành phố ở phương Tây, thành
phố đã hiện lên như một ý niệm tinh thần hơn là một thực thể vật chất. Người
Germain đã xây dựng hình ảnh Riga như một ngụy tạo văn hóa phục vụ cho
mục đích mở rộng lãnh thổ của mình. Trong sách Khải huyền của Thánh
Augustine, thành phố hiện lên như là một đối cực của thành phố trên cao- thành
phố của Chúa- trật tự hoàn hảo, vì thế thành phố của con người là một biểu
tượng tha hóa, cái bất toàn. Thànnh phố như là những huyễn tưởng được xây
dựng trong Utopia của Thomas Moore hay Thành phố mặt trời của Thomas
Campanella. Paris thường xuyên hiện diện với huyền thoại về kinh đô ánh
sáng, Rome với huyền thoại về thành phố tình yêu… Do những khác biệt về
điều kiện phát triển kinh tế xã hội nên những thành phố ở châu Á xuất hiện

muôn hơn và ít nhiều chịu ảnh hưởng từ phương Tây. Tuy kém về bề dày lịch
sử nhưng những thành phố châu Á vẫn tạo dựng một dòng mạch riêng. Châu Á
có những dòng văn học nghệ thuật về Bắc Kinh như là thành phố của giấc mơ
Xã hội chủ nghĩa, Hồng Kông như là một thành phố quốc tế… Hà Nội, với vị
trí của một thủ đô 1000 năm tuổi, cũng có một dòng mạch riêng viết về nó,
khởi đầu từ năm 1010, liên tục phát triển, tổng hợp, rẽ nhánh cho đến tận ngày
4


hôm nay. Khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi muốn nghiên cứu các tác phẩm văn
chương về Hà Nội như là một phần của dòng văn học thành phố.
Khi tiếp cận dòng văn chương viết về Hà Nội, chúng tôi nhận thấy một
hình ảnh Hà Nội không cố định và không thuần nhất ngay tại một thời điểm.
Vì thế có thể thấy rằng hình ảnh Hà Nội trong văn học nghệ thuật không thể
hiểu đơn giản là sự phản ánh đời sống vào tác phẩm. Các tác phẩm văn học
nghệ thuật về Hà Nội cần được nhìn nhận ở bản chất diễn ngôn- tức là mỗi
hình ảnh Hà Nội được kiến tạo nên đều nhằm một mục đích nào đó, chịu sự
chi phối của một tư tưởng hệ, một mĩ cảm nào đó, thậm chí đi theo một số
công thức biểu đạt nhất định… Hà Nội trong văn học nghệ thuật là một kiến
tạo ngôn ngữ với nhiều ảo tưởng, nhiều tham vọng chứ không phải là một
thực thể trong suốt có thể quy chiếu về thành phố thực tại như ta vẫn tưởng.
Ba mươi năm 1945- 1975 là giai đoạn đầy biến động trong lịch sử dân
tộc. Bão táp chiến tranh đã cuốn vào trong nó cuộc đời của những cá nhân,
lịch sử của những gia đình và cả lịch sử của những thành phố như Hà Nội. Ba
mươi năm khốc liệt ấy không chỉ để lại dấu ấn trên cảnh quan của thành phố
với sự hiện diện của những lỗ châu mai, của những hầm trú ẩn, những mảng
tường lở loét vì bom đạn chiến tranh, những tượng đài quyết tử… mà còn để
lại dấu ấn trong văn học nghệ thuật và vẫn còn hằn sâu trong kí ức của những
người Hà Nội hôm qua và hôm nay. Thời đại này đã sản sinh ra những cảm
thức hêt sức mới mẻ, trước đây chưa từng có về chốn kinh kì văn hiến, nơi đô

thị phồn hoa và tạo dựng cho thành phố này một diện mạo tinh thần mới.
2.
2.1.

Lịch sử vấn đề
Lịch sử nghiên cứu về Hà Nội như một diễn ngôn trong văn học nghệ
thuật
Hà Nội với bề dày lịch sử của mình đã trở thành đối tượng nghiên cứu
của rất nhiều ngành như địa lí, lịch sử, khảo cổ, xã hội học, kiến trúc, khảo sát
5


văn hóa phong tục… Người ta cũng đã nghiên cứu về Hà Nội, con người Hà
Nội, bản sắc văn hoá Hà Nội trong văn học nghệ thuật, tuy nhiên những
nghiên cứu này chủ yếu mang tính chất mô tả, quy chiếu về diện mạo của
thành phố thực chứ không nhìn nó như một thực thể tinh thần, không lí giải
nguyên nhân hay cơ chế thẩm mĩ nào dẫn đến sự kiến tạo hình ảnh Hà Nội
qua các thời kì như ta thấy. Trong số các nghiên cứu về Hà Nội trong văn học
nghệ thuật, đáng kể nhất là hội thảo Về bản sắc văn hóa Hà Nội trong văn học
nghệ thuật thế kỉ XX do trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tổ chức. Tuy
nhiên trong hội thảo này cũng chỉ có duy nhất bài tham luận “Nghệ thuật và
thành phố- Chân dung Hà Nội trong mắt nghệ sĩ Việt Nam” của TS Natalia
Kraevskaya và Lisa Drummond “xem xét những xu hướng trong việc diễn
giải và khái niệm hóa Hà Nội như một chủ thể nghệ thuật”. Các bài tham luận
khác hầu hết có tính chất khái quát những đặc điểm của Hà Nội được thể hiện
qua sáng tác, nghĩa là nhìn nhận nó như là một đối tượng phản ánh của nghệ
thuật và quan tâm đến cách thức xử lí những hình ảnh đó bằng phương tiện
của các loại hình nghệ thuật.
Trong khóa luận tốt nghiệp Viết lại Hà Nội: diễn ngôn về thành phố
trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Bình Phương, chúng tôi cũng

đã bước đầu xác lập Hà Nội với tư cách một văn bản liên tục được viết lại
theo thời gian. Các diễn ngôn song song tồn tại với nhau, thay thế nhau, giao
thoa nhau trong từng thời kì tạo nên diện mạo Hà Nội trong văn học nghệ
thuật. Trong dòng mạch đó chúng tôi định vị và nhận diện diễn ngôn về Hà
Nội trong sáng tác của hai nhà văn. Tuy nhiên đây chỉ là những bước đi ban
đầu, chúng tôi cảm thấy cần phải có sự nghiên cứu sâu sắc hơn đối với diễn
ngôn về Hà Nội trong từng giai đoạn, đặc biệt là một giai đoạn có nhiều
nhánh diễn ngôn đa dạng, phong phú như giai đoạn 1945- 1975.

