Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Xu hướng phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại thị trường việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.59 KB, 31 trang )

Việt Nam được biết đến là một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế cao,
chính trị ổn định, thu hút sự chú ý của khơng ít các nhà đầu tư nước ngoài, đặc
biệt là một trong những thị trường đông dân, với kết cấu dân số trẻ và nhu cầu
mua sắm ngày càng tăng thì lĩnh vực phân phối bán lẻ dường như trở thành một
miếng bánh béo bở cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.Sau khi trở
thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO),Việt Nam đã tiến hành
gỡ bỏ dần rào cản về thuế quan, đưa ra các chínhsách đãi ngộ với các doanh
nghiệp nước ngồi nhằm tiến hành xây dựng mơi trường kinh doanh bình đẳng
và thuận lợi theo đúng với những nguyên tắcđã cam kết khi gia nhập vào tổ chức
này. Điều này đem lại lợi ích hay thách thức như thế nào? Ảnh hướng đến xu
hướng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam ra sao? Ta sẽ tìm
hiểu điều đó qua bài tiểu luận này.

1


I.
1.

Khái quát chung về thị trường bán lẻ tại Việt Nam:
Thị trường Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư:

Ngay từ khi tiến hành đẩy mạnh các chính sách mở cửa thị trường trong
quá trình xin gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành một “điểm nóng” cho các
nhà đầu tư mong đợi, đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối bán lẻ. Với hơn 86
triệu dân, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhậpvà đời sống của người
dân ngày càng được cải thiện, tiêu dùng cá nhân tăng ngay cả trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn cầu…, các chuyên gia nhận định, thị trường phân phối
bán lẻ của Việt Nam đang phát triển nhanh nhất trong khu vực châu Á. Năm
2009, mặc dù phải chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế tồn
cầu, song tổng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụtiêu dùng ở Việt


Nam vẫn tăng 18,6% (khơng kể yếu tố tăng giá thì tăng 12%) so với năm trước.
Qua 7 tháng đầu năm 2010, tổng doanh số bán lẻhàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng của Việt Nam ước tính đã đạt877.500 tỷ đồng, tăng 26,4 % so với
cùng kỳ năm 2009 (không kể yếu tốtăng giá thì tăng 16,3%).Lĩnh vực phân
phối, bán lẻ hiện đóng góp khoảng 14% GDP của Việt Nam (khoảng hơn 20 tỷ
USD), sử dụng hơn 5 triệu lao động (cao nhất trongcác ngành dịch vụ). Theo
báo cáo khảo sát đánh giá xếp hạng toàn cầu về thịtrường phân phối bán lẻ của
một số tổ chức chuyên môn quốc tế, năm 2009Việt Nam xếp thứ 48/211 nền
2


kinh tế về sức hấp dẫn; đến tháng 6/2010, sứchấp dẫn của thị trường phân phối
bán lẻ Việt Nam tiếp tục tăng thêm 2 bậc so với năm 2009.
Trong nền kinh tế thị trường, phân phối là khâu kết nối sống cịn giữa sản
xuất và tiêu dùng. Có bốn loại hình chủ yếu của dịch vụ phân phối: đại lý hoa
hồng, bán buôn, bán lẻ và nhượng quyền thương mại, về mặt kinh tế hằng năm
đóng góp đáng kể vào GDP và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao
động.
Cùng với tiến trình tự do hóa thương mại, việc mở cửa dịch vụ phân phối
nói chung và dịch vụ bán lẻ nói riêng là xu thế tất yếu để các quốc gia có thể tiếp
cận và tham gia vào hệ thống phân phối hiện đại toàn cầu...
Sau hơn 4 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ trong lĩnh vực phân phối. Chỉ xét riêng lĩnh vực bán lẻ, thị trường Việt Nam
được đánh giá là đầy triển vọng, có sức hút lớn đối với các doanh nghiệp, nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường bán lẻ liên tục phát triển với tốc độ cao
từ 20% đến 25% qui mô, tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt từ 750.000800.000 tỷ đồng những năm 2006-2008, lên trên 1 triệu ngàn tỷ đồng năm 2010.
Năm 2011 mặc dù kinh tế khó khăn, giá cả tiêu dùng cao, sức mua giảm nhưng
vẫn có thể đạt 1,3 triệu ngàn tỷ đồng. Theo số liệu thống kê, lĩnh vực bán lẻ
hàng hố-dịch vụ đã đóng góp khoảng 15% GDP, doanh số bán lẻ bằng 60-70%
GDP, góp phần tăng trưởng kinh tế trong những năm qua. Về các loại hình bán

