Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Quản lý hoạt động dạy học thực hành tại trường Cao đắng Du lịch Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 104 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền giáo dục Việt nam đã trải qua hơn ba lần cải cách và đổi mới giáo dục,
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Kế thừa và phát huy tư tưởng giáo dục của Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt nam đã, đang và luôn có những điều chỉnh, đổi
mới căn bản và toàn diện về giáo dục nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của xã
hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Chỉ thị 40 - CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên
cơ sở phát huy nguồn lực con người. Phát triển giáo dục là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, trong đó nhiệm vụ cấp thiết là phải thiết kế, xây dựng và đào tạo
nên đội ngũ nòng cốt các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm
bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua việc
quản lý, phát triển sự nghiệp giáo dục theo đúng định hướng”. [2]
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu” [3] đồng thời đề ra “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020” với
chủ trương ưu tiên nâng cao chất lượng giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục
lành mạnh, đồng thời tăng cường công tác thanh tra kiểm soát chất lượng giáo dục
đào tạo tại các bậc học
Tiếp nối thực hiện nghị quyết TW2 khóa VIII, trong Thông báo số 242 TB/TW- Kết luận của Bộ Chính trị (Khóa X) khẳng định phương hướng phát triển
giáo dục và đào tạo đến năm 2020, trong đó xác định “Xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, nhiệt tình,
tâm huyết với nghề, mỗi thầy giáo, cô giáo phải là một chiến sỹ cách mạng trên mặt
trận văn hóa và giáo dục, hội tụ đủ cả tài và đức, là tấm gương trong sáng cho học
sinh noi theo, luôn gương mẫu từ lời nói đến việc làm”. [2]

1



Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI khẳng định: đối với giáo dục
nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề
nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình
độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, tập trung đào tạo
nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học,
tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ
thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Luật Dạy nghề [22], các văn bản, chính
sách Nhà nước về quản lý đào tạo nghề đã, đang dần được hoàn thiện. Tuy nhiên,
việc quản lý đào tạo nghề hay quản lý hoạt động dạy học thực hành vẫn chưa thực
sự đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu của xã hội. Trường Cao đẳng Du lịch Hà nội hiện
đào tạo trên 5.000 học sinh, sinh viên theo học các ngành nghề đào tạo từ trình độ
sơ cấp, trung cấp và cao đẳng. Hoạt động dạy học thực hành tại trường cũng như tại
các cơ sở giáo dục khác đang thực hiện theo chương trình chuẩn dựa trên thời gian
chuẩn, khả năng tay nghề chuẩn…Việc xây dựng chương trình đào tạo chỉ chú
trọng đến tay nghề trong một thời gian đào tạo quy định, vì vậy khi lựa chọn
phương pháp giảng dạy, người giáo viên chỉ cần giảng dạy tốt. Hình thức truyền thụ
áp đặt một chiều này chỉ tạo ra thứ sản phẩm giáo dục theo lối ghi nhớ máy móc,
không phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học. Theo quan điểm giáo dục hiện nay, mục tiêu của đào tạo là
phải thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của người học, của xã hội. Vấn đề đặt ra cho nhà
trường là phải xây dựng một đội ngũ cán bộ và các giáo viên cần phải đảm bảo về
số lượng, cơ cấu, năng lực (trình độ, kỹ năng...) và khả năng thích ứng. Xuất phát từ
nhu cầu cấp thiết trên, tác giả đã chọn “Quản lý hoạt động dạy học thực hành tại
trường Cao đắng Du lịch Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng dạy học thực hành đề xuất
các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động dạy học thực hành tại trường
Cao đẳng Du lịch Hà Nội nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, đào tạo của các đối tượng


2


học nghề sơ cấp, trung cấp và cao đẳng tại trường và đáp ứng nhu cầu lao động của
xã hội
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lí hoạt động dạy học thực hành tại trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành tại trường Cao đẳng Du
lịch Hà Nội
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài này chỉ khảo sát nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực
hành tại trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội và tổ chức thực hiện biện pháp quản lý
hoạt động dạy học thực hành trong những năm học tiếp theo.
5. Giả thuyết khoa học
Thực trạng quản lí hoạt động dạy học thực hành tại trường Cao đẳng Du lịch
Hà Nội còn tồn tại một số bất cập. Nếu nghiên cứu đề xuất được các biện pháp khả
thi nhằm nâng cao chất lượng quản lí hoạt động dạy học thực hành tại trường thì se
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu:
. 6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
6.2. Nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng quản
lí hoạt động dạy học thực hành tại trường Cao đẳng du lịch Hà Nội.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành tại
trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích,
tổng hợp các tài liệu lý luận, các văn kiện Đảng, các chủ trương, chính sách của nhà
nước, của ngành, của địa phương có liên quan đến đề tài .

7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát, thu
thập số liệu, phân tích, tổng hợp các vấn đề thực tiễn liên quan đến đề tài và lấy ý
kiến chuyên gia về mức độ cần thiết, khả thi của các biện pháp.