6


Lịch sử nghiên cứu diễn ngôn về Hà Nội trong văn học giai đoạn 1945-

2.2.

1975
Giai đoạn 1945- 1975 là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình văn
học Việt Nam thế kỉ XX, vì thế nó nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà
nghiên cứu văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên, do những đặc trưng về hoàn cảnh
lịch sử xã hội, chủ trương văn hóa văn nghệ đại chúng, thi pháp thời đại mà
các nhà nghiên cứu chưa chú trọng đến nghiên cứu diễn ngôn về các vùng
miền trong văn học, nhất là diễn ngôn về thành phố.
3.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các diễn ngôn về Hà Nội trong
văn học miền Bắc Việt Nam 1945- 1975

4.


Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát các diễn ngôn về Hà Nội trong
giai đoạn từ 1945 đên 1975, tập trung khai thác những diễn ngôn văn chương
tiêu biểu ở miền Bắc (bao gồm các thể loại văn xuôi, thơ, kí)

5.

Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này là:

-

Thứ nhất: nhận diện các diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt
Nam 1945- 1975 trong dòng mạch các diễn ngôn liên tục viết tiếp và viết lại
về Hà Nội trong hơn 1000 năm qua.

-

Thứ hai: chỉ ra được những công thức diễn ngôn tiêu biểu, cơ chế kiến tạo và
giá trị của những công thức diễn ngôn này trong việc kiến tạo hình ảnh Hà
Nội trong văn học nghệ thuật cũng như trong tâm thức con người.

6.

Phương pháp nghiên cứu

-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu sự kiến tạo hình ảnh Hà Nội

giai đoạn 1945- 1975 trên cơ sở kết hợp các diễn ngôn lịch sử, văn hóa, các

7


diễn ngôn văn học, mỹ thuật, âm nhạc , điện ảnh, các nghiên cứu trên lĩnh vực
kiến trúc, quy hoạch đô thị.
-

Phương pháp thống kê, phân loại

-

Phương pháp tổng hợp

-

Phương pháp so sánh, đối chiếu

-

Phương pháp phân tích văn bản và liên văn bản

7.

Cấu trúc luận văn
Phần nội dung chính của luận văn gồm có ba chương:
Chương I: Diễn ngôn về Hà Nội giai đoạn 1945- 1975- những vấn đề chung
Chương II: Thủ đô/ đô thị- hai diễn ngôn độc lập, tương tranh
Chương III: Thủ đô và đô thị- khi các diễn ngôn tìm được con đường

hòa giải

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
DIỄN NGÔN HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 1945- 1975- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.

Thành phố- một thực thể diễn ngôn
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự ra đời của những thành phố đầu tiên
từ cách đây mấy nghìn năm. Từ những thành bang như Aten của Hy Lạp cổ
đại đến những thành thị trung đại, từ những thành phố cảng, những công
xưởng lớn của thời kì Cách mạng công nghiệp cho đến những thành phố quốc
tế ngày nay, thành phố đã đi một hành trình dài từ lúc khai sinh, liên tục phát
triển và trở nên định hình trong dáng vẻ cũng như trong ý niệm của con người
về nó. Tất nhiên, sự định hình mà chúng tôi nhắc đến ở đây chỉ mang tính
chất tương đối, bởi sự phát triển năng động của đời sống khiến cho diện mạo
của các thành phố không ngừng đổi thay từng ngày và theo những quy luật
nhận thức và tâm lý, cách mà chúng ta nghĩ về thành phố hôm nay cũng
chẳng bao giờ trọn vẹn là những ấn tượng, cảm nghĩ của ngày hôm qua. Tuy
nhiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, quá trình phát triển dài lâu đã khiến
cho sự phân định giữa thành phố với những miền không gian khác trở nên hết
sức rõ ràng. Không còn khó khăn hay tranh cãi khi chúng ta gọi một không
gian là thành phố hay xác định nó không phải thành phố bởi chúng ta đang
cùng chia sẻ một ý niệm chung, cùng đồng thuận trong một cách hiểu nhất
định về thành phố. “Thành phố là gì?” hiển nhiên là câu hỏi mà bất cứ ai cũng
trả lời được, thậm chí có thể trả lời rất nhanh chóng và dễ dàng. Nó đã quá đỗi
quen thuộc trong sự quan sát, trải nghiệm và suy nghĩ của chúng ta. Xác lập

lại định nghĩa về thành phố dường như đã trở thành một việc không cần thiết.
Tuy nhiên chúng tôi sẽ bắt đầu từ chính điểm dường như không cần thiết này
để khám phá diện mạo và bản chất của thành phố cũng như sự xuất hiện của
9


thành phố trong văn học với tư cách diễn ngôn thay vì chỉ là bối cảnh, phông
nền cho những truyện kể.
1.1.

Thế nào là một thành phố?
Sở dĩ chúng ta có thể dễ dàng đưa ra một định nghĩa về thành phố bởi
nó không phải là một ý niệm trừu tượng, một sản phẩm thuần túy của suy
tưởng. Thành phố là một thực thể vật chất đang hiện hữu ngay bên cạnh
chúng ta, thậm chí nó chính là không gian bao bọc sự tồn tại của chúng ta, là
cuộc sống thường ngày, gắn bó trong những thói quen, trong từng bước đi,
từng hơi thở. Trong từng tháng ngày đang sống, ta vừa cảm nhận về thành phố
mơ hồ trong cảm giác vừa sống động trong sự tiếp xúc của tất cả các giác
quan. Thành phố không phải là những hình dung xa xôi hay là một miền
tưởng tượng, thành phố ở rất gần và rất thực, là những hình ảnh mắt ta trông
thấy, những âm thanh tai ta nghe thấy, những cảm giác chật chội, nóng bức
hay rộng dài, thênh thang, bay bổng hàng ngày đọng lại thành những ấn
tượng, lưu lại trong trí nhớ. Thành phố thực và gần gũi như khung cửa sổ, mái
hiên, hàng cây trước ngõ, những con đường, những nếp nhà những mái phố,
những ngã ba… Nhưng cũng chính sự gắn bó giản dị và thân thuộc như hơi
thở thậm chí như máu thịt ấy đã khiến cho cách mà chúng ta nghĩ và định
nghĩa về thành phố có phần đơn giản.
Trong cách hiểu phổ biến nhất, thành phố thường được định nghĩa là
một khu vực tập trung dân cư, được xác định bởi một diện tích giới hạn, quy
mô dân số nhất định, các hoạt động kinh tế, chính trị văn hóa xã hội đặc trưng

