Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

QUẢN LÝ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN THEO NGHIÊN CỨU BÀI HỌC Ở TRƯỜNG THCS THPT NGUYỄN TẤT THÀNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.03 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
.......................

PHÙNG XUÂN DỰ

QUẢN LÝ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN THEO
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC Ở TRƯỜNG THCS & THPT
NGUYỄN TẤT THÀNH - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Thị Yến Phương

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng các Thầy, Cô giáo Khoa Quản lý giáo
dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thiện nghiên cứu đề tài này.
Đặc biệt, tôi xin trân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo –
PGS.TS Nguyễn Thị Yến Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và cho tôi
những lời khuyên sâu sắc, không những giúp tôi hoàn thành luận văn này mà
còn truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu về nghề nghiệp và
phương pháp làm việc khoa học.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, các Thầy giáo, Cô giáo trường


THCS&THPT Nguyễn Tất Thành – Tp. Hà Nội. Đã cung cấp những tư liệu,
quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện luận văn này.
Mặc dù rất nỗ lực cố gắng nhưng do thời gian có hạn, kinh nghiệm và
trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên bài luận văn này khó tránh khỏi
những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, tôi kính mong nhận được chỉ
bảo, đóng góp của các Thầy, Cô giáo để đề tài này hoàn thiện hơn nữa.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 06 năm 2015
Người thực hiện

Phùng Xuân Dự


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BGD&ĐT

Bộ Giáo dục và Đào tạo

BGH

Ban giám hiệu

CNTT

Công nghệ thông tin

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

KH

Kế hoạch

KHNH

Kế hoạch năm học

NCBH

Nghiên cứu bài học

SHCM theo NCBH

Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học

TCM

Tổ chuyên môn

THCS&THPT

Trung học cơ sở và trung học phổ thông

THPT


Trung học phổ thông

TTCM

Tổ trưởng chuyên môn

UBND

Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. So sánh SHCM truyền thống với SHCM theo NCBH
Bảng 2.1. Kết quả xếp loại văn hóa và đạo đức của học sinh trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành (2010 – 2015):
Bảng 2.2. Số lượng học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi của học
sinh trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.3. Kết quả thi giáo viên dạy giỏi các cấp (2010 – 2015):
Bảng 2.4. Chuẩn bị thiết kế kế hoạch bài dạy minh họa ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.5. Tổ chức dạy học minh họa và dự giờ ở trường THCS&THPT
Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.6. Suy ngẫm và thảo luận về giờ học ở trường THCS&THPT Nguyễn
Tất Thành.
Bảng 2.7. Áp dụng bài học đã nghiên cứu cho thực tiễn dạy học hằng ngày ở
trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.8. Xây dựng kế hoạch SHCM theo NCBH ở trường THCS&THPT
Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.9. Tổ chức, chỉ đạo SHCM theo NCBH ở trường THCS&THPT

Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.10. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên về NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.11. Kiểm tra, đánh giá SHCM theo NCBH ở trường THCS&THPT
Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.12. Xây dựng môi trường – tạo động lực cho đội ngũ giáo viên trong
SHCM theo NCBH ở trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.13. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý SHCM theo NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.14. Những lợi ích thu được của GV khi SHCM theo NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.
Bảng 2.15. Những khó khăn trong quá trình SHCM theo NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành.


Bảng 3.1. Kết quả đánh giá mức độ cần thiết và mức độ khả thi của các biện
pháp để xuất.
Biểu đồ 3.1. Mối tương quan giữa mức độ cần thiết và mức độ khả thi của
các biện pháp đề xuất


MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................6
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi một
quốc gia, giáo dục phổ thông có một vị trí hết sức quan trọng, nó là chiếc cầu
nối cơ bản, là cấp học mang tính nền tảng của cả hệ thống giáo dục của mỗi
quốc gia. Chất lượng của giáo dục phổ thông do vậy trước tiên ảnh hưởng rất
lớn tới chất lượng giáo dục dạy nghề và đại học, sâu xa hơn, mở rộng hơn, chính
nó là nguồn gốc góp phần quan trọng quyết định chất lượng của nguồn lực lao

động từng nước. Bởi vậy trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta thì giáo dục phổ thông luôn được Đảng và Nhà nước coi là
trọng tâm đột phá đầu tiên, là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân..........1
Trong trường phổ thông, hoạt động chủ yếu trong nhà trường là hoạt động
chuyên môn. Do đó, các tổ chuyên môn (TCM) là đơn vị học thuật trong các nhà
trường là cơ sở gắn bó với người giáo viên (GV) giảng dạy. Mặt khác, TCM
cũng là nơi người GV có thể chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng cũng như những
vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp, đời sống vật chất và tinh thần của mình.
Hoạt động của TCM trong nhà trường là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất
lượng dạy học của các trường học hiện nay, có vai trò quyết định đến sự phát
triển giáo dục nói chung và sự phát triển của nhà trường nói riêng..................1
3.1 Đối tượng nghiên cứu..................................................................................4
3.2 Khách thể nghiên cứu..................................................................................4
6.1 Giới hạn nội dung nghiên cứu.....................................................................4
6.2 Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:..................................................................5
6.3 Giới hạn về khách thể khảo sát....................................................................5
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:............................................................5
A. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG BẰNG PHIẾU TRƯNG CẦU Ý
KIẾN...............................................................................................................53
B. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG BẰNG PHỎNG VẤN SÂU.....61