3


7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ khác: Phương pháp thống kê, phương
pháp dự báo, phương pháp so sánh.
8. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu: Trình bày những vấn đề chung của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lí hoạt động dạy học thực hành tại các
trường Đại học và Cao đẳng
Chương 2: Thực trạng quản lí hoạt động dạy học thực hành tại Trường
Cao đẳng Du lịch Hà nội
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành tại Trường
Cao đẳng Du lịch Hà nội
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục các tài liệu tham khảo và các phụ lục

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THỰC HÀNH
TẠI CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Xu thế phát triển của xã hội ngày nay đang đặt ra những yêu cầu, những
thách thức mới đối với nhà trường. Trong xu thế hội nhập, giao lưu quốc tế ngày càng
được mở rộng và thân thiện, song hành với ước muốn về chung sống hoà bình, dân

chủ, bình đẳng, công bằng và khả năng gìn giữ hoà bình đang được củng cố là các vấn
đề về phân hoá giàu nghèo, nạn thất nghiệp ngày một gia tăng. Đây chính là một bài
toán nan giải cho các nhà hoạch định chính sách của mỗi quốc gia trong đó bao gồm cả
Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII khóa XI nhận định: Chất lượng và
hiệu quả giáo dục - đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ,
giữa các chương trình và phương thức giáo dục - đào tạo, còn nặng lý thuyết, nhẹ
thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và
nhu cầu của thị trường lao động, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức,
lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu
kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng,
cơ cấu, một bộ phận không nhỏ trong ngành chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát
triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đầu tư cho
giáo dục - đào tạo chưa hiệu quả, chưa phù hợp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và
lạc hậu. [3].
Tiếp nối nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, nghị quyết Hội nghị Trung
ương VIII khóa XI khẳng định: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục phải bắt đầu
từ chính đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết
quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh

5


giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội
và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. [3].
Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ,
cuối năm học, đánh đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá
của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.

Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề
nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề
nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh
giá chất lượng của cơ sở đào tạo.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa
phương, từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để
làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất
lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả
kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo
đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài…
Xã hội hiện nay luôn không ngừng biến đổi nhằm tiến tới đạt được một xã
hội thông tin và tri thức. Nền kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải xây dựng được lực lượng
lao động “tư duy”. Điều này có nghĩa là bối cảnh của việc dạy học đã thay đổi, vậy
câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lí là cần phải thay đổi theo chiều hướng nào và
phương thức nào để có thể đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội và của người
học. Trong bối cảnh trách nhiệm lớn đòi hỏi các nhà quản lý phải có sự sắp xếp, tổ
chức lại các hoạt động trong nhà trường, sự thay đổi này phải được thực hiện ngay
từ trong cơ cấu điều hành, quản lí, trong công tác dạy và học, trong việc xác định rõ
những chuẩn mực về nội dung và kết quả giáo dục…
Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Văn hóa
- Thể thao và Du lịch , là Trường Cao đẳng đầu ngành, đảm nhận chức năng đào tạo
trình độ: sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn, có kỹ năng giao tiếp ngoại ngữ đáp ứng các yêu cầu phát triển trong
lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực liên quan đến du lịch, tổ chức nghiên cứu khoa học

6


và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực hoạt động của trường nhằm nâng cao chất lượng

đào tạo, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh
tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 trở
thành trường Đại học Du lịch hoặc Học viện Du lịch đầu tiên của ngành [30].
Mặc dù trường có bề dày thành tích về kinh nghiệm giảng dạy nhưng hiện tại
chỉ trong khu vực các tỉnh phía Bắc đã và đang xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh
như : trường Cao đẳng Thương mại du lịch Hà nội, trường Cao đẳng kinh tế kỹ
thuật Bắc Thăng Long với mô hình quản lý gọn nhẹ, hình thức tuyển sinh đa dạng,
sử dụng giáo viên thỉnh giảng …Tại các tỉnh khác, đối thủ cạnh tranh của trường
cũng luôn không ngừng phát triển như trường Cao đẳng Du lịch Hải Phòng (tiền
thân là trường THNV Du lịch Hải Phòng), trường Cao đẳng nghệ thuật du lịch
Quảng Ninh ( tiền thân là trường Trung cấp văn hóa nghệ thuật Quảng Ninh),
trường Cao đẳng Du lịch Huế ( tiền thân là trường THNV Du lịch Huế) là những
trường ra đời sau nhưng lại có tốc độ phát triển chóng mặt. Câu hỏi đặt ra là nếu các
nhà quản lý, các giáo viên của trường CĐDLHN cứ sống mãi trong ánh hào quang
của quá khứ, không biết tự mình đổi mới tư duy, đổi mới phương thức hành động,
tự bản thân nhà trường se rơi vào tình trạng tụt hậu, đánh mất thương hiệu trong
một tương lai không xa.
Với đặc thù là trường đào tạo nghề, việc chú trọng vào khâu đào tạo kỹ năng
nghề luôn đòi hỏi các thế hệ giảng viên trong trường phải tìm tòi, đổi mới các
phương pháp giảng dạy, tích cực nâng cao kiến thức trình độ chuyên môn nhằm
truyền đạt cho HS - SV những kiến thức về nghề nghiệp bắt kịp với xu thế chung
của toàn xã hội và những đòi hỏi đa dạng của riêng ngành du lịch. Nhiều công trình
nghiên cứu khoa học được thực hiện bởi các cán bộ giáo viên, nhân viên trong
trường như: “Biện pháp Quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý của trường
CĐDLHN” của tác giả Đoàn Mạnh Cương, “Thiết kế chương trình đào tạo nghề
Chế biến món ăn theo module ở trường CĐDLHN” của tác giả Nguyễn Văn Song,
“Rèn luyện kỹ năng nghề cho sinh viên chuyên ngành Chế biến món ăn trường
CĐDLHN theo bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam” của tác giả Đỗ Việt
Cường…đều nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo và quản lý hoạt động giáo