và các công trình cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại… Các nhà xã
hội học và kinh tế học từ lâu đã đưa ra một hệ thống các tiêu chí và các con số
làm tiêu chuẩn đánh giá cũng như phân cấp đô thị. Các con số này không cố
định mà liên tục biến đổi theo thời gian, tương ứng với trình độ phát triển
kinh tế xã hội cũng như tốc độ đô thị hóa. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng
10


về cơ bản những tiêu chí xác định một vùng không gian có phải là thành phố
hay không dường như không có nhiều thay đổi. Thành phố vẫn được nhận
diện rõ nét nhất trong sự đối sánh với không gian trái ngược là nông thôn.
Trong sự phân biệt muôn thuở này, thành thị và nông thôn luôn là hai đối cực.
Nông thôn luôn được nhắc đến là miền không gian rộng lớn, dân cư thưa thớt,
nhắc đến không gian nông thôn là nhắc đến sự thoáng đãng và khoáng đạt.
Trong khi đó, dù diện tích thường được đo bằng những con số rất lớn nhưng
không gian đô thị chưa bao giờ thôi đem đến cảm giác chật chội cho những cư
dân của nó. Cho dù diện tích có được mở rộng đến đâu thì hình như vẫn cứ là
chưa đủ so với quy mô dân số ngày càng phình to nơi đô thị. Nông thôn là
không gian liền khối. Sự phân cắt không gian duy nhất hiện diện trong hình
ảnh con đường làng. Đây là trục giao thông chính nối hai nửa đặc trưng của
không gian nông thôn: không gian sản xuất (nông trại, cánh đồng) và không
gian cư trú (xóm làng). Trong khi đó, thành phố liên tục bị phân cắt thành các
mảng không gian chức năng hết sức đa dạng: không gian cư trú, không gian
làm việc, không gian của các dịch vụ y tế, thể thao, mua sắm, giải trí…Xen
giữa những mảnh vỡ không gian đó là hệ thống giao thông phức tạp. Nếu như
ở nông thôn chỉ có một con đường duy nhất, thằng tắp ít những ngã rẽ cắt
ngang thì ở thành thị, đường phố tạo thành một mê cung chằng chịt những
phố những đường, những ngõ nhỏ quanh co sâu hun hút và chúng lại có khả
năng vô tận trong việc kết nối những con đường lại với nhau… Không ai bị
lạc trên những con đường nông thôn trong khi đó là cảm giác thường trực ở

chốn thị thành, ta liên tục bị đẩy vào tình huống lựa chọn, chỉ cần một chút lơ
đãng là ngay lập tức con người bị rơi vào những miền không gian xa lạ, loay
hoay xác định phương hướng để tìm về cảm giác quen. Những ngôi nhà ở
nông thôn thường nổi bật ở sự mộc mạc và giản dị, các công trình kiến trúc
thường không quá cao, về cơ bản là phù hợp với công năng sử dụng cũng như
11


hài hòa với không gian xung quanh. Trong khi đó thị thành trưng ra một diện
mạo lộng lẫy xa hoa với những công trình kiến trúc bề thế, kiểu cách và hết
sức cầu kì. Đó là những khối nhà cao tầng với cửa kính, đèn gương sáng
loáng, những tòa nhà chọc trời cao ngất, thậm chí vượt khỏi tầm mắt ngước
lên. Diện mạo thành phố chia thành những mảng đầy màu sắc và kiểu dáng:
những mảng kiến trúc phương Đông xen giữa mảng kiến trúc phương Tây,
những công trình hiện diện như biểu tượng của sự giao thoa văn hóa bên cạnh
những công trình mang dấu ấn truyền thống hay sừng sững những biểu tượng
của nền văn mình toàn cầu… Những mảng khối ấy đặt bên cạnh nhau, tương
tác với nhau đem đến cho thành phố một chân dung liên tục biến ảo như nhìn
qua chiếc kính vạn hoa. Và nếu như nông thôn đem đến cho người ta ấn tượng
về màu xanh của bầu trời, vẻ tươi non của cây cối, sự trong trẻo trong màu
vàng của nắng mai, sự mộc mạc trong màu nâu của đất…- những màu sắc
giản dị và thuần phác thì thành phố lại để lại một ấn tượng khác hẳn. Thành
phố là một bảng màu mà chúng ta sẽ thất bại nếu như cố gắng xác định số
lượng màu sắc. Nó là một hòa sắc, ở đó các màu sắc đan xen trộn lẫn vào
nhau làm nên vẻ rực rỡ ban ngày và lại càng thêm lung linh diễm ảo khi phố
sá lên đèn. Đời sống yên bình ở làng quê ngàn đời gắn với hoạt động sản xuất
nông nghiệp còn thành phố đặc trưng ở các hoạt động sản xuất công nghiệp
và thương mại. Những thành phố đầu tiên ra đời trên thế giới gắn với sự phát
triển của thương mại, buôn bán trao đổi hang hóa giữa các thành bang cổ đại.
Những thành phố lớn nhất thời trung đại đều là những thành phố cảng như

Venice (Italia), Macxay (Pháp)… nơi hoạt động trao đổi hàng hóa đã vượt ra
ngoài lãnh thổ một quốc gia để kết nối nhiều quốc gia với nhau. Từ những
thành phố cảng này, những con thuyền khám phá đã nhổ neo đưa người
phương Tây đến những miền đất mới- nơi sẽ trở thành vùng nguyên liệu mới,
thị trường mới và về sau còn là nơi cư trú mới của họ. Thế kỉ XVII, ở Việt
12


Nam cũng đã xuất hiện những đô thị lớn mà dấu ấn của nó còn để lại trong
những câu ca dân gian như “Thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố Hiến”. Kinh thành
Thăng Long thế kỉ XVII là nơi có cảng đường sông lớn nhất ở miền Bắc, hoạt
động buôn bán trên bến dưới thuyền vô cùng tấp nập, thậm chí ấn tượng về sự
sầm uất ấy còn được ghi lại trong những trang bút kí của những nhà du hành
châu Âu đến Bắc kì lúc bấy giờ. Đương thời, ở miền Trung có đô thị cổ Hội
An là nơi thu hút rất nhiều thương gia Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Anh,
Pháp, Hà Lan… Thời kì Cách mạng công nghiệp làm thay đổi toàn bộ diện
mạo nền sản xuất châu Âu nói riêng và thế giới nói chung, những thành phố
lớn là những thành phố công nghiệp với hình ảnh đặc trưng là những nhà
máy, những công xưởng lớn với hệ thống máy móc hiện đại… Cho đến nay
bước chuyển quan trọng nhất trong quá trình đô thị hóa trên đất nước chúng ta
vẫn là sự thay thế hoạt động sản xuất nông nghiệp bằng sản xuất công nghiệp,
sự thay thế có thể nhận thấy rất dễ dàng trên diện mạo: những con đường đất
được thay bằng đường nhựa, đường rộng thêm ra, tăng cường chiếu sáng…,
trên mảnh đất từng là đồng ruộng mọc lên những dãy nhà, những cột ống
khói, những biển hiệu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, những dãy cột
điện và đèn cao áp thay thế ấn tượng về những hàng cây xanh rì rào trong
buổi chiều quê lộng gió… Thành phố hôm nay, thành phố của thời kì toàn cầu
hóa trưng ra lộng lẫy những trung tâm thương mại sầm uất, những tòa nhà
chọc trời, đâu đâu người ta cũng bắt gặp hệ thống biển hiệu của những thương
hiệu toàn cầu. Thành phố của hôm nay không chỉ sống trong giấc mơ nhỏ bé

