Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các trường đại học công lập việt nam trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.16 KB, 5 trang )

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các trường đại
học công lập Việt Nam trong bối cảnh thực hiện cơ chế
tự chủ
ThS Nguyễn Thị Hải Yến – Đại học Quốc gia Hà Nội
Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán (journal of auditing studies)
Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục đại học với cơ chế giao quyền tự chủ tài chính, phấn đấu
xây dựng một nền giáo dục hiện đại làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường và có khả năng hội nhập quốc
tế, một trong những yêu cầu cấp thiết đối với giáo dục đại học ở nước ta hiện nay là lựa chọn được
hướng đi đúng đắn, đồng thời cần biết quản lí và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vốn để phát
triển giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Để đảm bảo quản lý các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, các trường đại học
công lập (ĐHCL) cần phải xây dựng và thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ (HTKSNB) phù hợp
và hoạt động hữu hiệu. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê, ... để tổng hợp kết quả khảo sát và đưa ra các phân tích, đánh giá HTKSNB tại các trường
ĐH công lập. Trên cơ sở, nhận diện các tồn tại của HTKSNB ở các trường ĐHCL và phân tích các
nguyên nhân, bài viết đề xuất một số giải pháp hoàn thiện HTKSNB ở các trường ĐHCL.
Từ khóa: Kiểm soát nội bộ, đại học công lập.
1. Đặt vấn đề
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, đào tạo của các trường ĐHCL cũng chịu
sự tác động của các quy luật trong cơ chế thị trường, đặc biệt là quy luật cung cầu, quy luật giá trị.
Tự chủ đại học là xu thế tất yếu của xã hội phát triển và các trường ĐHCL buộc phải thích nghi dần
với cơ chế tự chủ. Hoạt động trong môi trường mới, các trường ĐHCL có cơ hội để tự khẳng định
mình nhưng cũng phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh vốn có của kinh tế thị trường. Các trường phải
biết đón đầu những cơ hội, triển khai đào tạo liên kết, các loại hình đào tạo, thực hiện quản lý hiệu
quả,... nhằm thu hút người học và nâng cao lợi nhuận. Do đó, cần quan tâm cải cách công tác quản
lý, quan tâm đến KSNB. Một HTKSNB vững mạnh sẽ giúp các trường ĐHCL giảm bớt rủi ro trong
mọi hoạt động của mình, trên cơ sở quản lý rủi ro sẽ đảm bảo cho các trường tuân thủ đúng các quy
định, hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực, có khả năng đảm bảo an ninh tài chính, đảm
bảo khả năng hoạt động liên tục, đứng vững và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát
triển và hội nhập. Tuy nhiên, việc xây dựng HTKSNB tại các trường ĐHCL ở Việt Nam phần lớn


chưa chú trọng kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của đơn vị, chưa chú trọng đến phòng ngừa và
quản lý rủi ro mà chỉ tập trung vào việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, dự toán về tài chính. Điều
đó đã hạn chế tác dụng của HTKSNB, thâm chí ở một số trường, KSNB chỉ mang tính hình thức,
gây tốn kém thêm chi phí,…
Các công trình nghiên cứu trong nước về KSNB trong các trường ĐHCL hiện nay chưa nhiều,
mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu HTKSNB trong một trường cụ thể. Qua bài viết này, tác giả
muốn trao đổi về việc hoàn thiện HTKSNB hướng đến quản trị rủi ro, giúp các trường ĐHCL nâng
cao năng lực quản lý, đảm bảo và duy trì phát triển bền vững. Bài viết này phân tích làm rõ bản chất
và các yếu tố của HTKSNB, đồng thời kiến nghị các giải pháp giúp hoàn thiện HTKSNB trong các
trường ĐHCL trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ hiện nay.
2. Thực trạng HTKSNB tại các trường ĐHCL hiện nay
2.1 Bản chất hệ thống KSNB của các trường ĐHCL
Theo báo cáo của COSO (Committee of Sponsoring Organizations) năm 1992 được công bố dưới
tiêu đề KSNB đã định nghĩa về KSNB như sau: “KSNB là một quá trình bị chi phối bởi người quản
lý hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp


lý nhằm đạt được các mục tiêu sau: Sự hữu hiệu và hiệu quả của hoạt động; sự tin cậy của báo cáo
tài chính; ự tuân thủ pháp luật và các quy định” (COSO, 2013)
2.2. Thực trạng HTKSNB tại các trường ĐHCL
Ngày 25/04/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về việc quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập (SNCL), trong đó có các trường ĐHCL. Theo đó, cáctrường ĐHCL được trao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm qua bốn vấn đề cơ bản: tự chủ về thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học; tự chủ về
tổ chức nhân sự; tự chủ về tài chính và tự chủ hợp tác quốc tế. Sau 7 năm thực hiện quyền tự chủ theo Nghị
định 43, nhìn chung các trường ĐHCL đã chủ động sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước giao một cách hiệu
quả hơn, từng bước đổi mới cơ chế quản lý, khai thác nguồn thu, góp phần tăng thu sự nghiệp và nâng cao thu
nhập cho người lao động. Tuy nhiên, Nghị định số 43 thực chất chỉ mới giao quyền tự chủ cho các trường
trong việc tổ chức chi, chưa giao quyền tự chủ về huy động nguồn lực tài chính từ học phí và lệ phí do người
học đóng góp. Đây thực sự là một bất cập lớn cho các trường trong việc chủ động tìm kiếm, huy động nguồn

lực tài chính cho đầu tư phát triển, thu hút nhân tài, xây dựng cơ sở vật chất nâng cao chất lượng đào tạo.
Việc đầu tư, mua sắm tài sản, xây dựng cơ bản đã được phân cấp cho đơn vị tự thực hiện, nhưng giá trị tài
sản phân cấp còn thấp. Nhiều định mức, tiêu chuẩn như định mức giờ giảng, chế độ thanh toán ngoài giờ,
mức thu học phí, lệ phí... không còn phù hợp, làm hạn chế tính chủ động về tài chính của các trường. Chính
điều này đã dẫn đến sự thụ động, thiếu linh hoạt và ít dám chịu trách nhiệm của các nhà quản lý ở
các trường ĐHCL.
Để khắc phục vấn đề này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014, về thí điểm
đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014-2017. Theo đó, các trường ĐHCL
được trao quyền tự chủ một cách toàn diện hơn về thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, về
tổ chức bộ máy, nhân sự; về tài chính, về chính sách học bổng, học phí đối với đối tượng chính sách, về đầu
tư, mua sắm. Như vậy, về cơ bản các trường ĐHCL được quyền tự chủ trong mọi hoạt động, nhưng đồng
thời phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh. Từ đây, các trường ĐHCL đã nổ lực hơn trong việc khai thác nguồn
lực sẵn có và thế mạnh của đơn vị mình để tạo nguồn thu, tăng thu nhập cho người lao động, chú ý hơn đến
hiệu quả tài chính. Các đơn vị tự xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ kiểm soát chi tiêu. Hệ thống
KSNB trở nên thực sự cần thiết để ngăn ngừa và phát hiện sai sót, gian lận, nâng cao hiệu quả sử dụng mọi
nguồn lực của nhà trường.

Nhìn chung, hiện nay các trường ĐHCL đã nhận thức được và trò của HTKSNB trong quản lý và
đều hành đơn vị. Tuy nhiên, trong một thời gian dài các trường ĐHCL thực hiện cơ chế bao cấp, vì
thế chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và thiết lập một HTKSNB. Việc vận hành
HTKSNB chưa hiệu quả đã gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, điều hành
các hoạt động cụ thể trong nhà trường. Cụ thể:
- Hầu hết các trường ĐHCL chỉ quan tâm đến mặt chất lượng và hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo,
chính trị được giao, mặt hiệu quả và tài chính chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề quản lý tài
chính chỉ dừng lại ở mức theo dõi báo cáo mà chưa quan tâm đế việc làm thế nào để đạt hiệu quả
cao hơn, để tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu suất đầu tư, ... Do đó, HTKSNB chưa có cơ hội để phát
huy được sức mạnh của nó.
- Về môi trường kiểm soát của các trường ĐHCL:
+ Cơ cấu đội ngũ không đồng đều về tuổi, trình độ, ngành đào tạo là vấn đề khó khăn để thực
hiện các thủ tục kiểm soát.

+ Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động còn cồng kềnh, chi phí bộ máy khá lớn, làm ảnh hưởng đến
nguồn kinh phí để thực hiện các hoạt động chuyên môn, mua sắm trang thiết bị và các hoạt động
khác.
+ Chính sách nhân sự, trong đó nổi cộm là vấn đề khen thưởng, kỷ luật đa phần chưa khuyến
khích được người lao động làm việc hiệu quả, mà còn gây tắc trách, gian lận.
+ Kỹ năng ứng dụng tin học còn thấp, nhất là trong nhóm nhân sự lớn tuổi. Đội ngũ cán bộ quản
lý phần lớn còn chịu ảnh hưởng của lề lối, tác phong làm việc theo cơ chế bao cấp, quan tâm đến chỉ
tiêu kế hoạch, ít quan tâm đến hiệu quả kinh tế.
+ Phần lớn các trường đều không có Ban Kiểm soát, mà chỉ có Ban Thanh tra trực thuộc Ban
giám hiệu, và là công tác kiêm nhiệm, Do đó, vấn đề kiểm soát các hoạt động của Ban giám hiệu sẽ
thiếu tính độc lập, khách quan, và ít được quan tâm thực hiện.


Những thực trạng trên là nguyên nhân to lớn ảnh hưởng đến môi trường kiểm soát tại các trường,
gây cản trở HTKSNB vận hành hữu hiệu và hiệu quả.
- Về hệ thống thông tin kế toán của các trường ĐHCL:
+ Bộ máy kế toán: tập trung vào kế toán tài chính là chủ yếu, trong khi nhu cầu về thông tin kế
toán quản trị mang tính thường xuyên, hàng ngày lại chưa được quan tâm nhiều, do đó chưa phát
huy được việc thu thập và cung cấp thông tin thích hợp và nhanh chóng cho các nhà quản lý thực
hiện việc điều hành, kiểm soát hoạt động của tổ chức và ra quyết định.
+ Hệ thống chứng từ kế toán: chủ yếu vận dụng hệ thống chứng từ theo quy định của Chế độ kế
toán hành chính sự nghiệp theo Quyết định 19/2006/QĐ-BTC. Các trường ĐHCL sử dụng rất ít các
chứng từ tự thiết kế, và nếu có thì còn thiếu các yếu tố bắt buộc nên chưa phản ánh hết nội dung của
nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến công tác hạch toán ban đầu, cung
cấp thông tin cho nhà quản lý không kịp thời và chính xác. Bên cạnh đó, số lượng chứng từ tại các
trường ĐHCL rất lớn, đặc biệt là chứng từ thu và chi tiền, do điều kiện khách quan của một số
trường, các chứng từ được lưu trữ trong điều kiện chưa tốt, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, đối
chiếu khi cần thiết.
+ Hệ thống tài khoản kế toán: Việc mở các tài khoản chi tiết ngoài quy định của chế độ kế toán
tại các trường ĐHCL hiện nay còn rất hạn chế. Hầu hết các trường chỉ dừng lại ở việc mở các tài