7


dục của trường, nhưng vấn đề về “Quản lí hoạt động dạy học thực hành tại trường
Cao đẳng du lịch Hà Nội” vẫn là một đề tài chưa được tác giả nào khai thác và đề
cập đến, vì vậy đây là một đề tài hứa hẹn se mang đến những ý nghĩa thực tiễn về
giải pháp cho các nhà quản lí giáo dục của trường.
1.2. Các khái niệm chủ yếu được sử dụng trong đề tài
1.2.1. Khái niệm hoạt động dạy học, hoạt động học,
hoạt động dạy học thực hành
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là một hệ thống bao gồm nhiều thành tố : mục đích và
nhiệm vụ dạy học, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học, người dạy và
người học, hình thức tổ chức dạy, kiểm tra, đánh giá, môi trường văn hóa xã hội và
kinh tế….Các thành tố này tuy có chức năng riêng biệt, có mối quan hệ biện chứng
với nhau, vận động theo quy luật riêng nhưng vẫn tuân theo quy luật chung của toàn
hệ thống, có quan hệ qua lại, gắn bó mật thiết, tương tác và thống nhất với nhau.
Hoạt động dạy là sự tổ chức, điều khiển tối ưu quá trình người học lĩnh hội
tri thức, hình thành và phát triển nhân cách. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy là
giúp cho người học nắm được những kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ thông
qua hình thức tổ chức, điều khiển, kiểm tra nội dung, quá trình thực hiện, kết quả
của hoạt động học theo chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hoạt động dạy là hoạt động nhằm tác động đến người học và quá trình học
tập của người học. Người dạy và người học cần phải nỗ lực phát huy hết các yếu tố
chủ quan của cá nhân (năng lực, phẩm chất) nhằm xác định chính xác nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức kiểm tra đánh giá sao cho phù hợp để đạt
được mục đích và hiệu quả cao trong giáo dục.
1.2.1.2. Khái niệm hoạt động học
Chủ thể của hoạt động học là người học. Hoạt động học là quá trình hướng tới đối
tượng học( kiến thức, kỹ năng, thái độ), tự điều khiển nhằm chiếm lĩnh, tiếp nhận, chuyển

hóa các khái niệm khoa học và biến thành của riêng bản thân, thông qua đó người học
hình thành nên cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách toàn diện, đồng thời đạt được các
mục đích: trí dục, phát triển tư duy, năng lực hoạt động, thái độ, đạo đức…

8


Như vậy, có thể nói: Hoạt động dạy học là một quá trình hợp tác giữa
chủ thể của hoạt động dạy là người dạy và chủ thể của hoạt động học là người
học. Người dạy giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động tổ chức, lãnh đạo, điều
khiển hoạt động dạy. Người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động học tập, nhận thức của bản thân mình nhằm hình thành kiến
thức, kỹ năng, thái độ của người học. Hoạt động dạy và hoạt động học luôn tồn
tại song song và phát triển trong một quá trình thống nhất, bổ sung và chi phối
nhau, có tác động qua lại, kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể để
cùng phát triển.
1.2.1.3. Hoạt động dạy học thực hành
Hoạt động dạy học thực hành là một quá trình hợp tác giữa người dạy và
người học. Người dạy sử dụng các phương pháp, phương tiện hướng dẫn người học
các thao tác kỹ năng dựa trên kiến thức lí thuyết chuyên môn đã được học. Người
học chủ động trong hoạt động học tập, tích cực hợp tác với người dạy nhằm lĩnh
hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, phát triển tri thức nhằm đạt tối ưu mục tiêu học tập
là hình thành năng lực nghề nghiệp theo tiêu chuẩn, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Dạy học thực hành là một quá trình sư phạm tổ chức thực hiện bởi hai đối
tượng giáo viên dạy thực hành và học sinh nhằm đạt được mục tiêu đào tạo những
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho người học. Để đạt được đích đó, người giáo viên
cần phải xác định được mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của việc dạy đồng thời phải
xác định được tiến trình, phương pháp, phương tiện và cách thức tổ chức giảng dạy.
1.2.2. Khái niệm quản lí, quản lí giáo dục, quản lí nhà trường
1.2.2.1. Khái niệm quản li