3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa.........................................................78
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn........................................................78
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và toàn diện...................................79
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả........................................................79


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi
một quốc gia, giáo dục phổ thông có một vị trí hết sức quan trọng, nó là
chiếc cầu nối cơ bản, là cấp học mang tính nền tảng của cả hệ thống giáo
dục của mỗi quốc gia. Chất lượng của giáo dục phổ thông do vậy trước
tiên ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục dạy nghề và đại học, sâu
xa hơn, mở rộng hơn, chính nó là nguồn gốc góp phần quan trọng quyết
định chất lượng của nguồn lực lao động từng nước. Bởi vậy trong chiến
lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta thì giáo dục
phổ thông luôn được Đảng và Nhà nước coi là trọng tâm đột phá đầu
tiên, là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong trường phổ thông, hoạt động chủ yếu trong nhà trường là hoạt
động chuyên môn. Do đó, các tổ chuyên môn (TCM) là đơn vị học thuật
trong các nhà trường là cơ sở gắn bó với người giáo viên (GV) giảng
dạy. Mặt khác, TCM cũng là nơi người GV có thể chia sẻ mọi tâm tư,
nguyện vọng cũng như những vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp, đời
sống vật chất và tinh thần của mình. Hoạt động của TCM trong nhà
trường là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng dạy học của các
trường học hiện nay, có vai trò quyết định đến sự phát triển giáo dục nói
chung và sự phát triển của nhà trường nói riêng.
Trong các hoạt động của TCM thì sinh hoạt chuyên môn là một hoạt
động chuyên môn không thể thiếu. Đây là dịp để GV trao đổi chuyên môn
góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Thông qua sinh hoạt chuyên môn sẽ
xuất hiện nhiều ý tưởng. Sinh hoạt chuyên môn giúp cho GV nâng cao được
trình độ tác nghiệp của bản thân, hình thành các mối quan hệ đồng nghiệp tốt
đẹp, xây dựng môi trường học tập và tự học suốt đời. Từ đó góp phần không
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Bên cạnh đó, sinh
1


hoạt chuyên môn là hoạt động được thực hiện thường xuyên theo định kì

nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên
theo chuẩn nghề nghiệp thông qua việc dự giờ, phân tích bài học. Tuy nhiên,
trên thực tế hoạt động SHCM ở các trường phổ thông hiện nay đa phần vẫn
mang nặng tính hình thức và chỉ chủ yếu tập trung vào việc phân tích giờ dạy
của GV (nhằm đánh giá giáo viên), chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả học
tập của HS trong khi kết quả học tập của HS mới chính là thước đo tin cậy
nhất, chính xác nhất cho hiệu quả giảng dạy của GV. Những năm gần đây,
song hành với nhiều chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phát triển giáo dục
nhằm tạo ra những chuyển biến về chất lượng đào tạo như Nghị quyết số 29
-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo… Đó vừa là điều kiện, đồng thời cũng là
những thách thức lớn trong vấn đề đổi mới SHCM trước yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học (NCBH) cũng là hoạt
động sinh hoạt chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn
đề liên quan đến người học như: Học sinh học như thế nào? Học sinh đang
gặp khó khăn gì trong học tập?.. Triết lý sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học tập trung vào một số điểm cơ bản như: đảm bảo cơ hội học tập
cho từng học sinh; đảm bảo cơ hội phát triển chuyên môn cho mọi giáo viên;
xây dựng cộng đồng học tập để đổi mới nhà trường… Rõ ràng, có thể thấy:
sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học đã và đang cho thấy sự phù
hợp với cách tiếp cận dạy học hướng vào người học – xu hướng đổi mới dạy
học đang được ứng dụng rộng rãi trong giáo dục hiện nay.
Thực tế hiện nay, SHCM theo nghiên cứu bài học đã bước đầu triển
khai áp dụng ở một số trường phổ thông và đạt được những thành tựu rất đáng
ghi nhận như: khắc phục được những nhược điểm mà SHCM theo hướng
2