của mình mà ôm mộng trở thành những thành phố quốc tế, biểu tượng của
toàn thế giới…
Sự nhận diện một thành phố có thể dựa trên những tiêu chí tổng thể, vĩ
mô, đôi khi có thể chỉ bắt đầu từ cảm nhận hết sức quen thuộc giữa đời
thường. Thành phố- đó là nơi ta hàng ngày lội giữa biển người và mắc kẹt
13


giữa dòng xe cộ vào giờ cao điểm, nơi cảm giác ngột ngạt khó thở lơ lửng
giữa khói bụi của phương tiện và hơi nóng hầm hập tỏa ra từ mặt đường và
những tòa nhà xây dựng bằng bê tông cao ngất… Thành phố- đó là nơi tầm
mắt liên tục bị giới hạn bởi các công trình, đôi mắt trong veo tìm kiếm mãi
mà vẫn không sao chạm được đến chân trời, nơi đôi tai luôn bị đặt giữa một
dòng âm thanh hỗn loạn của tiếng nhạc ầm ĩ vọng ra từ các cửa hàng, tiếng
còi xe nhốn nháo, tiếng người nói léo xéo, tiếng máy móc ầm ì…và tuyệt
vọng trong nỗ lực thanh lọc lấy những thanh âm trong trẻo và thuần khiết nhất
của đời sống như tiếng chim hót, tiếng gió vi vút, âm thanh rì rào của những
hang cây… Đôi khi ánh mắt tìm thấy bầu trời cao rộng nhất là bầu trời in hình
rõ rệt trên những mảng kính lớn của các tòa nhà chọc trời và đôi khi âm thanh
trong trẻo nhất lại là tiếng hót của một chú chim cảnh bị nhốt trong lồng trên
ban công của một ngôi nhà trong ngõ sâu hun hút- thứ âm thanh khắc khoải
hướng về tự do…
Đó là thành phố vật chất đang hiện hữu sống động trong từng cảm giác,
từng giây phút của chúng ta giữa đời thường. Đó là phần diện mạo bên ngoài
mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng nhận ra, phác thảo và gọi tên. Tuy nhiên
thành phố là một thực thể phức tạp hơn thế. Nó đã bắt đầu lịch sử của mình từ
cách đây hàng nghìn năm, trải qua nhiều biến cố phức tạp, nhiều lần đổi thay
diện mạo, bao phen bị hủy hoại sau đó lại hồi sinh. Vì thế mà không thể chỉ
định nghĩa thành phố trên phương diện vật chất, không thể chỉ đo đếm kích
thước dài rộng của nó bằng hình ảnh ở thời hiện tại, càng không thể thăm dò

đến đáy cùng chiều sâu của nó dựa vào trải nghiệm của một cuộc đời, ngay cả
khi đó là trải nghiệm của nhiều cuộc đời hay trải nghiệm của một thế hệ thì
vẫn là chưa đủ. Câu hỏi “Thành phố là gì? Thế nào là một thành phố?” chưa
bao giờ khó trả lời kì thực lại không dễ để có được một câu trả lời thỏa đáng.
Diện mạo vật chất chỉ là lớp vỏ, chỉ là cái áo ẩn chứa tận sâu bên trong, phía
14


sau bao nhiêu ý niệm tinh thần. Những ý niệm đó không chỉ là cái ẩn chứa,
cái được cất giấu mà có khi còn tạo thành chính không quyển tinh thần bao
bọc thành phố, cũng như giới hạn suy nghĩ và cảm nhận của chúng ta.
Trong ý thức văn hóa của chúng ta, hai chữ “thành phố” chưa bao giờ
đơn giản chỉ quy chiếu về một thực thể vật chất, một loại địa bàn cư trú, một
kiểu tổ chức đời sống xã hội. Có rất nhiều những suy nghĩ, cảm giác theo
cùng hai chữ “thành phố” ấy- đó chính là cảm thức đô thị. Và không phải chỉ
có những người sinh ra, lớn lên, sống trọn vẹn cuộc đời ở thành phố hay
những người từng có trải nghiệm với thành phố mới có cảm thức này. Ngay
cả đối với những người chưa từng biết thế nào là đô thị, chưa từng có bất kì
trải nghiệm trực tiếp nào với khung cảnh hay cuộc sống nơi thị thành thì hai
chữ “thành phố” vẫn gợi ra trong họ rất nhiều suy nghĩ. Những cảm thức ấy
không phải đợi đến khi con người ta tiếp xúc với đô thị mới hình thành mà nó
đã có từ trước, trước những trải nghiệm của ta, trước cả sự ra đời của ta, của
cha ông ta, nó nằm ở tầng sâu của vô thức xã hội. Những kinh nghiệm cá
nhân của chúng ta với thị thành chỉ là sự nối dài, bồi đắp thêm, cũng có khi
đối thoại và làm phong phú thêm cho ý niệm xã hội đó. Chúng tôi gọi nó là vô
thức đô thị- ở đó thành thị và nông thôn, từ hai miền không gian có nhiều đặc
điểm trái ngược đã nâng lên thành trung tâm của một hệ thống ý niệm và cảm
thức hoàn toàn đối lập nhau. Trong tiểu luận nổi tiếng Nông thôn và thành thị
(The country and the city), Raymond Williams ngay từ đầu đã khẳng định
“Nông thôn và thành thị là những từ ngữ đầy quyền lực và không có gì đáng