Khoa học quản lí xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người,
mang ý nghĩa phạm trù khách quan được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu của
mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại.
Lao động quản lí là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức tạp nhất
của con người nhằm điều khiển lao động thúc đẩy xã hội phát triển trên tất cả các
bình diện. Khoa học quản lí gắn liền với tiền trình phát triển của xã hội loài người,
mang tính lịch sử, giai cấp, dân tộc, thời đại. Quản lí là một khoa học sử dụng tri

9


thức của nhiều môn khoa học xã hội, đồng thời quản lí còn là một nghệ thuật đòi
hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao độ để đạt được mục đích. Chính vì vậy người ta có
thể tiếp nhận khái niệm quản lí theo nhiều cách khác nhau.
Theo Các Mác, quản lí là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao
động. Quản lí có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông
qua hoạt động của con người và thông qua quản lí: “Tất cả mọi lao động xã hội trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng
cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự
vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều
khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [12, tr342 ].Như vậy,
trong công cuộc gia tăng giá trị con người không thể không đề cập đến vai trò và
hoạt động quản lí mà người lãnh đạo công cuộc này nắm giữ vai trò chủ thể, là
người quyết định sự thành bại của hoạt động quản lí. Không có người lãnh đạo thì
tổ chức không thể vận hành được, không thể tồn tại và phát triển.
Quản lí là quá trình tác động có ý thức của chủ thể vào một bộ máy được hợp
thành và gắn bó chặt che với nhau gồm chủ thể quản lý, đối tượng quản lí và mục
tiêu quản lí bằng cách vạch ra mục tiêu cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác
động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác định.

* Góc độ chính trị xã hội:
- Quản lí là sự kết hợp giữa tri thức với lao động. Sự phát triển của xã hội
bao giờ cũng bao gồm 3 yếu tố: tri thức, sức lao động và quản lí.
- Quản lí được xem là tổ hợp các cách thức, phương pháp tác động vào đối
tượng để phát huy khả năng của đối tượng nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. - Quản lí là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các
hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra (Xét từ góc độ
tổng thể các loại hình quản lí )
- Quản lí là một khoa học và là một nghệ thuật tác động vào một hệ thống xã
hội, chủ yếu là quản lí con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định.

10


* Góc độ hành động:
- Quản lí là quá trình điều khiển: chủ thể quản lý điều khiển hoạt động của
người dưới quyền và các đối tượng khác để đạt tới đích đặt ra. Điều khiển người
dưới quyền nghĩa là tổ chức họ lại, đưa họ vào guồng máy bằng các quy định, quy
ước tạo động lực và hướng họ vào mục tiêu theo một lộ trình nhất định.
- Quản lí là biết được chính xác điều mình muốn người khác làm và sau
đó biết được họ làm việc đó có tốt hay không.
Ngày nay, thuật ngữ quản lí đã trở nên khá phổ biến nhưng có nhiều quan
điểm khác nhau với những góc độ khác nhau phụ thuộc vào cái nhìn chủ quan và
tính mục đích hoạt động. Chúng ta có thể điểm qua một số khái niệm:
Từ điển Tiếng Việt viết: “Quản lí là hoạt động của con người tác động
vào tập thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu
chung [28].
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: hoạt động quản
lí là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí (người quản lí) đến
khách thể quản lí (người bị quản lí) - trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [15, tr.1].

Tác giả Trần Quốc Thành cho rằng: Quản lí là hoạt động có phối hợp bởi
nhiều yếu tố, nhiều con người nhằm định hướng các hoạt động theo một mục
tiêu nhất định và kiểm soát được tiến trình của hoạt động trong quá trình tiến
tới mục tiêu [23, tr2]
Tác giả Nguyễn Bá Sơn nhận định: Quản lí là tác động có mục đích đến
tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của học trong quá
trình lao động [22, tr 15]
Như vậy, bản chất của quản lí là cách thức tác động (tô
chức, điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lí đến
khách thể quản lí trong một tô chức nhằm làm cho tô chức vận
hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đã đề ra.
1.2.2.2. Khái niệm quản li giáo dục

11


Quản lí giáo dục có thể được hiểu là quản lí quá trình giáo dục và đào tạo trong
đó bao gồm quản lí quá trình dạy và học diễn ra ở các cơ sở giáo dục khác nhau. Quản
lý hệ thống giáo dục có thể xác định như là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý
thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích
của hệ thống ( từ Bộ đến trường, đến các cơ sở giáo dục khác…) nhằm mục đích đảm
bảo việc giáo dục xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, trên cơ sỏ nhận thức và tận dụng
những quy luật chung của chủ nghĩa xã hội, cũng như các quy luật của quá trình giáo
dục, của sự phát triển thể lực, tâm lý trẻ em, thiếu niên và thanh niên.
Có nhiều quan niệm về thuật ngữ “Quản lí giáo dục” từ các nhà nghiên cứu
khoa học.
Theo tác giả Trần Kiểm: Cũng như quản lí xã hội nói chung, quản lí giáo dục
là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình.
Mục đích của giáo dục chính là mục đích của quản lí, nó mang tính khách quan và
được hiện thực hóa bởi các nhà quản lí, đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng

xã hội… Quản lí giáo dục thể hiện ở nhiều cấp độ nhưng tập trung chủ yếu vào hai
cấp độ: cấp vĩ mô và vi mô. Quản lí giáo dục cấp vĩ mô là quản lí một nền / hệ
thống giáo dục: Quản lí giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lí nhằm huy
động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát…một cách có hiệu quả các nguồn lực
giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quản lí giáo dục cấp vi mô là quản lí trường
học/ tổ chức giáo dục cơ sở: là hệ thống những tác động tự giác ( có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lí đến tập thể giáo
viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội
trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo
dục của nhà trường. Bất kỳ nhà quản lí nào cũng đều tập trung vào ba nhiệm vụ chủ
yếu: quản lí công việc và tổ chức, quản lí con người, quản lí các hoạt động giáo dục
theo nghĩa rộng [16,tr.37]
Tác giả Nguyễn Sinh Huy và Hà Huy Dũng cho rằng: Quản lí giáo dục là tác
động một cách có mục đích và có kế hoạch vào toàn bộ lực lượng giáo dục, nhằm tổ
chức và phối hợp hoạt động của chúng, sử dụng một cách đúng đắn các nguồn lực

12


và phương tiện, thực hiện có kết quả những chỉ tiêu phát triển về số lượng và chất
lượng của sự nghiệp giáo dục theo phương hướng của mục tiêu giáo dục [11, tr 290]
Như vậy, có thể tóm tắt khái niệm quản lí giáo dục như sau:
Quản lí giáo dục là sự tác động có tính định hướng, có
mục đích, có kế hoạch của nhà quản lí giáo dục đến khách thể
quản lí giáo dục một cách hợp quy luật nhằm đạt được mục
tiêu giáo dục đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
1.2.2.3. Khái niệm quản li nhà trường
Trường học là một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác đào tạo,
giáo dục, nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trường học là thành tố khách thể

cơ bản của tất cả các cấp. Các cấp quản lí giáo dục tồn tại vì chất lượng và hiệu quả
hoạt động của nhà trường bao gồm cả các hoạt động dạy và học.
Quản lí nhà trường là tập hợp mọi nguồn lực của xã hội nhằm phát huy cao
nhất nội lực của nhà trường và thực hiện tốt các chức năng của nhà trường.
Bản chất của quản lí nhà trường là quản lí quá trình đào tạo trong nhà trường,
quản lí hoạt động dạy học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Việc quản lí nhà
trường không đơn thuần gói gọn trong quản lí việc dạy của giảng viên và việc học
của sinh viên mà nó còn bao gồm cả hoạt động quản lí nhân lực, tài lực, cơ sở vật
chất, phương tiện phục vụ cho việc dạy và học.
Trong quản lí nhà trường có những đối tượng quản lí cụ thể tạo nên những
lĩnh vực quản lí tương đối khác nhau bao gồm: quản lí hành chính và tài chính, quản
lí hoạt động chuyên môn (quản lí chương trình đào tạo), quản lí nhân sự (nhân viên,
giáo viên, người học), quản lí cơ sở hạ tầng kĩ thuật, quản lí các quan hệ giáo dục
trong nhà trường (giữa nhà trường với gia đình, với cộng đồng địa phương)
Theo tác giả Trần Kiểm: Quản lí nhà trường là hệ thống những tác động có hướng
đích của hiệu trưởng (principal) đến con người (giáo viên, cán bộ nhân viên và học
sinh) đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin…) hợp quy luật (quy
luật quản lí, quy luật giáo dục, quy luật tâm lí, quy luật kinh tế, quy luật xã hội…)
nhằm đạt mục tiêu giáo dục[16,tr.37]

13


Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh [13,tr 26]
Có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm quản lí nhà trường nhưng
vẫn có những điểm chung cơ bản như sau:
Quản lí nhà trường là tập hợp các tác động của chủ

thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm đẩy mạnh mọi
hoạt động của nhà trường thực hiện các mục tiêu dự
kiến.
1.2.3. Quản lí nhà trường ở trường Cao đẳng nghê
1.2.3.1. Mục tiêu của trường Cao đẳng nghê
Điều 4 Luật dạy nghề quy định: “Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ
thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với
trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[26]
Như vậy, mục tiêu chính của giáo dục nghề nghiệp trong đó có đào tạo nghề
tại các trường cao đẳng, cơ sở dạy nghề là đào tạo các đối tượng người lao động có
kiến thức, kỹ năng, thái độ, ý thức nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu lao động xã hội,
đồng thời giúp cho người học phát triển toàn diện năng lực chuyên môn, hoàn thiện
nhân cách.
1.2.3.2. Nhiệm vụ của trường cao đẳng nghê
Điều 6 Điều lệ trường Cao đẳng kèm Thông tư số 14/2009/TT-BGDĐT của
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định:
Trường Cao đẳng nghề có trách nhiệm tư vấn học nghề, tổ chức đào tạo
nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ, trang bị cho người học
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp phù hợp, có năng lực thực hành nghề
tương xứng với trình độ đào tạo.

