Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đề tài Phân tích lí thuyết cạnh tranh mang tính độc quyền liên hệ thực tiễn nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.03 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, cơ chế thị trường đang chi phối nền kinh tế thế giới, quyết định sức
A.

mạnh của mỗi quốc gia. Môn học kinh tế vi mô là một môn khoa học cơ sở, nghiên
cứu bản chất của hiện tượng kinh tế, tính quy luật và xu hướng vận động của các
hiện tượng và quy luật kinh tế thị trường, như chi phí cơ hội, cung cầu, co dãn, sản
xuất, phân phối,… trong đó có sự vận động của các loại thị trường. Khi xem xét
góc độ cạnh tranh và độc quyền, tức là xem xét hành vi của thị trường, các nhà
kinh tế phân loại thành các cấu trúc sau: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường
độc quyền và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. trong đó, cạnh trong mang
tính độc quyền nằm trong cấu trúc thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong
bài này, em xin trình bày về “ Phân tích lí thuyết cạnh tranh mang tính độc
quyền – liên hệ thực tiễn nền kinh tế Việt Nam” trong lĩnh vực nông chế biến cà
phê. Bài làm còn nhiều thiếu saots mong thầy cô góp ý để em hoàn thiện hơn!

B.

I.

NỘI DUNG

LÍ THUYẾT VỀ CẠNH TRANH MANG TÍNH ĐỘC QUYỀN.
1. Khái niệm cạnh tranh mang tính độc quyền.

Thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền là một cấu trúc thị trường vừa có
tính chất của một thị trường cạnh tranh, vừa có tính chất của một thị trường độc
quyền. Trên thị trường có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động. Vì thế, giống như
thị trường cạnh tranh hoàn hảo, quy mô của mỗi doanh nghiệp đều tương đối nhỏ
so với quy mô chung của thị trường. Trong ngành lợi thế kinh tế nhờ quy mô là
tương đối nhỏ, không đòi hỏi sự tập trung sản xuất vào một số ít doanh nghiệp.




Nó có những đặc trưng nổi trội sau đây:
- Thứ nhất, mỗi doanh nghiệp đều sản xuất ra một loại sản phẩm khác biệt với
sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác. Xét theo nghĩa nào đó, một doanh
nghiệp là nhà sản xuất độc quyền về loại sản phẩm của mình.. Đây chính là đặc
điểm nổi bật của thị trường này. Chính đặc điểm này người ta phân biệt nó với thị
trường cạnh tranh hoàn hảo. Do cung cấp một sản phẩm có tính khác biệt so với
sản phẩm của các đối thủ, doanh nghiệp ít nhiều vẫn có quyền lực thị trường, có
khả năng chi phối giá. Trong một giới hạn nhất định, nó có khả năng tăng giá sản
phẩm của mình mà vẫn không sợ bị mất đi những khách hàng quen. Tuy các sản
phẩm này có thể dễ dàng thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải thay
thế hoàn hảo. Nói cách khác, độ co dãn của cầu theo giá chéo là cao nhưng không
phải là vô cùng.
- Thứ hai, các doanh nghiệp có khả năng tự do gia nhập cũng như rút lui khỏi
ngành. Những rào cản pháp lý cũng như kinh tế đối với sự gia nhập ngành là không
tồn tại. Vì đặc điểm này, khi lợi nhuận của các doanh nghiệp hiện hành trong
ngành là dương, các doanh nghiệp mới sẽ bị thu hút nhập ngành. Ngược lại, khi
các doanh nghiệp hiện hành đang trong tình trạng bị thua lỗ, một số doanh nghiệp
sẽ rút lui khỏi ngành.
Trên thực tế, các thị trường như dịch vụ bán lẻ, dịch vụăn uống, sách, nhà
nghỉ… có thể xếp vào dạng thị trường này.
2. Cân bằng trong ngắn hạn
Giống như độc quyền bán, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền đứng trước
đường cầu dốc xuống và có thể có sức mạnh độ quyền bán. Tuy vậy điều này
không có nghĩa là các doanh nghiệp độc quyền chắc chắn thu được lợi nhuận lớn.