ngạc nhiên khi chúng ta nhớ ra nó hàm chứa bên trong bao nhiêu kinh nghiệm
của cộng đồng”. Ông khẳng định “Trên cơ sở sự định cư thực tế, cái mà lịch
sử sẽ làm biến dạng đi một cách đáng ngạc nhiên, những cảm thức quyền lực
tập hợp lại và trở nên phổ biến. Trong từ nông thôn tập trung ý niệm về
phương diện tự nhiên của đời sống: về sự thanh bình, hồn nhiên, trong trẻo và
15


thuần khiết. Trong từ thành phố dồn nén ý tưởng về trung tâm của nhưng
thành tựu: về học tập, giao tiếp và ánh sang. Những liên tưởng đối nghịch
mang tính quyền lực cũng liên tục phát triển: thành phố được xem như là
không gian của sự ồn ào náo nhiệt, và tham vọng trong khi nông thôn là nơi
lạc hậu, không gian của sự giới hạn và là miền đất bị lãng quên.”
Từ những đặc điểm mang tính vật chất, những ý niệm về nông thôn và
thành thị vẫn không ngừng sản sinh và từ bao giờ con người đã quen nhìn
nhận chúng như là những đặc tính tự nhiên. Thành thị- nông thôn là sự đối lập
ánh sáng và bóng tối. Không gian thị thành luôn tràn ngập ánh sáng, buổi tối
nơi phố phường thậm chí còn lung linh hơn bởi những biển hiệu và hệ thống
đèn chiếu sáng. Trong khi đó, ở nông thôn, khi ánh hoàng hôn vừa tắt cũng là
lúc những xóm làng lập tức chìm vào bóng tối sâu thẳm. Thành phố là hiện
thân của ánh sáng văn minh, của tri thức, của những thành tựu mới mẻ và hiện
đại. Ở thành phố, cuộc sống thay đổi từng ngày, thậm chí từng giờ, những
thành tựu liên tục được cập nhật, tiện nghi liên tục được thay thế với những
đặc điểm và tính năng vượt trội hơn. Trong khi đó, nông thôn mang một diện
mạo cố định, gần như không đổi thay. Những nếp nhà thấp, lũy tre làng, con
đường làng, cánh đồng quê thẳng cánh cò bay… đem đến cảm giác quen
thuộc, bình yên như cả nghìn năm rồi vẫn thế. Những câu ca dao xưa vẫn còn
đúng với cảm nhận về làng quê bây giờ dù diện mạo làng quê, nếp sống nếp
sinh hoạt cũng ít nhiều đổi khác. Làng quê và thành phố tạo thành những cặp
ý niệm cũ kĩ và mới mẻ, truyền thống và hiện đại, lạc hậu và văn minh, bền

vững và biến đổi, đơn giản và phức tạp… Nông thôn, với vẻ cũ kĩ của mình
thường đem đến cho con người cảm giác binh yên, thanh thản được trở về với
những giá trị bền vững. Nhân vật Thanh trong truyện Dưới bóng hoàng lan
của Thạch Lam từng cảm thấy hồn mình trong trẻo, bình yên vô cùng khi trở
về chốn làng quê, dưới bóng cây xanh mát và hương thơm dịu dàng của cây
16


hoàng lan từ ngày thơ bé, cảm nhận tình yêu thương, sự chăm sóc dịu dàng
của người bà như chưa từng trải qua những xa cách tháng năm. Trong văn
chương, xuất hiện rất nhiều môtip chán chường, rời bỏ đô thị để tìm về cuộc
sống bình yên nơi làng quê, thôn dã. Ngược lại, cuộc sống đô thị với đặc điểm
nổi bật là liên tục biến đổi thậm chí đổi thay một cách chóng vánh lại đem đến
cho người ta cảm giác bất an thường trực. Thành phố tuy nhiều nguy cơ
nhưng lại là nơi hấp dẫn và mới mẻ, là không gian rộng mở cho sự thể hiện,
thử thách tài năng cũng như những đam mê, ước vọng của con người. Nông
thôn tuy bình yên nhưng mặt khác lại gợi ra cảm giác về sự tù đọng, trì trệ,
giam hãm, giới hạn những khát vọng của con người. Bởi thế, trong đời sống
cũng như trong văn chương hành động rời nông thôn lên thành thị luôn là
hành động rời bỏ ao tù để vươn ra biển lớn, vượt ra ngoài bóng tối để tìm
kiếm ánh sáng, thoát ra khỏi sự giới hạn để tìm đến tự do, theo đuổi khát
vọng. Thành phố luôn hiện ra như một chân trời mơ ước, một miền đất hứa,
đích đến mời gọi khát khao dấn thân đô thị. Nhân vật Rastinhac trong bộ tiểu
thuyết Tấn trò đời đã rời bỏ quê hương đến Paris, đầu tiên ngưỡng vọng về nó
như một quầng sáng xa hoa sau đó từng bước từng bước tìm cách nhập vào
trong quầng sáng đó, trở thành một phần trong giới thượng lưu ở thành phố
này. Đầu thế kỉ XX, rất nhiều nhà thơ Mới đã rời làng quê lên đô thị, “Bỏ
vườn cam, bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành” (thơ Nguyễn Bính)
ôm giấc mơ xây đắp “mộng huy hoàng”. Rời nông thôn lên đô thị là phản ứng
tâm lý tất yếu của con người từ bóng tối hướng về ánh sáng, từ nơi lạc hậu

hướng về chốn văn minh. Nhưng trong đó còn có cả một giấc mơ đô thị, giấc
mơ đổi đời của những thôn dân thậm chí là cả một cơn cuồng say đô thịngưỡng vọng sự xa hoa và một thứ khao khát đến vĩ cuồng được thuộc về nơi
đó. Với miền không gian có tính chất hai mặt như thế, tất yếu sẽ có những
người đô thị tự hào một cách kín đáo, cũng có thể kiêu hãnh một cách phô
17