lẻ hiện đại, nếu như năm 2005 Việt Nam chỉ có trên 200 siêu thị, 30 TTTM tại
30/64 tỉnh và thành phố thì đến hết năm 2009, con số này đã là 445 siêu thị, 78
TTTM và khoảng 2.000 cửa hàng tiện lợi tại khắp 63 tỉnh và thành phố.
Giá trị hàng hóa lưu thơng qua chợ chiếm khoảng 40%, qua các loại hình
phân phối hiện đại chiếm khoảng 15 - 20%. Theo kết quả khảo sát và cơng bố về
Chỉ số phát triển bán lẻ tồn cầu (GRDI) của Hãng AT Kearny, thị trường bán lẻ
3


Việt Nam luôn đứng ở thứ hạng cao về mức độ hấp dẫn trong đầu tư (năm 2008
đứng thứ nhất, năm 2009 đứng thứ 6 và năm 2010 đứng thứ 14). Triển vọng về
dài hạn của Việt Nam trong bảng xếp hạng GRDI vẫn rất tích cực.
2. Đánh giá về các yếu tố tạo điều kiện để phát triển hệ thống phân phối bán
lẻ tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
2.1. Các yếu tố thuận lợi:
2.1.1. Kinh tế:
Thứ nhất, kinh tế Việt Nam được đánh giá là phát triển bền vững với
tốcđộ tăng trưởng cao qua các năm, GDP năm 2006 là 8,17% và tăng lên 8,48%
vào năm 2007. Cuối năm 2008, thế giới đã phải chứng kiến cơn bão suy thoái
kéo theo sự sụt giảm về mức tăng trưởng kinh tế của tồn thế giới, tiềm lực tài
chính của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tuy vậy, kinh tế Việt
Nam đã nhanh chóng vượt qua khủng hoảng với con số khá ấn tượngdoanh số
bán lẻ dịch vụ đạt 1.200 nghìn tỷ VNĐ (2009) tương ứng với mức11%. Nhờ đó
các chuyên gia kinh tế đã đưa ra đánh giá lạc quan cho sự pháttriển cho ngành
phân phối bán lẻ vào năm 2010 với mức lưu chuyển hànghóa dịch vụ dự kiến sẽ
tăng lên 20% ứng với 1.440 nghìn tỷ đồng và hứa hẹnlà thị trường tiềm năng mà
các doanh nghiệp nước ngoài hướng đến.
Thứ hai , việc Việt Nam gia nhập tổchức thương mại WTO đồng nghĩa
vớiviệc các rào cản kinh tế bị gỡ bỏ, cácdoanh nghiệp đã có thể tự do tiếp cậnvà
tiến hành khai thác thị trường. Cácchính sách của nhà nước cũng đã thơngthống

hơn rất nhiều, tạo điều kiệnthuận lợi để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ ở
Việt Nam, điều nàykhông chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp thuộc ngành
mà quan trọnghơn là sẽ tạo cơ hội phân phối hàng Việt đến tận tay người tiêu
dùng Việt tốt nhất
Thứ ba, ngành cơng nghiệp sản xuất hàng hóa của nước ta đã có rấtnhiều
tiến bộ như sự ra đời của các khu cơng nghiệp, các nhà máy có quymơ sản xuất
lớn, hay tập đồn lớn trong ngành Hịa phát, gạch Đồng Tâm,Duy Lợi, Việt Tiến
4