truyền thống còn tồn tại, giảm được áp lực cho GV, phát triển năng lực của
giáo viên, hình thành cộng đồng học tập… Từ đó nâng cao được hiệu quả
giảng dạy của GV, nâng cao hiệu quả học tập của HS trong bối cảnh nước ta
đang tiến hành đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục, đặc biệt là với đề án
đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015…. Tuy nhiên, do
SHCM theo NCBH là một hình thức sinh hoạt chuyên môn còn khá mới mẻ
nên nhiều trường phổ thông tỏ ra lúng túng và gặp nhiều khó khăn trong công
tác quản lý, đặc biệt là công tác quản lý sinh hoạt chuyên môn.
Trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành - Tp. Hà Nội (gọi tắt là
Trường phổ thông Nguyễn Tất Thành) thuộc hệ phổ thông chất lượng cao của
trường ĐHSP Hà Nội, thành lập ngày 04/07/1998, bao gồm hai cấp THCS và
THPT. Nhà trường đặt dưới sự quản lý trực tiếp của trường ĐHSP Hà Nội và
Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội. Thực tế, ở trường Nguyễn Tất Thành SHCM
theo NCBH đã được manh nha tiến hành từ hai năm nay. Bước đầu đã nhận
được sự phản hồi tích cực từ học sinh và giáo viên. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm như: tạo ra hứng thú học tập cho học sinh, phát triển năng lực
cho giáo viên… thì việc SHCM theo NCBH vẫn còn những hạn chế, khó
khăn cần phải giải quyết như: sự hoài nghi của giáo viên về hiệu quả của
nghiên cứu bài học, quy trình quản lý SHCM theo NCBH hay việc lựa chọn
nội dung nào để NCBH…. Những khó khăn, hạn chế ấy xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản xuất phát từ công
tác quản lý SHCM của Tổ trưởng chuyên môn.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, mà vấn đề “Quản lý sinh hoạt
chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường THCS&THPT Nguyễn Tất
Thành - Tp. Hà Nội” được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt
nghiệp của mình.

3



2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng quản lý SHCM
theo NCBH, đề xuất những biện pháp quản lý SHCM theo NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành - Tp. Hà Nội.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý SHCM theo NCBH của TTCM cấp THPT ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành - Tp. Hà Nội.
3.2 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý SHCM ở trường trung học phổ thông
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, công tác quản lý SHCM theo NCBH ở trường THCS&THPT
Nguyễn Tất Thành bước đầu đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận,
tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định nên hiệu quả quản lý
chưa cao. Nếu áp dụng được những biện pháp quản lý tốt sẽ tăng cường hiệu
quả của hoạt động SHCM theo NCBH, góp phần nâng cao hiệu quả học tập
của HS, đáp ứng được nhu cầu đổi mới chương trình và sách giáo khoa những
năm sau 2015.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý SHCM theo NCBH ở trường
trung học phổ thông.
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý SHCM theo NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành – Tp. Hà Nội.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý SHCM theo NCBH ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành – Tp. Hà Nội.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1 Giới hạn nội dung nghiên cứu
Quản lý tổ chuyên môn ở trường THPT có rất nhiều nội dung. Tuy
nhiên, nội dung nghiên cứu trong đề tài này giới hạn trong phạm vi quản lý
sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học của TTCM trường

THCS&THPT Nguyễn Tất Thành – Tp. Hà Nội.
4


6.2 Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:
Trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành – Thành phố Hà Nội.
6.3 Giới hạn về khách thể khảo sát
Tổ trưởng chuyên môn, giáo viên, học sinh cấp THPT ở trường
THCS&THPT Nguyễn Tất Thành – Thành phố Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
khái quát hóa trong nghiên cứu các nguồn tài liệu lý luận ở góc độ Triết học,
Quản trị học, Giáo dục học, Tâm lý học, qua đó làm sáng tỏ cơ sở lý luận về
quản lý sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường phổ thông.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra: Để tiến hành điều tra thu thập một số thông tin
cần thiết phục vụ cho nghiên cứu đề tài, tác giả đã xây dựng phiếu hỏi để
khảo sát đối với TTCM nhằm tìm hiểu những nội dung liên quan đến thực
trạng quản lý sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Tác giả tiến hành thu
thập, nghiên cứu các kế hoạch và hoạt động liên quan đến SHCM theo NCBH
và quản lý SHCM theo NCBH ở trường THPT như: giáo án, video bài giảng,
kế hoạch SHCM theo NCBH…
+ Phương pháp chuyên gia: Tham khảo các ý kiến của lãnh đạo trong
nhà trường, các nhà quản lý giáo dục trực tiếp tham gia dự án đổi mới SHCM
của tổ chức Plan Việt Nam, các báo cáo khoa học về quản lý SHCM theo
NCBH để làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: tổng hợp, tổng kết kinh
nghiệm NCBH của một số trường phổ thông, kinh nghiệm tiến hành SHCM

theo NCBH của GV trong nhà trường…

5


+ Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn một số TTCM, GV và
HS viên nhằm thu thập thêm các thông tin cần thiết làm sáng tỏ kết quả
nghiên cứu.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Xử lý kết quả điều tra và số liệu thu được bằng các phương pháp thống
kê toán học thông qua các phần mềm máy tính.…
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục các tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học ở trường trung học phổ thông
Chương 2: Thực trạng quản lý sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài
học ở trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành - Tp. Hà Nội
Chương 3: Biện pháp quản lý sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài
học ở trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành - Tp. Hà Nội