14


Tổ chức xây dựng quy chế, kiểm duyệt và thực hiện các chương trình, giáo
trình, học liệu dạy nghề. Xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyển sinh đối với ngành
nghề được phép đào tạo. Tổ chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học,

kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào chương trình đào tạo. Thực hiện dân chủ, công
khai trong việc thực hiện các nhiệm vụ dạy nghề, nghiên cứu, ứng dụng khoa học,
công nghệ vào dạy nghề và hoạt động tài chính
Tổ chức các hoạt động dạy và học, thi, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp
bằng, chứng chỉ nghề theo quy định của Bộ trưởng Bộ LĐ-TBXH. Phối hợp với các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, gia đình người học trong hoạt động dạy nghề Tổ
chức cho người học nghề tham quan, thực tập tại doanh nghiệp, tư vấn việc làm
miễn phí cho người học
Quản lí đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên về số lượng, phù hợp với quy
mô và trình độ đào tạo theo quy định của pháp luật, đồng thời tổ chức cho giáo
viên, cán bộ, nhân viên và người học nghề tham gia các hoạt động xã hội. Quản lý
sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính của trường theo quy định
của pháp luật. Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định.
1.2.4. Khái niệm biện pháp quản lí
Biện pháp quản lí là tổ hợp nhiều cách thức tác động của chủ thể quản lí lên
đối tượng quản lí nhằm tác động đến đối tượng quản lí để giải quyết những vấn đề
trong công tác quản lí, làm cho hệ quản lí vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản lí
đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan, nâng cao khả năng hoàn thành có kết
quản các mục tiêu đặt ra. Biện pháp quản lí đòi hỏi sự tác động tương hỗ, biện
chứng giữa chủ thể và khách thể quản lí.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu khái niệm biện pháp quản lí không thể không đề cập
đến khái niệm phương pháp quản lí. Phương pháp quản lí là tổng thể những cách
thức tác động và bằng những phương tiện khác nhau của chủ thể quản lí đến hệ
thống bị quản lí nhằm đạt mục tiêu quản lí.
Như vậy, biện pháp quản lí nằm trong nội hàm khái niệm phương pháp quản
lí. Phương pháp quản lí nắm giữ vai trò quan trọng trong hệ thống quản lí, biện
pháp quản lí là yếu tố cần thiết không thể thiếu trong quá trình quản lí. Quá trình
quản lí là quá trình thực hiện các chức năng quản lí theo đúng các nguyên tắc đã

15



được xác định, các nguyên tắc đó được vận dụng và được thực hiện thông qua các
phương pháp quản lí nhất định và các biện pháp quản lí phù hợp. Việc vận dụng các
phương pháp quản lí cũng như áp dụng các biện pháp quản lí là nội dung cơ bản của
quản lí, phải đảm bảo phù hợp với mục đích và nguyên tắc quản lí chịu sự chi phối
của mục tiêu quản lí.
Có 4 loại biện pháp quản lí cơ bản là: Biện pháp hành chính tổ chức, biện
pháp tâm lí giáo dục, biện pháp thuyết phục và biện pháp kinh tế.
Biện pháp hành chính tổ chức: là cách tác động trực tiếp của chủ thể quản lí
đến đối tượng quản lí trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính bằng
mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định.
Biện pháp tâm lí giáo dục (còn được gọi là biện pháp tuyên truyền giáo dục):
là cách tác động của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí dựa trên cơ sở vận dụng
các quy luật tâm lí ứng dụng các thành tựu khoa học như Tâm lí học, Khoa học giáo
dục…nhằm khai thác tiềm năng con người, kích thích ý thức tự giác, lòng say mê,
sự sáng tạo của con người trong mọi hoạt động của tổ chức.
Biện pháp thuyết phục: là cách tác động của chủ thể quản lí đến đối tượng
quản lí dựa trên cơ sở lí le làm cho họ nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận
các yêu cầu của nhà quản lí, từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với yêu cầu.
Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí
dựa trên cơ sở thuyết động lực kinh tế với luận điểm: lợi ích kinh tế se tạo nên động
lực thúc đẩy con người tích cực hoạt động mà không cần sự can thiệp trực tiếp về
mặt hành chính của cấp trên.
Các biện pháp quản lí rất đa dạng đòi hỏi nhà quản lí phải biết lựa chọn và sử
dụng linh hoạt, sáng tạo để xử lí các tình huống trong từng trường hợp cụ thể giúp
hoạt động quản lí đạt hiệu quả tối ưu. Đó cũng chính là nghệ thuật quản lí.
Có thể khái quát như sau: Biện pháp quản lí là cách làm, cách giải quyết
những công việc cụ thể của công tác quản lí nhằm đạt được mục tiêu quản lí.
Biện pháp quản lí là tông thể cách thức tác động của

chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí trong quá trình tiến
hành các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

16


Biện pháp quản lí là những phương pháp quản lí cụ thể trong những sự
việc cụ thể, đối tượng cụ thể, tình huống cụ thể.