hay các hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm sạch, nướcgiải khát… Việc xuất
hiện các sản phẩm mang thương hiệu nội đang dần lấyđược niềm tin của người
dân đã tạo ra nhu cầu địi hỏi một kênh phân phốihàng hóa bán lẻ tiện dụng là rất
lớn. Mà các nhà đầu tư vào lĩnh vực nàycũng sẽ không phải lo lắng về việc cung
cấp hàng hóa đầu vào.
2.1.2. Xã hội
Hiện nay Việt Nam có khoảng 84 triệu người, với 75% dân số Việt
Namsống ở nông thôn dẫn đến sự chuyển dịch dân cư vào các trung tâm đô
thịlớn diễn ra khá mạnh mẽ. Đáng nói hơn, Việt Nam lại là nước có kết cấu
dânsố trẻ 65% người dân đang ở độ tuổi lao động với hơn ½ ở độ tuổi 30 – là
độtuổi có mức chi tiêu cho mua sắm nhiều nhất. Chính những điều này đã
tácđộng khơng nhỏ đến thó quen tiêu dùng tại thị trường nước ta hiện nay,
mứctiêu thụ hàng hóa đã tăng cao.Bên cạnh đó, thu nhập của ngườidân đã cao
hơn trước. Hiện có khoảng1% dân số thuộc tầng lớp thu nhập rấtcao gọi là “
vinavalet” sẽ là lực lượng kích thích sự gia tăng sử dụng hàng hóa xa xỉ (như xe
hơi BMW, đồng hồSwatch, Titan, hàng nội thất sangtrọng…) Đây cũng chính là
lượng người có mức tiêu thụ lớn nhất và qua đó cũng giúp đẩy mạnh mức tiêu
thụ. Các chuyên gia cho rằng chỉ 5 đến 6 nămnữa thơi thì sự tồn tại của các
“vinavalet” sẽ chiếm đến 10% dân số, chínhđiều này đã hứa hẹn một thị trường
tiêu dùng Việt Nam đầy tiềm năng.

Lượng người tiến hành mua sắm qua kênh bán lẻ hiện đại ngày càngtăng,
đặt biệt giới trẻ đang nghiêng về xu hướng thích mua sắm qua mạnginternet, đặt
hàng qua truyền hình hoặc shopping tại các trung tâm thươngmại lớn. Từ năm
2007 có 66% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua sắm tạisiêu thị, thì cuối 2008
con số này đã lên tới 96%. Tần suất mua sắm tại cửahàng tiện ích, siêu thị cũng
ngày càng tăng, từ 2, 3 lần/tháng trong năm2008, và nâng lên 4 – 5/tháng trong
năm 2009
2.1.3. Cơ sở hạ tầng
5


Trong những năm gần đây thì cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã có sự đầu tưrất
lớn. Sự ra đời của các tòa nhà thương mại, các trung tâm mua sắm haycác chung
cư cao cấp tạo thuận lợi cho hệ thống các siêu thị lớn nhanhchóng ra đời (ví dụ
như Zen plaza, Sai gon Coorpmark, fivi mark…) vớicác trang bị nội thất hiện
đại, thái độ phục vụ chuyên nghiệp và nhiệt tìnhcủa nhân viên, khơng những thế,
các trung tâm này còn kết hợp cả việc muasắm và vui chơi giải trí của người dân
thành thị. Bên cạnh đó, hệ thốngđường xá được cải tạo và xây mới đã tạo sự tiện
lợi trong di chuyển và lưuthơng hàng hóa bớt đi một vấn đề cho các nhà bán lẻ
khi muốn vào thịtrường Việt Nam.

6


7


8



9


10


11


12


13


14


15


16


17


2.2. Khó khăn
2.2.1. Thói quen tiêu dùng của người Việt.
Bên cạnh thế mạnh về dân số, thì thị trýờng Việt Nam khiến các nhà phân

phối lớn phải đau đầu. Với thói quen “ Ăn một bát cháo chạy ba quãngđường”,
người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận “ đi xa để mua được hàng hóarẻ” hơn rất ít
so với các trung tâm thương mại. Hơn thế nữa, phần đôngngười dân của chúng
ta lại có mức thu nhập thấp đến trung bình nên họ quenthuộc với hình thức mua
hàng tại các cửa hàng bách hóa nhỏ lẻ, hay các chợ trời, chỉ tính đến cuối năm
2008 đã có đến 9000 chợ tồn tại, chi có 13%lượng người chấp nhận mua sắm ở
các kênh phân phối hiện đại.Hơn thế nữa, thời gian vừa qua thế giới đã chứng
18