khoản chi tiết cấp 2, cấp 3 theo chế độ quy định. Điều đó gây ra tình trạng thiếu thông tin cần thiết
cho nhà quản lý khi cần ra quyết định, nhất là quyết định về tài chính.
+ Hệ thống báo cáo kế toán: chủ yếu tập trung vào các báo cáo tài chính theo quy định của Chế
độ kế toán hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên, các báo cáo này được lập mang tính thủ tục bắt buộc là
chủ yếu, ý nghĩa cung cấp thông tin chưa nhiều và thời hạn thường chậm so với quy định, hầu hết
các trường chưa chú trọng đến việc lập báo cáo nội bộ trên cơ sở phân tích so sánh kết quả hoạt
động thực tế với số liệu dự báo, dự đoán.
+ Ngoài ra, việc việc ứng dụng phần mềm kế toán cũng đem đến những rủi ro nhất định trong
việc kiểm soát thông tin kế toán.
- Về đánh giá rủi ro của các trường ĐHCL:
Ban lãnh đạo các trường ĐHCL đa phần chưa có sự quan tâm thích đáng đến việc phân tích và
đánh giá rủi ro. Hầu hết các trường ĐHCL đều không xây dựng riêng bộ phận trong cơ cấu tổ chức
nhằm thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro. Điều này khiến cho các trường ĐHCL khó xác định các
khả năng có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu của trường, từ có thể ảnh hưởng đến uy tín và danh
tiếng, thậm chí đến cả các kết quả tài chính của nhà trường.
- Về các hoạt động kiểm soát của các trường ĐHCL:
Các quy trình kiểm soát chưa thực sự quan tâm đến mặt kiểm soát hiệu quả tài chính, kiểm soát
việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, còn nhiều chỗ chưa chặt chẽ. Việc ban hành các quy chế,
quy trình phục vụ cho công tác kiểm soát còn chậm, chưa đầy đủ. Các quy chế, quy trình đã được
ban hành thường không chứa đựng đầy đủ cơ chế kiểm soát, không xác định rõ trách nhiệm của từng
cá nhân, bộ phận trong thực thi nhiệm vụ.
- Về công tác giám sát của các trường ĐHCL:
Hiện nay, trong các trường ĐHCL, hoạt động giám sát chưa được thực hiện theo đúng nghĩa là
đánh giá việc vận hành các thủ tục kiểm soát. Việc giám sát còn rất lỏng lẻo, chỉ mang tính hình
thức chứ chưa đi và thực chất. Các trường chưa có bộ phận độc lập để thực hiện hoạt động này. Bộ
phận giám sát chủ yếu là các ban Thanh tra, đây thường là các cán bộ quản lý phòng ban kiêm
nhiệm, do đó không có thời gian tập trung công việc, cũng không đủ mạnh, không đủ năng lực để
thực hiện chức năng này.
3. Giải pháp hoàn thiện HTKSNB trong các trường ĐHCL
Qua những phân tích những tồn tại thực tế hiện nay, cho thấy sự cần thiết cấp bách của việc xây dựng

HTKSNB gắn với quản lý rủi ro nhằm tăng khả năng dự báo, đánh giá, ngăn chặn và quản lý có hiệu quả rủi
ro trong các trường ĐHCL. Các trường cần có các quy định cụ thể về xây dựng và hướng dẫn thực hiện một
HTKSNB hiệu lực, hiệu quả gắn liền với chức năng đánh giá và quản lý rủi ro, cụ thể:
Thứ nhất, các trường ĐHCL cần chủ động cải thiện môi trường kiểm soát


- Tạo lập môi trường kiểm soát vững mạnh: Trong môi trường kiểm soát của các trường ĐHCL, yếu tố
quan trọng đầu tiên là Ban lãnh đạo cần nhận thức được về tầm quan trọng của năng lực, tính liêm chính và
đạo đức nghề nghiệp trong nhà trường, từ đó đưa đến quyết định về việc tổ chức bộ máy hợp lý, về việc
phải ban hành bằng văn bản các nội quy, quy chế,...
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các trường ĐHCL theo hướng bố trí đầy đủ các phòng ban chức năng, tổ
chức các bộ phận riêng biệt thực hiện các chức năng cơ bản.
- Hoàn thiện chính sách nhân sự: rà soát sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách nhân sự, xây
dựng chính sách tuyển dụng, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng chế độ khen thưởng, kỷ luật
kịp thời.