1.3. Lí luận về quản lí hoạt động dạy học thực hành
1.3.1. Quản lí hoạt động dạy học
Quản lí hoạt động dạy học bao gồm nhiều nội dung nhưng tập trung chủ yếu
vào các nội dung:
-

Quản lí kế hoạch hoạt động dạy học

-

Quản lí nội dung, kế hoạch, chương trình giảng dạy

-

Quản lí phương pháp dạy học

-

Quản lí hoạt động dạy học của giáo viên

-


Quản lí hoạt động học tập của học sinh - sinh viên

Quản lí hoạt động dạy học đóng vai trò quan trọng nhất trong các nội
dung của quản lí nhà trường (quản lí tài chính, cơ sở vật chất, nguồn lực, hoạt
động dạy học…).
Quản lí hoạt động dạy học là những tác động của chủ thể quản lí vào
hoạt động dạy học có sự đóng góp, hỗ trợ của các lực lượng xã hội nhằm góp
phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của người học để đạt được
mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Quản lí hoạt động dạy học là hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm khơi
dậy và phát huy nội lực của người học và của người dạy để dạy tốt, học tốt, tạo ra
sự hăng say, ham học hỏi và yêu nghề của người học.
Quản lí hoạt động dạy học nghĩa là phải quản lí hoạt động dạy và hoạt động
học, trong đó hoạt động dạy học bao gồm dạy học lí thuyết và dạy học thực hành,
thực tập tại cơ sở.
- Quản lí hoạt động dạy học là quản lí nhiệm vụ giảng dạy của đội ngũ giáo
viên. Trong quá trình giáo dục, người giáo viên đảm nhận vai trò của đối tượng
quản lí, chủ thể quản lí của hoạt động dạy học. Vì vậy, giáo viên luôn phải có ý thức

17


trách nhiệm tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy, nâng cao
chất lượng hoạt động dạy của bản thân.
- Quản lí hoạt động học là quản lí nhiệm vụ học tập, nghiên cứu, rèn luyện
của người học trong suốt quá trình học tập. Để có thể làm tốt công tác quản lí hoạt
động học tập, người quản lí cần phải lưu ý tới những yếu tố khách quan và chủ quan
có tác động gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình cũng như kết quả
học tập của học sinh (tính phức tạp, sự chuyển biến nhân cách…). Người quản lí

cần biết đề ra được những nội dung, yêu cầu cụ thể cho từng nhóm đối tượng người
học, từng giai đoạn học tập để có phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng đào
tạo một cách phù hợp và hiệu quả.
Quản lí hoạt động dạy học được triển khai thông qua công tác quản lí của đội
ngũ cán bộ quản lí tổ chuyên môn, đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, ban cán sự lớp…
Như vậy, quản lí hoạt động dạy học thực chất là những tác động của chủ
thể quản lí vào hoạt động dạy học, được tiến hành bởi tập thể cán bộ, giáo viên,
học sinh - sinh viên trên cơ sở hỗ trợ của các lực lượng xã hội nhằm góp phần
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh- sinh viên theo mục tiêu
đào tạo của nhà trường.
1.3.2. Quản lí hoạt động dạy học thực hành
Quản lí hoạt động dạy học thực hành là những tác động của chủ thể quản lí
(tập thể cán bộ, giảng viên, kỹ thuật viên và người học) vào hoạt động dạy học thực
hành cùng với sự hỗ trợ của các lực lượng xã hội nhằm góp phần hình thành kiến
thức, kỹ năng, thái độ, phát triển khả năng thực hành tương ứng với môn học, ngành
học, hình thành năng lực chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng, kỹ xảo cho người học.
Quản lí hoạt động dạy học thực hành phải được tiến hành song song và đồng bộ với
quản lí hoạt động dạy học lí thuyết nhằm duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo của
nhà trường.
Quản lí hoạt động dạy học thực hành là tác động một cách có mục đích và có
kế hoạch lên toàn bộ lực lượng giáo dục, nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của
chúng, sử dụng một cách đúng đắn các nguồn lực và phương tiện, thực hiện có kết

18


quả những chỉ tiêu phát triển về số lượng và chất lượng của hoạt động rèn luyện kỹ
năng nghề nghiệp cho người học theo mục tiêu của chương trình đào tạo.
1.3.3. Vị trí của dạy học thực hành:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có lời dạy: “Học đi đôi với lao động, lí luận đi đôi