kiến sự sụp đổ củahàng loạt thể chế kinh tế lớn. Chính điều này đã tạo nên tâm
lý lo ngại, hànhđộng thắt chặt chi tiêu của không chỉ người dân Việt Nam mà đó
là xuhướng chung của người tiêu dùng trên toàn thế giới khiến cho thị trường
bánlẻ đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn để kích thích người dân tăng
tiêudùng.
2.2.2 Sức ép mở cửa
Tại cuộc hội thảo “Tác động của mở cửa thị trường tới mạng lưới
phân phối hàng hóa của Việt Nam hậu WTO” diễn ra đầu tháng 8/2010 ở TP.
Đà Nẵng, với sự giúp đỡ của Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP III,do
EU tài trợ), các chuyên gia cho biết: “Sau hơn một năm (kể từ 1/1/2009)mở cửa
thị trường bán lẻ cho các DN 100% vốn nước ngoài hoạt động, đếnthời điểm này
các tập đồn bán lẻ quốc tế đã khơng ồ ạt xâm nhập Việt Namnhư dự đoán”.Tuy
nhiên, các chuyên gia cũng nhận định, việc các “ông lớn” phân phối bán lẻ thế
giới chưa “đổ bộ” nhiều vào Việt Nam có thể do tác độngcủa khủng hoảng kinh
tế thế giới chưa hết, các thủ tục mở rộng kinh doanh bán lẻ ở Việt Nam còn hạn
chế và phức tạp, hoặc họ đang thăm dò thịtrường. Với tiềm năng lớn cùngnhững
cam kết mở cửa thị trườngtiếp tục được thực hiện, lĩnh vực phân phối bán lẻ ở
Việt Nam vẫn sẽlà “mảnh đất màu mỡ” các nhà kinhdoanh bán buôn, bán lẻ
hàng đầu thếgiới sẽ khai thác trong tương lai. Hiện một số tập đoàn bán lẻ lớn
trên thếgiới như Metro Cash&Carry (Đức), Big C và Bourbon (Pháp),

Parkson(Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Walmart (Mỹ)… đã có mặt ở
Việt Nam.Điểm mạnh của các nhà bản lẻ nước ngoài đang hoạt động tại Việt
Namlà hầu hết các siêu thị của họ đều có quy mơ lớn, mặt bằng kinh doanh
trên10.000m2, được đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại như hệ
thốnglogicstics, hệ thống tin học, hệ thống kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị
kiểmtra, bảo quản hàng hóa theo tiêu chuẩn, có hệ thống cung cấp hàng hóa
đadạng, kỹ thuật kinh doanh hiện đại với các chương trình khuyến mại, bánhàng
độc đáo, có hệ thống quản lý bán hàng tốt giảm được mất mát và lượnghàng tồn
kho…Trong khi đó, siêu thị của các DN trong nước thường có quy mơ
19


khônglớn, thiếu mặt bằng kinh doanh, thiếu vốn, cơ sở hạ tầng thấp kém (đặc
biệtlà hệ thống logicstics, hệ thống tin học…), kỹ thuật kinh doanh còn hạn
chế,chất lượng dịch vụ thấp, qui mơ nhỏ khó khăn trong quan hệ với các
nguồncung cấp sản phẩm, thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao… Tuy cơ sở
hạtầng đã được đầu tư để thay đổi rất nhiều nhưng để xây dựng được một
trungtâm mua sắm có quy mơ phù hợp với mơ hình mà các đại gia lớn như Big
C,
Zen Plaza hay Walt – mark yêu cầu còn rất hạn chế. Như tính đến thời
điểmhiện nay, chỉ có ít nhất 7 trung tâm thương mại tại thành phố Hồ Chí
Minhcó mặt bằng hơn 8.000 m2 tổng diện tích cho th, khơng những thế,
mứcgiá mặt bằng là khá đắt, cụ thể là từ 15 - 100 USD/m2/tháng.Bà Đinh Thị
Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam(AVR) thừa nhận:
“Công nghệ bán lẻ của Việt Nam còn sơ khai, non kém.Số lượng thương hiệu
bán lẻ tương đối mạnh của Việt Nam còn chưa nhiều, phong cách bán lẻ tiểu
thương thiếu chun nghiệp cịn phổ biến, việc ứng dụng cơng nghệ thông tin và
thương mại điện tử của các nhà bán lẻ Việt Nam chưa phát triển”.
Trước thực trạng non kém của hệ thống phân phối bán lẻ trong nước, đãcó
ý kiến cảnh báo nguy cơ khu vực phân phối bán lẻ Việt Nam sẽ bị cácnhà đầu tư