cạnh tranh độc quyền tương tự như cạnh tranh hoàn hảo là có sự tự do gia nhập, vì
vậy khả năng thu được lợi nhuận sẽ cuốn hút các doanh nghiệp mới với các mặt

hàng cạnh tranh tham gia vào thị trường, làm cho lợi nhuận giảm xuống.
Vì sản lượng của doanh nghiệp khác với đối thủ cạnh tranh nên đường cầu của
doanh nghiệp dốc xuống dưới. Đây là đường cầu của doanh nghiệp cứ không phải
đường cầu của thị trường, Đường cầu của thị trường dốc hơn rất nhiều. Sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn QSR được xác định ở điểm cắt của đường chi phí bình


quân, nên doanh nghiệp thu được lợi nhuận.

3. Cân bằng dài hạn
Tình trạng các doanh nghiệp hiện hành trong ngành thu được lợi nhuận kinh tế
dương hay bị thua lỗ không thể tồn tại lâu dài. Khi các doanh nghiệp đang có lợi
nhuận dương, về dài hạn, điều đó sẽ hấp dẫn các doanh nghiệp mới nhập ngành. Số
lượng các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành tăng lên khiến cho thị phần của


mỗi doanh nghiệp thu hẹp lại. tức là doanh nghiệp sẽ mất đi một phần thị trường
Điều này tương đương với việc đường cầu mà mỗi doanh nghiệp đối diện dịch
chuyển sang trái. Doanh nghiệp sẽ phải thu hẹp sản lượng và thu được lợi nhuận ít
hơn. Quá trình nhập ngành chỉ dừng lại khi mà các doanh nghiệp trong ngành chỉ
còn thu được lợi nhuận kinh tế bằng 0. Kết cục như vậy xảy ra khi đường cầu đối
diện với doanh nghiệp dịch chuyển tới mức trở thành đường tiếp xúc với đường chi
phí bình quân. Khi đó, tại mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận (nơi mà chi phí biên
bằng doanh thu biên), mức giá tối ưu mà doanh nghiệp định chính bằng chi phí
bình quân.
Ngược lại, khi các doanh nghiệp trong ngành đang rơi vào trạng thái thua lỗ
(chỉ thu được lợi nhuận kinh tế âm), một số doanh nghiệp sẽ rút lui khỏi ngành. Số
lượng doanh nghiệp hoạt động trong ngành giảm xuống tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp còn lại có được một thị phần lớn hơn. Đường cầu đối diện với mỗi doanh
nghiệp lại dịch chuyển sang phải. Doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô sản xuất, dần

dần ít thua lỗ hơn. Quá trình rời khỏi ngành cũng sẽ dừng lại khi các doanh nghiệp


còn lại trong ngành trở về trạng thái hòa vốn, tức có lợi nhuận kinh tế bằng 0.

Như vậy, cơ chế xuất, nhập ngành một cách tự do khiến cho thị trường cạnh
tranh có tính chất độc quyền dần dần đạt đến trạng thái cân bằng dài hạn. Giống
như thị trường cạnh tranh hoàn hảo, tại trạng thái này, giá cả bằng chi phí bình
quân và các doanh nghiệp trong ngành chỉ thu được lợi nhuận kinh tế bằng 0. Với
mức lợi nhuận đó, các doanh nghiệp mới không có động cơ tham gia vào ngành,
còn các doanh nghiệp hiện hành cũng không có động cơ rút lui khỏi ngành. Tuy