- Hoàn thiện công tác kế hoạch: ban hành các tài liệu về công tác lập kế hoạch chính thức bằng
văn bản; tập huấn, đạo tạo nghiệp vụ lập kế hoạch cho các cán bộ có liên quan,; đầu tư, trang bị các
phần mềm chuyên dụng phục vụ cho công tác lập kế hoạch; xây dựng kế hoạch tổng thể phải gắn
liền với kế hoạch chi tiết. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ban lãnh đạo đối
với quá trình lập kế hoạch của từng bộ phận có liên quan, để cho các kế hoạch được lập đúng thời
hạn quy định và bám sát với thực thế của đơn vị.
- Hoàn thiện bộ kiểm máy kiểm soát: cần tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện kiểm tra, giám
sát như Ban kiểm soát để thực hiện kiểm soát, giám sát thường xuyên và định kỳ để kịp thời ngăn
chặn, phát hiện và sửa chữa sai phạm, phòng ngừa rủi ro trong mọi mặt hoạt động của đơn vị. Đồng
thời chú trọng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và tính độc lập của các thành viên trong các
bộ phận này; ban hành, cụ thể hoá quy chế hoạt động của kiểm soát viên, ban kiểm soát.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống thông tin và truyền thông, mà cốt lõi là hệ thống kế toán
- Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy kế toán theo hướng kết hợp thực hiện kế toán tài chính và
kế toán quản trị với sự phân công rõ rang bằng văn bản về nhiệm vụ, chức trách, nội dung công việc

cụ thể của từng bộ phận kế toán. Cần nâng cao kỹ năng tổng hợp, phân tích cho nhân viên kế toán và
tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học máy tính trong công tác kế toán quản trị.
- Hoàn thiện hệ thống chứng từ kế toán: Bên cạnh các chứng từ kế toán đã được quy định trong
Chế độ kế toán, các trường ĐHCL cần xây dựng và ban hành bổ sung them các mẫu chứng từ kế
toán đặc thù phản ánh đầy đủ các chủ tiêu, yếu tố cần thiết cho việc hạch toán ban đầu. Xây dựng
quy trình lập, kiểm tra, ký duyệt, luân chuyển chứng từ kế toán phù hợp và tối đa hóa tiện ích của
việc sử dụng phần mềm kế toán.
- Chủ động xây dựng các tài khoản chi tiết để theo dõi các nội dung hoạt động và đối tượng cụ
thể, để đáp ứng nhu cầu thông tin chi tiết của nhà quản lý.
- Hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán quản trị và các thức tổ chức báo cáo. Báo cáo kế toán quản
trị cần phải chi tiết cho từng khâu hoạt động và từng bộ phận của nhà trường, đồng thời đảm bảo
việc cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục, đầy đủ và kịp thời cho nhà quản trị.
- Nâng cao hiệu quả của việc sử dụng phần mềm kế toán trong công tác kế toán tại các trường
ĐHCL: Lựa chọn nhà cung cấp phần mềm có uy tín, đặt viết phần mầm theo yêu cầu quản lý đặc
thù của nhà trường; thường xuyên tổ chức đào tạo, cập nhật nâng cao trình độ của nhân viên trong
việc sử dụng phần mềm kế toán; ban hành các quy định và tổ chức thực hiện kiểm soát dữ liệu trong
môi trường tin học.
Thứ ba, hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro
- Xây dựng quy trình đánh giá rủi ro và gắn trách nhiệm đánh giá rủi ro cho cả quản lý cấp cao và
các cấp thấp hơn. Cần phải quy định rõ người chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc đánh giá và quản
lý rủi ro.
- Hoàn thiện quy trình, hoạt động về quản lý tài chính và tài sản nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu
sai sót, gian lận, tiết kiệm chi phí, nânng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của nhà trường.
- Hoàn thiện quy trình xây dựng chương trình đào tạo.
- Hoàn thiện hoạt động quản lý chất lượng giảng dạy của giáo viên để nâng cao chất lượng đào
tạo.
Thứ tư, hoàn thiện thủ tục kiểm soát
- Rà soát, sửa đổi, ban hành đầy đủ hệ thống quy chế quản lý nội bộ tạo hành lang pháp lý cho
hoạt động KSNB.