6


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ SINH HOẠT CHUYÊN
MÔN THEO NGHIÊN CỨU BÀI HỌC Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
SHCM theo NCBH là một mô hình bồi dưỡng chuyên môn của các GV

thông qua nghiên cứu thực tiễn quá trình dạy học của chính họ ở nhà trường.
Trong đó tập trung vào qua sát - phân tích việc học của HS trong mỗi bài học
cụ thể. Từ đó, giúp GV chia sẻ kinh nghiệm, nhận ra các vấn đề khó khăn,
hiểu rõ các nguyên nhân, học hỏi, tích lũy và hình thành những năng lực,
phẩm chất chuyên môn nhằm đảm bảo cơ hội học tập thực sự có ý nghĩa cho
từng HS, ở từng bài học.
Thuật ngữ nghiên cứu bài học có nguồn gốc trong lịch sử giáo dục Nhật
Bản, từ thời Meiji (1868 – 1912) như một biện pháp để nâng cao năng lực
nghề nghiệp của giáo viên thông qua nghiên cứu, cải tiến từng bài học cụ thể.
Cho đến nay, nghiên cứu bài học là một mô hình phát triển nghề nghiệp của
giáo viên được sử dụng rộng rãi tại các trường học Nhật Bản, đã được giới
thiệu ở nhiều quốc gia khác nhau và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình. Điều đó
chứng minh tính ưu việt, sức hấp dẫn của nghiên cứu bài học.
Hiện nay, mô hình này cũng đã được nhiều nước trên thế giới áp dung
như Mỹ, Đức, Úc, Trung Quốc, Hồng Kong, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,
Indonesia… Và đây cũng là một chủ đề giáo dục được quan tâm trên thế giới.
Ở Việt Nam, mô hình này được đưa vào vận dụng thí điểm đầu tiên ở
một số trường Tiểu học tỉnh Bắc Giang từ năm học 2006 - 2007 qua dự án
“Nâng cao năng lực bồi dưỡng giáo viên theo cụm và quản lý nhà trường”
của tổ chức JICA - Nhật Bản. Năm 2009, mô hình được giới thiệu đến các
trường đại học, cao đẳng sư phạm thông qua Hội thảo quốc tế về NCBH tại
Trường ĐHSP Hà Nội (do Viện Nghiên cứu Sư phạm tổ chức). Năm 2010, Tổ

7


chức Plan và Tổ chức cứu trợ trẻ em (SC) giới thiệu và xây dựng mô hình
NCBH ở các trường Tiểu học trong một số tỉnh (Thái Nguyên, Phú Thọ,
Quảng Bình, Quảng Trị, Lào Cai,…). Năm 2013, mô hình NCBH được triển
khai giới thiệu thí điểm ở một số tỉnh thông qua Chương trình đảm bảo chất

lượng giáo dục (SEQAP). Ở Việt Nam, mô hình NCBH có nhiều cách gọi
khác nhau như: SHCM mới; SHCM dựa trên NCBH; SHCM theo NCBH
hoặc SHCM lấy HS làm trung tâm... Dù được gọi theo những cách gọi khác
nhau nhưng tựu chung lại vẫn được triển khai áp dụng thực hiện cơ bản theo
triết lý, mục tiêu, phương pháp, kỹ thuật của NCBH.
Chính vì những hiệu quả của mô hình SHCM theo NCBH mang lại mà
mô hình này cũng được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu như:
- Đặng Thị Hồng Doan (2011), Bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV
tiểu học qua "NCBH”, Tạp chí Giáo dục Số 268 tr. 32 - 33.
- Nguyễn Mậu Đức – Hoàng Thị Chiên (2014), Đổi mới sinh hoạt
chuyên môn của giáo viên thông qua mô hình Nghiên cứu bài học ở Việt Nam,
Tạp chí giáo dục Số 335 tr. 36 – 39.
- Vũ Thị Sơn (2011), Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng xây
dựng văn hóa học tập ở nhà trường thông qua "nghiên cứu bài học", Tạp chí
Giáo dục Số 269 tr. 20 – 23.
- Vũ Hạnh (2012), Sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường phổ thông
– Thực trạng và biện pháp, Tạp chí giáo dục số 279 tr. 57 – 58 …
Ngoài ra, cũng có nhiều đề tài nghiên cứu về công tác quản lý sinh hoạt
TCM trong nhà trường phổ thông như:
- Nguyễn Minh Đăng (2012), Biện pháp quản lý TCM của HT trường
THPT huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
- Bùi Đức Tấn (2011), Quản lý hoạt động TCM của HT các trường THPT
thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

8


- Phạm Khánh Tường (2003), Một số biện pháp quản lý chuyên môn
của HT đối với GV mới vào nghề của một số trường THPT ở Hải Phòng Luận
văn thạc sĩ khoa học giáo dục

- Nguyễn Hữu Hòa (2009), Một số biện pháp quản lý hoạt động TCM
của HT các trường THPT thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Luận văn thạc sĩ
khoa học giáo dục…..
Thông qua những nghiên cứu của mình, nhìn chung các tác giả đã đề
cập đến những khía cạnh khách nhau của SHCM theo NCBH như: khái niệm
NCBH, các bước triển khai NCBH, những lợi ích của NCBH… Đồng thời
cũng đề cập đến những khía cạnh của quản lý SHCM trong nhà trường phổ
thông như: khái niệm quản lý; vị trí, vai trò của tổ chuyên môn trong nhà
trường phổ thông… Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu việc
quản lý SHCM theo NCBH ở trường THPT.
Do đó, trong đề tài này tác giả sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề quản lý
SHCM theo NCBH. Từ đó, đề xuất các biện pháp quản lý SHCM theo NCBH
trong nhà trường THPT với hi vọng góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học, đáp ứng được mục tiêu mà “Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã đặt ra.
1.2. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường trung học
phổ thông
1.2.1. Sinh hoạt chuyên môn ở trường trung học phổ thông
1.2.1.1. Khái niệm sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT
Sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT là hoạt động được thực hiện
thường xuyên và định kỳ nhằm bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ giáo viên để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mà nhà trường đã đề
ra. Theo Khoản 3 – Điều 16 của Điều lệ trường trung học có quy định: “Tổ