nước ngoài lấn át trong tương lai và lan rộng sang cả lĩnh vực bán buôn tác động
đến sự đảm bảo ổn định vĩ mơ của tồn bộ mạng lưới sản xuấtvà tiêu dùng.

20


2.2.3. Thủ tục để tiến hành tham gia kinh doanh vào lĩnh vực này
Theo như cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành mở cửahoàn
toàn cho ngành phân phối bán lẻ, 01/01/2009, chính phủ đã cho phépsự tham gia
của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vào thị trường bán lẻ Việt Nam.
Thế nhưng trong thủ tục cấp phép đầu tư và thành lập cơ sở bán lẻ lại có một số
vấn đề chưa được rõ ràng. Theo quy định tại Nghị địnhsố 23, để được cấp phép
đầu tư thì cần có sự chấp thuận của Bộ CôngThương trong từng trường hợp cụ
thể. Quy định này nằm ngồi thủ tục cấp phép thơng thường đã xây dựng nên
rào cản mới về pháp lý trong đầu tư.Theo nội dung các cơng văn của Bộ Cơng
Thương thì “kinh nghiệm quảnlý”,“năng lực kinh doanh” và “khả năng tài
chính” của nhà đầu tư nướcngoài là điều kiện cấp phép mới, trong khi các tiêu
chí này lại chưa được ghi nhận và định lượng cụ thể trong bất kỳ tài liệu pháp lý
nào. Trong thủ tụctiến hành cấp phép cơ sở bán lẻ thì quyết định 10 quy định:
“Quyền phân phối của nhà đầu tư nước ngoài gắn với quyền được lập cơ sở bán
lẻ thứnhất, việc lập thêm cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất được xem
xéttrên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT)”. Tuy nhiên, trên thực tế lại
khơngcó ngoại lệ nào đối với “quyền được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất”, nghĩa là
việcthành lập cơ sở bán lẻ nói chung và cơ sở bán lẻ thứ nhất nói riêng trong
mọitrường hợp đều là đối tượng kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) và phải được
sựchấp thuận của Bộ Cơng Thương. Ngồi ra, trong một công văn của BộCông
Thương, ngay cả trong trường hợp cơ sở bán lẻ đang hoạt động hợp pháp của
doanh nghiệp cũng sẽ bị kiểm tra nhu cầu kinh tế khi doanh nghiệpđăng ký
chuyển nhượng phần vốn góp cho nhà đầu tư nước ngồi. Việc sửdụng cơng cụ
“Kiểm tra nhu cầu kinh tế” trong trường hợp này là đã đi quáxa so với mục tiêu

và ý nghĩa tồn tại của các tiêu chí “Kiểm tra nhu cầu kinhtế” mà WTO cho phép.
II Xu hướng phát triển hệ thống phân phối bán lẻ tại thịtrường Việt Nam.

21


Thị trường bán lẻ tại Việt Nam xuất hiện những xu hướng mới đặc biệtsau
khi Việt Nam gia nhập vào WTO và mở cửa hoàn toàn thị trường này từ ngày 1/
1/ 2009.
1.Tiến hành hoạt động sát nhập giữa các doanh nghiệp
Không phải chờ tới khi Việt Nam gia nhập WTO thì các doanh
nghiệp bán lẻ Việt Nam cũng đã cảm thấy được sức ép lớn từ phía các doanh
nghiệpnước ngồi. Theo lộ trình hội nhập WTO, năm 2009 sẽ là năm bắt đầu
chocuộc thay đổi lớn đối với thị trường bán lẻ tại Việt Nam với việc các
22