nhiên, tại điểm cân bằng dài hạn, nếu trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá luôn
luôn bằng chi phí biên và bằng mức chi phí bình quân tối thiểu, thì trên thị trường
cạnh tranh có tính độc quyền, giá lại cao hơn cả chi phí biên lẫn mức chi phí bình
quân tối thiểu . Điều đó cho thấy doanh nghiệp cạnh tranh có tính chất độc quyền
không sản xuất ở tại quy mô hiệu quả mà điều kiện kỹ thuật cho phép. Tại điểm
cân bằng dài hạn, sản lượng của doanh nghiệp còn thấp hơn sản lượng có hiệu quả
vì nếu tăng sản lượng lên, doanh nghiệp vẫn có thể hạ thấp được chi phí bình quân.
Tuy nhiên, để tối đa hóa lợi nhuận, nó sẽ không tăng sản lượng chỉ để nhằm giảm
chi phí bình quân, nếu như điều đó làm cho chi phí biên của nó vượt quá doanh thu
biên. Mặt khác, việc doanh nghiệp định giá cao hơn chi phí biên chỉ vì trong
trường hợp này, nó đối diện với một đường cầu dốc xuống, do đó, nó ít nhiều có
quyền lực thị trường.
Thực trang cạnh tranh mang tính độc quyền ở Việt Nam: lĩnh vực chế biến cà

II.

phê

Thị trường chế biến cà phê của Việt Nam là một thị trường cạnh tranh mang
tính độc quyền vì :
-

Thị trường có nhiều doanh nghiệp tham gia với quy mô tương đối nhỏ so với thị
trường, trong đó có các doanh nghiệp lớn như Trung Nguyên, Vinacafe Biên Hòa,
… và có các cơ sở sản xuất cà phê nhỏ lẻ như Trọng Nhâm( Buôn Mê Thuột),…

-

Sản phẩm cà phê vẫn có sự khác nhau về thành phần nguyên liệu, tỉ lệ cà phê,
thương hiệu… Như vậy, cơ bản mỗi doanh nghiệp đều độc quyền về sản phẩm.

-

Sự tham gia hay rút khỏi thị trường chế biến cà phê là tương đối dễ dàng vì nguồn
nông sản có sẵn trong nước, ít rang buộc về mặt pháp lí…


Công ty Cổ phần Vinacafé Biên Hoà là công ty sản xuất và kinh doanh, xuất
nhập khẩu cà phê, chè, thức uống nhanh và các sản phẩm thực phẩm khác … Hiện
nay, Công ty là Công ty hàng đầu trong ngành sản xuất cà phê hoà tan tại thị
trường Việt Nam (theo Báo Nhịp Cầu Đầu tư đăng ngày 31/05/2010), với thương
hiệu “Vinacafé” đã được khẳng định từ lâu trên thị trường trong và ngoài nước.
Thị trường nội địa vẫn là thị trường trọng điểm của Vinacafé. Tuy nhiên, ở thị
trường này cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn với các đối thủ mới và sản phẩm
mới. Đáng chú ý nhất là Nescafé với cà phê hòa tan 2 trong 1 và G7 (Trung
nguyên). Gần đây có cà phê lon Birdy của Ajinomoto Việt Nam, cà phê chai VIP
của Tân Hiệp Phát, cà phê lon Nescafé, cà phê dành cho phái nữ Passiona (Trung
Nguyên). Starbuck cũng đã mở cửa hàng cà phê đầu tiên của mình (chưa phải là

quán) tại TP. HCM. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các nhà sản xuất và phân
phối cà phê lớn mà còn diễn ra đối với một số cơ sở sản xuất tư nhân như cơ sở sản
xuất Trần Quang, Tiến Thành, Thu Hà…Tuy nhiên, với định hướng phát triển dựa
vào những sản phẩm truyền thống có thương hiệu lâu đời như cà phê sữa 3 trong 1
đã giúp Vinacafé B.H giữ vững được thị phần, tăng doanh thu tiêu thụ. Bên cạnh
đó, uy tín và chất lượng sản phẩm vượt trội là một ưu thế cạnh tranh rất tốt của
Công ty trong năm qua. Hơn nữa, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất cà phê diễn ra
càng gay gắt, hoạt động tiếp thị quảng cáo càng rầm rộ thì tổng cầu của thị trường
cà phê ngày càng lớn hơn. Khi đó, người được hưởng lợi nhiều nhất là các thương
hiệu lớn, biết cách phát huy thế mạnh của mình. Đây cũng chính là cơ hội của
Vinacafé.
Hiện nay, dù thị trường cà phê đang cạnh tranh gay gắt bởi Nescafe, Mac
coffee, Trung Nguyên, Tiến Thành, Mê Trang và hơn 20 công ty khác, Vinacafé
BH vẫn tăng trưởng đều với tốc độ từ 20 – 30%/ năm. Tính đến cuối năm 2009 thị
phần cà phê hoà tan tại Việt Nam được xác định cụ thể như sau:


Trong bài này, tác giả xin trình bày tình hình cạnh tranh độc quyền của doanh
nghiệp cà phê Vinacafe Biên Hòa trong quý 1/2009 và giai đoạn 2009 - 2012
Xét quý 1/2009

Chỉ tiêu
Tổng sản lượng tiêu thụ (tấn)

Quý 1/2009
6.964

Tổng chi phí (triệu đồng)

246.520


Tổng doanh thu tiêu thụ (triệu đồng)

281.713

Lợi nhuận sau thuế (triệu đồng)

32.553

Theo bảng số liệu trên, trong quý 1/2009, công ti bán ra thị trường 6 964 tấn cà
phê, tổng chi phí là 246 520 triệu đồng, tổng doanh thu đạt 281 713 triệu đồng.
Như vậy, bình quân giá bán trên thị trường là 40,5 triệu đồng/tấn. Lợi nhuận trước
thuế đạt 35193 triệu đồng.
Trong ngắn hạn, doanh nghiệp thu được lợi nhuận tương đối lớn (32553 tỉ
đồng) Tình hình kinh doanh Q1/2009 tiến triển khá tốt, các chỉ tiêu về sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm trong Q1/2009 đều vượt so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu
tiêu thụ tăng hơn 31% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 23% kế hoạch 2009, trong
khi đó lợi nhuận trước thuế và sau thuế tăng lần lượt 75% và 70% so với cùng kỳ
năm 2008, cùng đạt 35% kế hoặch năm 2009.
Trong giai đoạn 2009-2012, ta thấy biểu đồ doanh thu và lợi nhuận của vinacafe
như sau:


Như vậy có thể thấy trong vòng 4 năm, tổng doanh thu của doanh nghiệp tăng
lên khá cao (1094 triệu đồng) nhưng lợi nhuận lại tăng rất ít (168 triệu đồng). Điều
này cho thấy sự gia nhập của các doanh nghiệp mới vào thị trường cũng như việc
các đối thủ tung ra sản phẩm mới đã ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp. Thêm
vào đó là chi phí quảng cáo làm tăng tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có lợi nhuận nhỏ vì có thể quyết định giá của mình.


C.

KẾT LUẬN

Cạnh tranh độc quyền đúng với tên gọi của nó: đó là một sự kết hợp giữa độc
quyền và cạnh tranh. Giống như độc quyền, mỗi nhà cạnh tranh độc quyền phải đối
mặt với đường cầu dốc xuống và kết quả là định giá cao hơn chi phí cận biên. Song
giống như trên thị trường cạnh tranh, có nhiều doanh nghiệp và sự gia nhập cũng
như rút khỏi ngành đẩy lợi nhuận kinh tế của từng nhà độc quyền xuống mức bằng
0. Trên thực tế, các doanh nghiệp bằng các hình thức khác nhau đã thu hút người


tiêu dùng và định mức giá khác nhau một chút ít để thu lợi nhuận về mình và duy
trì sản xuất.
D.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế vi mô, NXB giáo dục Việt Nam
Trường ĐHKTQD - Khoa kinh tế học, Giáo trình kinh tế học (tập 1) Nxb. ĐHKTQD,
Hà Nội, 2013.
Trường ĐHKTQD, Bài tập kinh tế học vi mô, Nxb. ĐHKTQD, Hà Nội, 2008.
/> /> /> />%20Vinacafe%20Bien%20Hoa.pdf
:4000/khoakhcb/userfiles/upload/file/Chuong%209_Canh
%20tranh%20doc%20quyen.pdf



×