phang về cái mác “thị dân” của mình, cũng có những người chán ngán sự
phức tạp, ngổn ngang, bất trắc, những giá trị nhân tạo và đời sống cuồng quay
nơi thị thành. Nếu như hành động rời nông thôn lên thành thị không đơn
thuần là hành động dịch chuyển qua những miền không gian thì hành động rời
thành thị tìm về nông thôn cũng chứa đựng trong nó nhiều ý niệm tinh thần.
Đó là nỗi chán chường đô thị, quan niệm thành phố là nơi ở tạm, là chốn vong
thân, nông thôn mới là nơi trở về. Cảm giác bất an mà thành phố thời hiện đại
mang lại còn gắn với những bí mật, những âm mưu, thủ đoạn, những màn
kịch che đậy những tham vọng tăm tối… Trong tâm thức xã hội nảy sinh
thêm ý niệm về sự tha hóa đô thị và tất nhiên cả ý niệm về nông thôn tha hóa,
nhất là khi đối diện với sự xâm lăng của đô thị. Như vậy, thành phố không chỉ
là sự tập hợp, phân hóa cảnh quan không gian gắn với chức năng của chúng
trong đời sống của cư dân đô thị, thành phố còn là sự tập hợp những cảm giác
của con người về không gian, những quan niệm và cả những mơ ước mà con
người gán cho những không gian đó.
Trong tiểu luận Những thành phố vô hình (The Invisible City) nhà văn
Italo Calvino đã đánh thức diện mạo thực sự của một thành phố bằng cách đặt
nó trong những mối quan hệ giữa thành phố và kí ức, thành phố và những
khát vọng, thành phố và con mắt mà ta nhìn nhận nó… Thành phố là một hiện
tượng mang tính lịch sử. Thành phố nào cũng có quá khứ của riêng nó và quá
khứ ấy chưa bao giờ là cái đã xảy ra, đã kết thúc trọn vẹn tại một thời điểm và
vĩnh viễn không còn bất cứ mối quan hệ nào với hiện tại. Thành phố nào cũng
mang trong hiện tại của mình những dấu vết và âm vang của quá khứ. Italo

Calvino đã viết về nỗ lực miêu tả một thành phố như sau: “Thật vô vọng, hỡi
ngài Kublai đại lượng, làm sao tôi có thể cố gắng miêu tả Zaira, thành phố
của những thành lũy cao ngất. Tôi có thể nói cho ngài biết bao nhiêu bước để
tạo nên những con phố như những bậc cầu thang và độ cong của những mái
18


vòm hay loại kẽm nào được sử dụng để bao phủ các mái nhà, nhưng tôi ngay
lập tức nhận ra điều đó đồng nghĩa với việc chẳng nói với ngài bất cứ điều gì
cả. Thành phố không bao gồm những cái đó mà mang trong mình mối quan
hệ giữa những ước định không gian và những sự kiện xảy ra trong quá khứ…
Khi làn sóng kí ức tràn vào, thành phố ngâm mình trong đó và phình to ra như
một miếng bọt biển. Bất kì sự miêu tả nào về Zaira như nó hiện hữu hôm nay
đều bao gồm tất cả quá khứ của nó. Thành phố không nói về quá khứ của nó
mà mang quá khứ ấy trong mình như những đường chỉ tay trên một bàn tay,
quá khứ được viết trên những góc phố, những chấn song cửa sổ, lan can của
từng bậc cầu thang…” Thành phố hiện diện trước mắt ta hôm nay cho dù
không còn dấu tích những công trình của quá khứ thì những gì đã diễn ra vẫn
sống động trong dòng hồi tưởng, trong những câu chuyện kể về những gì đã
qua. Bản thân hành động ghi lại lịch sử một thành phố cũng là cất giữ một kỉ
niệm, cố định một hình ảnh, thậm chí kiến tạo nên một cả huyền thoại. Phần
lịch sử đó là kí ức chung của cả cộng đồng hay là phần kí ức tái tạo được cả
cộng đồng chấp nhận để rồi từ đó mỗi biến cố, mỗi dấu tích đều gợi nhắc một
hình dung, một cảm thức giống nhau. Trong thành phố đang hiện hữu của hôm
nay có bóng dáng của thành phố ngày hôm qua, thành phố từ hàng trăm thậm
chí hàng nghìn năm trước và tiềm tàng cả những giấc mơ về thành phố của
tương lai. Trong cuốn Hà Nội tiểu sử một đô thị, tác giả đã trích lại ý kiến của
Alan Balfour trong cuốn Tính chính trị của trật tự (The politics of orders) bàn
về sự phức tạp của trong diện mạo cũng như trong ý niệm về thành phố: “Sự
hiện diện của quá khứ đan xen bền chặt với niềm hứa hẹn của tương lai. Không

có giấc mơ trong sự biệt lập, tất cả đều được phản ánh và tác động trong một
vòng xoáy hỗn độn của sự tồn tại đã qua. Sự tích tụ này, trên mảnh đất và trong
tâm trí đã gây nên một sự lẫn lộn không thể nào hòa hợp được trong trật tự các
sự vật”. Sự tồn tại đồng thời trên nhiều khung tham chiếu không gian- thời gian
19


khiến cho thành phố giống một bức tranh chồng hình, và bất kì hình ảnh nào
của thành phố cũng chập chờn giữa bao nhiêu phiên bản.
Tuy nhiên thành phố không chỉ gắn với kinh nghiệm của cộng đồng mà
còn có mối quan hệ rất đặc biệt với những kinh nghiệm cá nhân, đặc biệt là
trải nghiệm của cá nhân với đời sống đô thị. Hơn bất kì miền không gian nào,
thành thị là nơi giải phóng mạnh mẽ những khát vọng cá nhân của con người,
nhịp sống đổi thay nhanh chóng càng khiến thành phố không bao giờ là một ý
niệm thuần nhất, trùng khít trong trải nghiệm của mỗi người. Với mỗi người
nó gắn bó một khác. Luôn có sự vênh lệch khi đặt thành phố trong kí ức cộng
đồng bên cạnh thành phố trong hồi tưởng của mỗi cá nhân và kí ức của mỗi cá
nhân cũng lưu lại những ấn tượng rất khác biệt về cùng một thành phố. Trên
nền thành phố như chúng ta thấy, như chúng ta biết có thành phố tuổi thơ của
mỗi người, có thành phố trong dòng hồi tưởng đứt nối của một trí nhớ đã
nhiều sai lệch, có thành phố ngập tràn tình yêu, có thành phố vụn vỡ những
mất mát, có thành phố ta hằng sống và vẫn hằng mơ, có thành phố xa xôi nơi
thiết tha một ngày được đặt chân đến, hay mong mỏi được thuộc về… Tất cả
những hình ảnh ấy phối trộn lẫn nhau trong một khả năng biến ảo vô tận để
đôi khi thành phố của ước mơ, của khát khao chưa chạm tay đến được trong
phút giây đã hóa thành kỉ niệm. Italo Calvino đã viết thành phố và khát vọng
trong hình thức một câu chuyện đời người: “Anh ta nghĩ về tất cả những điều
này khi khao khát mơ tưởng về thành phố. Insidora, vì thế, là thành phố trong
giấc mơ của anh ta với một điểm khác biệt. Thành phố mơ về ấy bao gồm cả
anh ta như một chàng trai trẻ, còn thực tế anh ta đến Insidora khi đã già. Ở

quảng trường có một bức tường nơi một người đàn ông già ngồi nhìn những
người trẻ đi qua, ông đã được xếp vào cùng một hàng với họ. Khát vọng ngay
lập tức trở thành kỉ niệm”