tậpđồn, nhà đầu tư quốc tế sẽ có thể thành lập cơng ty bán lẻ 100% vốn
nướcngồi thay vì phải xin phép hoặc liên doanh như trong giai đoạn 2006
-2009. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong nước phảiđối
mặt trực tiếp với các tập đoàn đa quốc gia mạnh về tài chính, nguồn lực,cách
quản lý hiện đại và tiềm lực vượt trội về thị trường. Do đó việc sát nhậpvà liên
kết giữa các doanh nghiệp trongnước là xu hướng tất yếu của nghànhcông
nghiệp bán lẻ trong môi trườngkinh doanh mới như hiện nay. Tiêu biểulà cuộc
sát nhập giữa bốn doanh nghiệplớn trong nước là tổng công ty thươngmại Hà
Nội (Hapro), tổng cơng tythương mại Sài Gịn (Satra), liên hiệp Hợp tác xã
thương mại Sài Gòn(Saigon Co.op), cơng ty cổ phần tập đồn Phú Thái (Phu
Thai Group) hợptác thành công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân
phối Việt Nam (VDA). VDA ra đời nhằm liên kết các nhà phân phối lớn của
Việt Nam, làm nòng cốt cho phân phối nội địa và bổ trợ lẫn nhau trong các

giải pháp tổng thể về kho vận, giữ vai trị chủ đạo trong lưu thơng hàng hố
vàđủ sức cạnh tranh với các tập đồn phân phối nước ngoài. VDA sẽ tập
trung vào việc xây dựng và phát triển chuỗi các Trung tâm Thương mại, các
Đạisiêu thị với các thương hiệu và đẳng cấp khác nhau, hình thành hệ thống
cơ sở hạ tầng thương mại để tạo điều kiện cho việc tổ chức lại hệ thống
bán buôn, phân phối và bán lẻ.
2.Bùng nổ thương mại điện tử.
Thương mại điện tử hay e-commerce bao gồm một loạt các hoạtđộng kinh
doanh trực tuyến đối vớicác sản phẩm và dịch vụ, giữa bảnthân các doanh
nghiệp cũng như giữadoanh nghiệp với khách hàng thơngqua Internet. Lợi ích
của thương mại điện tử đối với dịch vụ bán lẻ thể hiệnrất rõ trên các mặt như:
tăng được năng suất do việc quản lý mua sắm và khodự trữ đạt hiệu quả cao hơn
(kiểm kê hàng hố khơng cần giấy tờ) hoặc docải thiện được hệ thống kênh phân
phối trong và ngoài nước, tiết kiệm đượcchi phí giao dịch, đem lại cảm giác
thoải mái, tiện lợi khi mua hàng, tăngcường hiệu quả quảng cáo, marketing bán
23


hàng và thanh toán tiền hàng, tăngnhanh khả năng phổ biến và tiếp thu công
nghệ mới... Thương mại điện tử bán lẻ với tính cách mạng tiên tiến và những ưu
thế ngày càng vượt trội làmục tiêu lớn vươn tới của hệ thống bán lẻ của Việt
Nam. Dự báo trong vòng5 - 10 năm tới, tuy các cửa hàng bán lẻ truyền thống
vẫn đóng vai trị chủđạo trong việc tạo ra doanh số của bán lẻ nhưng tỷ trọng
của hình thức bánlẻ ảo sẽ tăng lên nhanh chóng và đạt được thị phần đáng kể.
Hơn thế nữa Ebay vừa hợp tác với Công ty (chủ website www.chodientu.com)
tạo nênkhu chợ “ảo” với hàng chục nghìn lượt giao dịch mỗi ngày càng cho
thấynhững bước tiến đáng kể trong lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, theo trung tâm Internet Việt Nam, hiện tại có 15 triệu người
Việt Nam sử dụng Internet và trong 3 nămtới, con số này có thể lên tới 30
triệu.Thị trường rộng lớn đó, kết hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ là