9


chuyên môn họp hai tuần một lần và có thể đột xuất theo yêu cầu công việc
hay khi Hiệu trưởng yêu cầu” [2].

Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau xung quanh thuật ngữ sinh hoạt
chuyên môn ở trường THPT.
SHCM là hoạt động trong đó GV học tập lẫn nhau, học tập trong thực
tế, là nơi thử nghiệm và trải nghiệm những cái mới, là nơi kết nối lý thuyết
với thực hành, giữa ý định và thực tế. [21]
Một số tác giả cho rằng: sinh hoạt chuyên môn là hoạt động được thực
hiện thường xuyên theo định kỳ nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,
năng lực sư phạm cho giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp thông qua việc dự
giờ, phân tích bài học. [18]
Theo tác giả Vũ Thị Sơn thì “Sinh hoạt chuyên môn là hình thức hoạt
động chung của tập thể sư phạm trong một trường, một tổ bộ môn (hoặc
khối) để GV trao đổi, học tập, bồi dưỡng và thực hiện các nhiệm vụ chuyên
môn nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của GV cũng như chất lượng dạy
học của nhà trường” [16;20]
Mặc dù khái niệm sinh hoạt chuyên môn được hiểu ở những góc độ
khác nhau, song dù tiếp cận ở góc độ nào thì sinh hoạt chuyên môn cũng có
một số đặc điểm chủ yếu sau: sinh hoạt chuyên môn là hoạt động thường
xuyên của các trường phổ thông, các trung tâm giáo dục thường xuyên và là
một trong những hình thức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực sư
phạm cho giáo viên, giúp giáo viên chủ động lựa chọn nội dung hình thức và
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của
lớp/trường mình.
1.2.1.2. Vị trí, vai trò của sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT
Sinh hoạt tổ chuyên môn là một hoạt động chuyên môn không thể thiếu
trong hoạt động của nhà trường THPT. Đó là dịp để trao đổi chuyên môn góp
phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Thông qua sinh hoạt tổ
10


chuyên môn sẽ xuất hiện nhiều ý tưởng cho một bài dạy hay một nội dung

dạy học. Từ đó, phân tích và lựa chọn được phương pháp dạy học hiệu quả
nhất (nhất là với những nội dung kiến thức khó).
Việc sinh hoạt tổ chuyên môn thực hiện theo định kì quy định trong
Điều lệ trường THCS, THPT (2 tuần/lần. Thời gian do Hiệu trưởng quy định
và tuỳ yêu cầu về tính chất, nội dung công việc).
Nội dung sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT cần đa dạng, phong
phú, có thay đổi và phải có chuẩn bị trước về nội dung và cách thức tổ chức
thực hiện theo chức năng và nhiệm vụ quy định (tránh việc sinh hoạt chỉ để
giải quyết sự vụ, sự việc và/hoặc mang tính hành chính).
1.2.1.3. Các hình thức, quy trình sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT
 Các hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn
Hiện nay, SHCM ở các nhà trường THPT thường diễn ra theo nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế việc sinh hoạt chuyên môn
thường được thực hiện chủ yếu trên một số hình thức đó là: tổ chức theo các
chuyên đề; dự giờ trao đổi kinh nghiệm về bài học và sinh hoạt chuyên môn
theo nghiên cứu bài học (sinh hoạt chuyên môn dựa trên phân tích hoạt động
học của học sinh).
Sinh hoạt chuyên môn theo chuyên đề của tổ/ nhóm chuyên môn: Với
hình thức này, SHCM bao gồm việc triển khai học tập các văn bản chỉ đạo về
chuyên môn của cấp trên, tập huấn phương pháp dạy học và thường do BGH
triển khai. Ngoài ra, còn bao gồm cả việc tổ chức trao đổi, thảo luận, học tập
các nội dung cụ thể gắn với nhiệm vụ năm học và đặc điểm tình hình cũng
như điều kiện thực tế của mỗi nhà trường như: Nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác chủ nhiệm lớp, kinh nghiệm dạy một dạng bài, kiểu bài nào đó, kinh
nghiệm bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo HS yếu kém... Những nội dung này
thường được giao cho các GV có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn tốt
xây dựng thành các báo cáo chuyên đề hay sáng kiến kinh nghiệm.
11