20


Câu trả lời thực sự cho câu hỏi “Thành phố là gì? Như thế nào là thành
phố?” sẽ phải làm nổi bật được diện mạo thành phố vừa là một thực thể vật
chất vừa là một ý niệm tinh thần, vừa là cái thực vừa là cái phi thực. Viết về
một thành phố phải làm thế nào miêu tả một thành phố hữu hình đồng thời gọi
dậy diện mạo của vô số những “thành phố vô hình”? Làm sao để thấy nó như
là một hình ảnh mang đậm dấu ấn thời gian hiện tại lại đồng thời là một hình
ảnh, một ý niệm xuyên thời gian nối dài từ quá khứ đến hiện tại và cả những
ước vọng tương lai? Hơn thế, thành phố còn là một ý niệm phi thời gian.
Paris- kinh đô ánh sáng là một ý niệm không tuổi. Hình ảnh Rome như là
thành phố tình yêu cũng là một hình ảnh hoàn toàn không có dấu ấn thời gian
và đã trở thành một phản xạ tự nhiên trong ý thức mỗi khi ta nghĩ về thành
phố này. Dù ở điểm thời gian nào thì ở Rome “nơi người ta yêu nhau trên
những bậc thềm” (trích dẫn trong phim “To Rome with love”) cũng chỉ có một
câu chuyện duy nhất- câu chuyện tình yêu. Hà Nội ngày nay cho dù đã phôi
pha, nhạt nhòa đi biết bao nhiêu nét văn minh, thanh lịch trên thực tế thì trong
suy nghĩ của chúng ta nó vẫn hiện diện kiêu hãnh “Chẳng thơm cũng thể hoa
nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Một thành phố luôn luôn
được tạo nên bởi phần diện mạo vật chất và diện mạo tinh thần. Tuy nhiên,
phần diện mạo vật chất không đơn giản chỉ là phần nổi, là lớp vỏ bên ngoài ẩn
chứa bên trong diện mạo tinh thần và diện mạo tinh thần cũng không chỉ là
phần chìm giấu mình ở bên trong. Chúng không phải là hai phần tách rời, được
đặt cạnh nhau, kết nối một cách lỏng lẻo. Mối quan hệ giữa hai phần trong diện
mạo một thành phố là sự gắn bó chặt chẽ mang tính triết học. Ở đó diện mạo

vật chất không thuần túy là hình thức mà là hình thức mang tính tinh thần và
cái tinh thần cũng không thuần túy là phần linh hồn vô hình, trừu tượng, khó
nắm bắt mà nó đã tìm được cách hiện diện trong không gian vật chất cụ thể của
thành phố. Cái tinh thần còn bao trùm lên toàn bộ không gian, một cách vô
21


thức chi phối đến sự cải tạo cảnh quan đô thị của chúng ta. Không gian sống
của chúng ta chính là sự chuyển hóa, sự hữu hình hóa những ý niệm tinh thần
và bất cứ sự thay đổi nào trên diện mạo vật chất của thành phố cũng ngay lập
tức sản sinh ra những cảm thức mới mẻ. Thành phố là một hiện tượng phức tạp
tự thân, vì thế sự xuất hiện của thành phố trong sang tác văn chương sẽ không
đơn giản chỉ là phản ánh một không gian thực trên trang sách.
1.2.

Diễn ngôn- những vấn đề chung
Thế kỉ XX là thế kỉ chứng kiến nhiều biến động trên hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội và đặc biệt là văn hóa, tư tưởng. Từ khoảng giữa
những năm 1960 đến nay, có một hướng nghiên cứu thu hút được sự chú ý
nhiều nhất của các học giả và cũng có ảnh hưởng quan trọng, toàn diện đến
nhiều ngành nghiên cứu khoa học xã hội thậm chí dẫn đến sự phát triển của
những nghiên cứu liên ngành như triết học khoa học, triết học nghệ thuật, sự
kết nối giữa nghệ thuật và khoa học, khoa học và tôn giáo… Đó chính là
hướng nghiên cứu diễn ngôn. Trong bài viết mang tính chất tổng thuật về
hướng nghiên cứu diễn ngôn “Các lí thuyết diễn ngôn hiện đại: Kinh nghiệm
phân loại”, tác giả O. F. Rusakova đã nhận xét: “Suốt cả thế kỉ XX, các khoa
học nhân văn vị các hiện tượng ngôn ngữ hút hồn. Nói theo Richard Rorty,
“ngôn ngữ chiêu mộ thế giới” và, tất nhiên, tri thức đáng tin cậy nhất về thế
giới đã được mã hóa trong ngôn ngữ. Nghiên cứu ngôn ngữ là chìa khóa để
nghiên cứu con người và thế giới. Định đề này được ghi nhớ như là cơ sở

phương pháp luận của các khoa học xã hội khác nhau và được trao cho danh
hiệu “bước mặt ngôn ngữ học”. Từ cuối những năm 1960, trước tiên, nhờ hệ
thống thuật ngữ và tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại và kí hiệu học được
quảng bá rộng rãi trong giới học thuật, “bước ngoặt ngôn ngữ” biến thành
“bước ngoặt diễn ngôn”’. Diễn ngôn không phải là một thuật ngữ hoàn toàn
mới mẻ, nó đã tồn tại từ trước trong hệ từ vựng của nhiều ngôn ngữ. Nó chính
22


là từ “discourse” trong tiếng Anh và “discours” trong tiếng Pháp. Cách hiểu
phổ biến về ý nghĩa của từ này trong đời sống cũng khá đơn giản. Đến khi
được hiểu như một thuật ngữ trong nghiên cứu khoa học, nội hàm ý nghĩa của
nó mới được mở rộng và trở nên phong phú hơn. Bản thân thuật ngữ diễn ngôn
đến giờ vẫn chưa thực sự cố định và thống nhất về mặt ý nghĩa, mỗi nhà nghiên
cứu, mỗi hướng nghiên cứu lại chọn khai thác một phương diện của nó, Cho
đến nay, diễn ngôn vẫn được xem là thuật ngữ năng động và có tính gợi mở cao
nhất cho nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn. Ở Việt Nam, hướng nghiên cứu
diễn ngôn tuy không hoàn toàn mới mẻ nhưng cũng chỉ mới đạt được những
thành tựu bước đầu. Chỉ riêng sự đồng thuận trong cách dịch thuật ngữ và
thống nhất tương đối về cách hiểu và diễn giải thuật ngữ giữa các nhà nghiên
cứu cũng phải trải qua một quãng thời gian khá dài mới có được. Sau đó, quá
trình vận dụng lí thuyết vào nghiên cứu diễn ngôn thơ ca, diễn ngôn tiểu thuyết,
diễn ngôn kí, diễn ngôn phê bình… cũng không phải là một khoảng thời gian
ngắn. Giờ đây “diễn ngôn” xuất hiện thường xuyên trên các bài báo, các công
trình nghiên cứu như một thuật ngữ thời thượng, hay đôi khi bị lạm dụng như
một thứ trang sức làm nên vẻ hiện đại và tân kì cho trang viết. Mặc dù vậy,
chúng ta vẫn cần phải thừa nhận rằng hướng nghiên cứu diễn ngôn đang mở ra
rất nhiều hướng đi tiềm năng cho nghiên cứu văn học nói riêng và nghiên cứu
văn hóa, xã hội ở Việt Nam nói chung.
1.2.1.