tiềnđề cho sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử trong xu thế phát
triểncủa hệ thống phân phối bán lẻ.
3.Kết hợp chức năng vừa là bán lẻ vừa là bán bn.
Đó là xu hướng kết hợp giữa bán buôn và bán lẻ. Trên thế giới đặc biệtlà
Mỹ và EU thường kết hợp hai chức năng này tại một điểm bán hàng vớicác
phương thức đơn giản nhằm giảm chi phí về dịch vụ và mang tính cơngnghiệp
cao. Ở Việt Nam hình thức này mới bắt đầu hình thành nhưng đượcdự đoán là
xu hướng phát triển mới của nghành phân phối Việt Nam nóichung và hệ thống
bán lẻ Việt Nam nói riêng. Hình thức này ở nước ta tồntại dưới dạng các trung
tâm thương mại hay các đại siêu thị ngày càng tíchcực tham gia dịch vụ bán
bn. Sự kết hợp này giúp doanh nghiệp vừa nângcao lợi nhuận, vừa nắm bắt
nhanh chóng nhu cầu xã hội để kịp thời đề rachiến lược kinh doanh tốt nhất.
Siêu thị bán buôn Metro là một trong nhữngdoanh nghiệp nước ngoài đi tiên
phong về xu hướng này và có những thànhcơng đáng kể.
4.Tăng thêm các dịch vụ nhằm thỏa mãn khách hàng
Có một số nhận định cho rằng bán lẻ là một nghành rất đặc thù vì nó là
hỗn hợp giữa sản phẩm và dịch vụ. Do vậy, để làm hài lòng khách hàng,ngoài
24


yếu tố sản phẩm, chất lượng phục vụ cũng có tầm ảnh hưởng rất lớn.Trong môi
trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, bên cạnh việc đảm bảohàng hoá phong
phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng, giá cả hợp lý, doanhnghiệp nào có
dịch vụ khách hàng tốt hơn thì khả năng thành cơng sẽ caohơn. Với nhận thức
như trên thì hiện nay các doanh nghiệp tìm mọi cách đểgia tăng các dịch vụ
trong và sau khi bán hàng. Có dịch vụ trực tiếp diễn ratrong quá trình bán hàng
như: dịch vụ bao bì, đóng gói; vận chuyển hàng tậnnhà; bảo hành sửa chữa ...
Có dịch vụ phục vụ cho sự tiện lợi của kháchhàng như kết hợp giữa nơi bán
hàng và nơi giải trí, có chỗ cho con trẻ vuichơi trong khi người lớn mua hàng
(có thể là phịng chiếu phim, chơi games, phịng vẽ tranh…).

5.Hướng về thị trường nơng thôn.
Ở Việt Nam, khu vực nông thôn chiếm 62,5% GDP,với trên 74% dân
số(khoảng 64 triệu người) . Với số lượng khách hàng sẵn sàng tiêu dùng
nhiềugấp ba lần khu vực thành thị và nhu cầu mua sắm ngày càng cao, rõ ràng
thịtrường nơng thơn nước ta có tiềm năng rất lớn. Tuy vậy thì thị trường
vẫnchưa được khai thác một cách hiệu quả. Người dân nông thôn khi tiếp
cậnmột sản phẩm, hàng hóa thường ít quan tâm tới thương hiệu hơn người
dânthành thị. Vì vậy, doanh nghiệp chưa có thương hiệu tại thị trường nội địa
cónhiều cơ hội để xâm nhập và hạn chế việc đối đầu trực tiếp với doanh
nghiệpcó thương hiệu trong giai đoạn đầu. Bên cạnh đó khơng khó tính như
thịtrường thành thị, thị trường nơng thơn được coi là dễ tính hơn. Yếu tố đầutiên
thu hút đối tượng khách hàng này chính là giá cả. Cùng một loại sản phẩm, chỉ
cần nhãn hiệu này giá đắt hơn một chút là lập tức người tiêu dùngnông thôn sẽ
chuyển sang mua nhãn hiệu khác rẻ hơn. Tuy nhiên, với mứcsống ở nhiều khu
vực nông thôn đang ngày càng được cải thiện thì yêu cầuvề chất lượng sản phẩm
cũng ngày càng tăng.
6.Sự phát triển về nhượng quyền thương mại.
25


×