- Quán triệt các nguyên tắc kiểm soát nội bộ trong phân công, phân nhiệm, cần rà soát và xây
dựng các quy chế về quản lý nhằm cụ thể hoá, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các phòng ban chức năng trong nhà trường, tránh tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ,
gây tính ỷ lại, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, xử lý các công việc liên quan đến nhiều
phòng ban, đơn vị khác nhau trong nội bộ đơn vị.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống giám sát và thẩm định
- Cần thiết lập một hệ thống giám sát và thẩm định theo hai hướng: Kiểm soát theo chiều dọc và kiểm
soát theo chiều ngang. Thiết lập hệ thống KSNB theo chiều dọc có nghĩa là thiết lập hệ thống KSNB theo cơ
cấu tổ chức quản lý dọc từ trên xuống các bộ phận và cá nhân theo sự phân công phân nhiệm cho từng cá
nhân. Thiết lập hệ thống KSNB theo chiều ngang là việc xây dựng các cơ chế, thủ tục kiểm soát thông qua
các quy trình nghiệp vụ chủ yếu của đơn vị. Các trường ĐHCL cần phải xác định các chức năng cơ bản, các
mục tiêu và rủi ro của từng quy trình, từ đó đưa ra các cơ chế kiểm soát áp dụng phù hợp với quy trình đó.
Kết hợp lại sẽ có được mạng lưới kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với mọi thành viên và mọi hoạt động trong
nhà trường, đảm bảo kiểm soát trên toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực không bị chồng chéo hoặc bỏ trống,
đảm bảo sự phân chia tách bạch giữa các chức năng; đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo
khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau trong các bước thực hiện công việc.

- Hàng năm, các trường ĐHCL cần thường xuyên tổ chức thực hiện công tác kiểm toán nội bộ
nhằm hoàn thiện công tác tài chính kế toán. Các trường có thể thuê đơn vị kiểm toán độc lập bên
ngoài hoặc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ với các thành viên là những người có chuyên môn và
kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính kế toán nhằm thực hiện công tác kiểm toán đạt hiệu quả. Thông
qua công tác kiểm toán giúp cho các đơn vị phát hiện ra được những thiếu sót, kịp thời thực hiện
chấn chỉnh lại những sai sót trong công tác quản lý tài chính và đưa công tác quản lý tài chính các
trường đi vào nề nếp theo đúng quy định của Nhà nước.
4. Kết luận
Trên đây là một số trao đổi về thực trạng HTKSNB của các trường ĐHCL thông qua các yếu tố cấu thành
đó là môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hệ thống thông tin kế toán, các thủ tục kiểm soát và giám sát, từ
đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện cụ thể hệ thống KSNB theo từng yếu tố cấu thành. Tác giả bài viết hy
vọng góp phần giúp cho các trường ĐHCL có thêm căn cứ để thiết lập một HTKSNB hữu hiệu và hiệu quả

trong thực tiễn hoạt động của mình./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2004), Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý tài chính đối với ngành giáo dục - đào tạo,
NXB Tài chính, Hà nội.
2. COSO (2013), “Internal Control - Integrated Framework”.
3. PGS.TS. Mai Ngọc Cường và cộng sự (2007), Điều tra thực trạng và khuyến nghị giải pháp thực hiện
tự chủ về tài chính ở các trường đại học Việt Nam.
4. Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công
lập.
5. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 về việc ban hành “Điều
lệ trường đại học”.
6. Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị quyết 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động đối với các cơ sở giáo dục công lập giai đoạn 2014-2017.
7. Vũ Thị Thanh Thúy (2012), Quản lý tài chính tại các trường Đại học công lập Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Đại học Kinh tế quốc dân.



×