Bước ngoặt diễn ngôn
Lí thuyết diễn ngôn thực sự đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng
không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu mà còn làm thay đổi căn bản cái nhìn
của chúng ta về thế giới xung quanh. Nhiều nhà nghiên cứu còn đánh giá
bước ngoặt diễn ngôn như một sự thay đổi hệ hình tri thức và tư duy của con
người. Trước hết, việc thừa nhận thuật ngữ diễn ngôn đã thay đổi quan niệm
của chúng ta về bản thể. Sự thay đổi không chỉ diễn ra trong nhận thức của
23


con người về bản thế thế giới mà còn diễn ra trong chính nhận thức của chúng
ta về bản thân mình. Quan niệm về nhận thức của chúng ta từ trước đến nay
thường gắn với lí thuyết phản ánh. Theo đó, thế giới bên ngoài tồn tại khách
quan, hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, Tồn tại xã hội là cái có trước, ý thức ra đời sau, nhằm nhận thức những
yếu tố có trong thực tại. Lí thuyết phản ánh nhìn nhận tồn tại xã hội và ý thức
xã hội trong mối quan hệ nhân quả: tồn tại xã hội là nguyên nhân, là nơi khởi
sinh nhu cầu nhận thức, là cơ sở cho quá trình nhận thức còn ý thức xã hội
chính là kết quả của quá trình nhận thức đó. Trong mối quan hệ này, thực tế
không chỉ có vai trò định hình nhận thức của chúng ta mà còn là nơi kiểm
chứng tính đúng đắn của những nhận thức đó. Những tri thức được hình thành
trong quá trình con người khám phá, tìm hiểu thế giới đều phải đảm bảo phản
ánh đúng đắn chân thực những sự vật, hiện tượng đang diễn ra. Những quy
luật được đúc kết sẽ mãi mãi ở dạng giả thuyết mà không được thừa nhận nếu
như không chứng minh được sự phù hợp với các chu trình hoạt động của thế
giới trong thực tế. Chỉ khi ấy, những tri thức và quy luật mới được công nhận
là chân lí. Trong lí thuyết phản ánh, sự phù hợp, tương ứng giữa ý thức xã hội
với cái có trước nó là tồn tại xã hội chính là tiêu chuẩn của chân lí. Hai phạm
trù triết học quan trọng nhất mà phản ánh luận đề cao, đó chính là thừa nhận

sự chân thực và đặt niềm tin tuyệt đối ở chân lí. Chân lí là ý thức duy nhất
phản ánh chân thực và đúng đắn bản chất của thế giới xung quanh. Như vậy,
tất cả các hình thái ý thức xã hội như khoa học, chính trị, nghệ thuật, tôn
giáo… đều là sự phản ánh thực tại bằng phương tiện đặc trưng. Từ thời cổ
đại, trong cuốn Nghệ thuật thi ca, Aristotes đã xác định bản chất của văn
chương nằm ở sự mô phỏng thực tại. Trong những tiêu chí đưa ra để xác định
đặc trưng của thể loại bi kịch, ông có nhấn mạnh tính chất mô phỏng, bắt

24


chước hành động thực tế của con người, Phạm trù Mimesis trong văn học từ
lâu đã bị hiểu một cách máy móc là sự bắt chước đến xác thực.
Phát hiện và đề cao thuật ngữ diễn ngôn, các nhà nghiên cứu không phủ
nhận thực tại khách quan. Thế giới xung quanh chúng ta là tồn tại có thực và
độc lập với ý muốn chủ quan của con người, dù ta muốn hay không muốn thì
thế giới bên ngoài ta cũng đã sinh thành và vận hành như thế. Tuy nhiên, ý
thức của con người về thế giới không bao giờ là trọn vẹn khách quan và chân
thực tuyệt đối. Nhận thức của chúng ta luôn gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ.
Chúng ta nhận thức bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Tất cả những tri
thức, quy luật mà con người đúc kết được về thế giới từ trước đến nay đều
cho ta thấy diện mạo đầy ảo tưởng về một thế giới như nó vốn có. Tất thảy chỉ
là thế giới trong nỗ lực thể hiện bằng ngôn ngữ, thế giới như ta nói về nó, như
ta viết về nó. Thế giới khách quan vẫn tồn tại bên ngoài con người, vẫn là đối
tượng của nhận thức, tuy nhiên, nó chỉ được biết đến thông qua diễn ngôn. Và
bởi ý thức của con người về thế giới không phải là bức ảnh chụp, nhận thức
của chúng ta chưa bao giờ là nhận thức theo lối gương soi, bản chất của quá
trình nhận thức là sự tái tạo, phản ánh thông qua ngôn ngữ là thứ phản ánh
nhiều sai lệch nên những phạm trù mà chúng ta đặt vào đó nhiều niềm tin nhất
ngay lập tức bị hoài nghi: hiện thực, lịch sử, chân lý. Không có hiện thực

tuyệt đối mà chỉ có hiện thực của diễn ngôn. Không có chân lý tuyệt đối, chân
lý là những gì được xem là chân lý, dược tin là chân lý. Và lịch sử không
chỉnh xác là những gì đã xảy ra, nó chỉ là một trong vô số diễn ngôn về quá
khứ, một khả năng được cộng đồng đặt vào đó nhiều niềm tin nhất.
Cũng giống như nhận thức về thế giới, nhận thức về bản thân của
chúng ta không bao giờ nằm ngoài ngôn ngữ. Các nhà triết học ngôn ngữ đã
chỉ cho chúng ta thấy rằng “ngôn ngữ là ngôi nhà của tồn tại”, chúng ta gọi
tên mình, định nghĩa mình, tất cả đều bằng ngôn ngữ, chúng ta tồn tại trong
25


×