Sinh hoạt chuyên môn theo dự giờ trao đổi kinh nghiệm về bài học. Ở
hình thức sinh hoạt chuyên môn này, các nhà trường tổ chức thường xuyên hơn.
Trong mỗi buỗi dự giờ có sự tham gia của BGH, tổ trưởng và hầu hết GV trong
tổ. Kết thúc quá trình dự giờ TCM tiến hành thảo luận rút kinh nghiệm về bài
học và đánh giá xếp loại tay nghề GV dạy buổi học ngày hôm đó.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học: Là hình thức sinh hoạt
chuyên môn mới được triển khai thời gian gần đây và bước đầu được triển
khai ở một số trường THPT. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
không tập trung vào quan sát việc giảng dạy của giáo viên để đánh giá giờ
dạy, xếp loại giáo viên mà khuyến khích giáo viên tìm ra nguyên nhân tại sao
học sinh chưa đạt được kết quả như mong muốn, đặc biệt là đối với những
học sinh gặp khó khăn về học. Từ đó giúp giáo viên chủ động điều chỉnh nội
dung, phương pháp dạy phù hợp, tạo cơ hội chi mọi học sinh tham gia vài quá
trình học tập để nâng cao chất lượng dạy và học.
 Quy trình SHCM ở trường THPT:
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của tổ chuyên môn trường trung học
phổ thông theo Điều lệ trường trung học, có thể khái quát quy trình sinh hoạt
chuyên môn ở trường THPT như sau:


Xây dựng kế hoạch Tổ chuyên môn- Lập hồ sơ quản lý tổ:

o

Xây dựng kế hoạch năm học TCM:
• Cơ sở để xây dựng KHNH là: Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo của

Bộ- Sở- PGD huyện- Trường; Kết quả năm học vừa qua thông qua báo cáo
tổng kết năm học; Năng lực GV trong tổ thông qua điều tra cơ bản; Trình độ
học sinh thông qua kết quả khảo sát chất lượng đầu năm; Cơ sở vật chất của

trường, của cá nhân GV nhất là công cụ phục vụ cho việc ứng dụng CNTT
vào giảng dạy; Các chi tiêu của tổ được giao trong KHNH chung của nhà
trường; Chuẩn các danh hiệu thi đua mà tổ đăng kí tham gia.

12


• Điều chỉnh KH: Việc điều chỉnh chủ yếu thường là đề ra các biện
pháp tích cực hơn, giúp cho kế hoạch năm học được thưc hiện tốt hơn.
o

Xây dựng kế hoạch trọng tâm hàng tháng trong kế hoạch năm học

của tổ: Phân công công việc cụ thể cho từng thành viên, thời gian hoàn thành,
biện pháp thực hiện.
 Tổ chức thực hiện:
* Phân công quản lý:
- Tổ trưởng: Chịu trách nhiệm chung về các hoạt động, lập kế hoạch,
phân công về tổ viên thực hiên, cùng với tổ phó kiểm tra hồ sơ, lập báo cáo
tháng, học kì cho BGH, kiểm tra việc thực hiện chỉ tiêu, có biện pháp điều
chỉnh kịp thời. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho GV...
- Tổ phó: Cùng với tổ trưởng tham gia tổ chức hoạt động của tổ, ghi
chép biên bản họp tổ, thay mặt tổ trưởng điều động công việc khi tổ
trưởng vắng mặt, chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động phong trào trong
tổ, cùng tổ trưởng tham gia dự giờ, hoàn thành kế hoạch thanh tra nội bộ
cùng tổ trưởng…
 Chỉ đạo thực hiện những nội dung sinh hoạt chuyên môn cụ thể:
• Chỉ đạo họp chuyên môn:
- Chuẩn bị: Thực hiện thông báo về nội dung họp tổ bằng văn bản hoặc
trên bảng tin của tổ đến GV trước một ngày diễn ra phiên họp để GV có thể

chuẩn bị tham gia thảo luận.
Mỗi tháng tổ trưởng tổ chức họp tổ, nhóm chuyên môn 2 lần vào tuần
thứ 2 và tuần thứ 4 hàng tháng (không tính những buổi họp đột xuất) có ghi
biên bản đầy đủ thông tin, nội dung cuộc họp, không ghi quá sơ sài. Ngoài các
nội dung như tổng kết hoạt động, đánh giá chất lượng hoạt động, phổ biến kế
hoạch mới giữa 2 kì họp, phân công và thảo luận biện pháp thực hiện được ghi
vào biên bản họp tổ. Thời gian còn lại được tập trung vào thảo luận nội dung
thực hiện công tác chuyên môn do tổ trưởng, tổ phó chủ động đinh hướng nội
dung, đảm bảo về thời gian và thiết thưc không gây quá tải cho GV.

13


• Chỉ đạo tổ chức hội giảng, thao giảng; bồi dưỡng và phụ đạo cho học sinh:
- Chuẩn bị: Tổ trưởng lên lịch dự giờ hàng tháng, GV đi dự xem lịch và
có chuẩn bị thật sự về nội dung bài dạy để tham gia đánh giá tiết dạy; Tổ
trưởng lên kế hoạch thao giảng trong tổ ít nhất 1 lần/tháng, bố trí thời gian
hợp lý để tất cả các thành viên trong tổ đều được tham gia; BGH lên kế
hoạch tổ chức Hội giảng ít nhất 1 lần/năm
- Đánh giá tiết dạy: Tiến hành sau khi tiết dạy kết thúc theo biểu mẫu
đánh giá các tiêu chuẩn của một tiết dạy ở trang đầu của sổ dự giờ, trong quá
trình dự giờ GV có chuẩn bị về nội dung góp ý, nên việc đánh giá tiết dạy
không bị động về thời gian, hạn chế việc dùng thời gian họp tổ để đánh giá
tiết dạy bình thường.
 Kiểm tra, đánh giá sinh hoạt chuyên môn:
- Thường xuyên kiểm tra công tác chuẩn bị của giáo viên cho những
buổi họp chuyên môn, những buổi hội giảng, thao giảng…
- Có những góp ý cho giáo viên sau những buổi hội giảng, thao giảng.
- Sau mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn, Tổ trưởng chuyên môn đánh giá
kết quả của buổi sinh hoạt chuyên môn, ưu điểm, những điểm cần cải thiện…

1.2.2. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường trung học
phổ thông
1.2.2.1. Khái niệm SHCM theo NCBH ở trường THPT
Bài học là một khối lượng kiến thức được cấu trúc theo một logic nhất
định, nó quy định hoạt động của người dạy và người học trong một khoảng
thời gian nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
Thuật ngữ “nghiên cứu bài học” dùng để chỉ một quá trình nghiên cứu,
học hỏi từ thực tế của một nhóm hay nhiều giáo viên trong một nhà trường
nhằm đáp ứng tốt nhất việc học tập có chất lượng của từng học sinh [5; 82].
“Nghiên cứu bài học” cũng có nghĩa là nghiên cứu và cải tiến bài học cho
đến khi nó hoàn hảo (theo Catherine Lewis, 2006). Thuật ngữ này có nguồn
gốc trong lịch sử giáo dục Nhật Bản, từ thời Meiji (1868 – 1912) như một
14


biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên thông qua nghiên
cứu, cải tiến từng bài học cụ thể. Cho đến nay, nghiên cứu bài học là một mô
hình phát triển nghề nghiệp của giáo viên được sử dụng rộng rãi tại các
trường học Nhật Bản, đã được giới thiệu ở nhiều quốc gia khác nhau và nhận
được sự ủng hộ nhiệt tình. Điều đó chứng minh tính ưu việt, sức hấp dẫn của
nghiên cứu bài học.
Thực tế hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ
SHCM theo NCBH.
Theo Vũ Thị Sơn: SHCM theo NCBH như một hình thức SHCM lấy
nghiên cứu, cải tiến thực tiễn làm phương tiện để tạo ra môi trường cho các
giáo viên học tập từ chính quá trình cùng quan sát, phân tích và suy ngẫm về
những cái diễn ra trong những giờ học thực. [17; 22]
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt động giáo viên
cùng nhau học tập từ thực tế việc học của học sinh. Ở đó, giáo viên cùng
nhau thiết kế kế hoạch dạy học, cùng nhau dự giờ, quan sát, suy ngẫm và

chia sẻ (tập trung chủ yếu vào việc học của học sinh) bài học. Đồng thời đưa
ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm vụ
học tập mà giáo viên đưa ra có ảnh hưởng đến việc học của học sinh. Trên
cơ sở đó, giáo viên được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều
chỉnh nội dung, phương pháp dạy học vào bài học hằng ngày một cách hiệu
quả. [4; 82-83]
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt động sinh hoạt
chuyên môn mà ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến
người học trong một bài học như: Học sinh học bài học này như thế nào?
Học sinh đang gặp khó khăn gì khi học bài này? Nội dung và phương pháp
dạy học trong bài này có phù hợp, có gây được hứng thú cho học sinh
không? Kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không? Cần điều
chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào? [3;107]

15


Từ các quan điểm trên có thể thấy, khái niệm SHCM theo NCBH được
hiểu một cách khá thống nhất, đó là:
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học không tập trung vào
việc đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên
tìm ra nguyên nhận tại sao học sinh chưa đạt được kết quả như mong muốn
và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho tất cả học
sinh được tham gia vào quá trình học tập; giúp giáo viên có khả năng chủ
động điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng
học sinh của lớp, của trường mình.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học tạo ra cơ hội cho tất cả
giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và phát huy khả
năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp dạy học thông qua việc
dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau dự giờ.

Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học còn góp phần làm thay
đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường: cải thiện mối quan hệ giữa ban giám
hiệu với giáo viên; giáo viên với giáo viên; giáo viên với học sinh; học sinh
với giáo viên; cán bộ quản lý/giáo viên/ học sinh với các nhân viên trong nhà
trường; giữa học sinh với học sinh. Tạo môi trường làm việc dạy và học bình
đẳng, thân thiện cho tất cả mọi người.
1.2.2.2. Sự cần thiết phải đổi mới sinh hoạt chuyên môn ở trường THPT
- Sinh hoạt chuyên môn theo hướng truyền thống chưa chú trọng vào
cải tiến chất lượng bài dạy. Sinh hoạt chuyên môn theo hướng truyền thống
thường sa vào hình thức hành chính là chủ yếu. Tổ trưởng là người điều hành
các tổ viên hoàn thành các thao tác lặp lại như: đánh giá nhận xét quá trình
hoạt động trong tuần, triển khai một số công việc mới trong thời gian tới. Nếu
chuẩn bị có thao giảng, chuyên đề thì tất cả cùng tập trung bàn bạc, góp ý
xoay quanh tiết dạy đó.
- Chưa phát huy hết sức mạnh, trí tuệ tập thể của đội ngũ giáo viên:
việc soạn giáo án chỉ do một GV xây dựng nên giáo án còn tính cá nhân, là
16


sản phẩm của một cá nhân mà không có sự hội ý của các đồng nghiệp. Vì vậy,
chưa phát huy được hết sức mạnh của tập thể giáo viên.
- Gây ra tâm lý căng thẳng cho giáo viên và học sinh: trong quá trình
dự giờ các GV dự giờ chỉ quan sát GV theo những tiêu chí có sẵn. Điều này
sẽ gây áp lực cho GV dạy, tạo không khí căng thẳng cho bài dạy. Vì vậy, dễ
gây áp lực và căng thẳng cho các GV trong suốt tiết dạy. Mặt khác, việc quan
sát chỉ mang tính chất một chiều nên sẽ không đánh giá được tổng quan hiệu
quả của bài dạy. Ngoài ra, GV giảng dạy chuyên đề, thao giảng thường đi
theo một khung chương trình sẵn có, phản ánh trung thành kiến thức trong
sách giáo khoa chứ rất ít quan tâm đến tầm đón nhận của học sinh.
- Chỉ quan tâm đánh giá giáo viên mà chưa chú ý đến những vấn đề

liên quan đến người học: việc đánh giá giờ dạy theo hình thức dự giờ truyền
thống chỉ quan tâm tới việc xếp loại GV (chú ý quá nhiều vào bài dạy) mà
chưa quan tâm phân tích các vấn đề liên quan đến người học như: học sinh
học như thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong học tập, hay, những
nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây được hứng thú cho học
sinh hay không….
- Làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đồng nghiệp trong tập thể sư phạm:
trong sinh hoạt chuyên môn theo mô hình truyền thống thì các ý kiến góp ý
chỉ tập trung vào cách dạy của GV. Điều này rất dễ gây áp lực cho GV dạy.
Đôi khi, việc góp ý vô tình lại biến thành chỉ trích giữa các GV, làm ảnh
hưởng đến mối quan hệ giữa các GV trong tập thể sự phạm.
Trong bối cảnh giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông ở nước ta nói
riêng đang tiến hành đổi mới nội dung chương trình theo hướng: tiếp cận
năng lực của người học, “dạy học hướng vào người học” thì việc sinh hoạt
chuyên môn theo mô hình truyền thống lại chủ yếu hướng vào GV là không
phù hợp. Đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang tiến hành “Đề án đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
17


hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế” như hiện nay. Do đó, các trường THPT thông hiện nay cần
phải chuyển từ SHCM theo mô hình truyền thống sang một mô hình SHCM
mới để từng bước nâng cao được hiệu quả dạy và học trong nhà trường.
1.2.2.3. Quy trình sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
Mô hình nghiên cứu bài học có nguồn gốc từ lịch sử giáo dục Nhật Bản
như một biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp cho giáo viên. Cho đến
nay, NCBH là một mô hình phát triển nghề nghiệp của giáo viên được sử
dụng rộng rãi tại các trường học ở Nhật Bản, đã được giới thiệu ở nhiều quốc
gia và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình. Hiện nay, có nhiều cách phân chia các

giai đoạn của quá trình NCBH.
 Theo Nguyễn Mậu Đức và Hoàng Thị Chiên: NCBH được mô tả
trong nhiều tài liệu quốc tế, là một quá trình gồm 6 bước: Bước 1: Hợp tác
lập kế hoạch một bài học; Bước 2: Quan sát việc thực hiện bài học; Bước 3:
Thảo luận về bài học; Bước 4: Sửa đổi kế hoạch bài học (tùy chọn); Bước 5:
Dạy các phiên bản sửa đổi của bài học (tùy chọn); Bước 6: Chia sẻ ý kiến và
quan điểm về các phiên bản sửa đổi của bài học. [10; 36]
 Theo Lewis (2002) quá trình NCBH được chia thành 4 bước: Tập
trung vào bài học nghiên cứu; Đặt kế hoạch cho bài học nghiên cứu; Dạy và
thảo luận về bài học nghiên cứu; Suy ngẫm và tiếp tục dạy hay đặt kế hoạch
tiếp theo. [5]
 Mô hình SHCM theo NCBH được tổ chức Plan Việt Nam giới thiệu
và đang được Dự án giáo dục trung học cơ sở vùng khó khăn nhất triển khai
áp dụng tại các trường về cơ bản bao gồm 4 bước như sau: Chuẩn bị thiết kế
bài học minh họa; Tổ chức dạy minh họa và dự giờ; Suy ngẫm, thảo luận về
giờ học; Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày. [3;124]

18


×