với thực hành…”
Tiếp nối tư tưởng của Người, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Trung ương
Đảng khóa VIII đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế- xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ. Thực tiễn giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lí luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành,
nhà trường gắn liền với gia đình, xã hội”
Dạy học thực hành chiếm một vị trí rất quan trọng trong các chương trình
đào tạo của các trường đào tạo nghề và hệ thống giáo dục. Thông qua hoạt động dạy
học thực hành, người giáo viên giúp cho người học hình thành và phát triển kỹ năng
thực hành nghiệp vụ.
Để hình thành và phát triển được kỹ năng nghề người học phải thực hiện 5
bước sau:
- Trình diễn: Giáo viên phải trình diễn thật chính xác ngay ở lần đầu tiên kết
hợp việc phân tích, giải thích những vấn đề cơ bản. Người học phải quan sát, ghi
nhớ và hình thành được các trình tự hành động. Mỗi kỹ năng đều phải có bản hướng
dẫn thực hành kèm theo. Giáo viên dạy thực hành có thể se phải lặp lại hoạt động
trình diễn cho đến khi tất cả học sinh đều hiểu rõ quy trình thực hiện.
- Luyện tập từng bước: Giáo viên dạy thực hành sau khi hướng dẫn thực hiện
từng bước của kỹ năng se tổ chức cho học sinh lặp lại từng bước một cách chính
xác. Giáo viên cần kiểm tra tỉ mỉ từng bước thực hiện của học sinh. Việc thực hành
từng bước này giúp học sinh ghi nhớ rõ ràng quy trình thực hiện như trong bản
hướng dẫn thực hành
- Luyện tập có hướng dẫn: Học sinh luyện tập độc lập hoặc luyện tập theo
cặp dưới sự giám sát chặt che của giáo viên cho đến khi họ có thể thực hiện công
việc một cách an toàn.

19


- Luyện tập độc lập: Học sinh luyện tập dưới sự giám sát của giáo viên

nhưng mức độ giảm dần cho đến khi có thể tự thực hiện công việc một cách thành
thạo, chính xác mà không cần đến sự giám sát.
- Luyện tập định kỳ: Sau khi hình thành được một kỹ năng, hàng tuần, hàng
tháng, giáo viên dạy thực hành tổ chức cho học sinh trình diễn lại kỹ năng đó. Việc
thực hành theo định kỳ se giúp cho học sinh thực hiện công việc như một thói quen.
Sơ đồ 1: Các giai đoạn hình thành và phát triển kỹ năng thực hành
Hoạt động luyện tập

Hoạt động luyện tập

Trình diễn

Rõ ràng

Luyện tập
từng bước

Đúng

Luyện tập
có hướng dẫn

An toàn

Luyện tập độc lập

Thành thạo

Thực hiện dự án
giải quyết vấn đề


Tự tin

20


1.4. Nội dung của biện pháp quản lí dạy học thực hành
1.4.1. Quản lí việc lập kế hoạch DHTH:
Quản lí việc lập kế hoạch DHTH nằm trong nội dung quản lí kế hoạch đào
tạo của nhà trường. Phòng ĐT lập kế hoạch đào tạo trình Hiệu trưởng phê duyệt,
triển khai kết hợp với các khoa/ tổ bộ môn phân công thực hiện kế hoạch đào tạo
trong đó bao gồm cả kế hoạch DHTH dựa trên các tiêu chuẩn quy định về giờ học
thực hành, chuẩn quy định đầu ra của học sinh nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng
nội dung, chương trình và tiến độ học tập theo kế hoạch đào tạo chung của nhà
trường. Việc lập kế hoạch đào tạo được thực hiện trình tự qua các khâu: thu thập
thông tin, tổ chức lập kế hoạch, giám sát thực hiện mục tiêu, điều chỉnh nội dung
nguồn lực, biện pháp, tiến độ hoạt động và kiểm tra việc tuân thủ các yêu cầu dạy
học thực hành. Nội dung của kế hoạch dạy học thực hành phải đảm bảo được mục
tiêu đào tạo thực hành và mục tiêu đào tạo chung, thời gian và phân bổ thời gian
cho khóa học, thời gian thực học tối thiểu trong hoạt động thực hành.Việc DHTH
phải được thực hiện trước khi học sinh đi học thực tập tại cơ sở dưới sự giám sát,
quản lí, đánh giá của phòng ĐT và các khoa/ tổ bộ môn.
1.4.2. Quản lí thực hiện nội dung, chương trình DHTH:
1.4.2.1. Quản li nội dung DHTH :
Hoạt động quản lý nội dung DHTH là một biện pháp được thực hiện nhằm
đảm bảo chất lượng và mục tiêu đào tạo đã đề ra của nhà trường về mặt kỹ thuật và
chuyên môn. Đây là một biện pháp rất quan trọng trong quá trình đào tạo bao gồm
quản lí thực hiện kế hoạch, tiến độ thời gian và các hoạt dộng giảng dạy, học tập và
các hoạt động khác, quản lí nội dung, kế hoạch giảng dạy thực hành, quản lí hoạt
động thực tập nghề nghiệp. Để có thể thực hiện tốt công tác quản lí nội dung

DHTH, yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lí là phải biết cách tổ chức và điều

21


khiển thực hiện đúng và tốt chương trình học phần. Việc thực hiện đúng và tốt
chương trình DHTH se đảm bảo khối lượng kiến thức và chất lượng tay nghề cho
HSSV theo đúng với mục tiêu đào tạo đồng thời tạo động lực cho HSSV tích cực
học tập, lao động biến kiến thức truyền thụ của giáo viên thành kiến thức của bản
thân để từ đó vận dụng vào thực tế, phát triển nó theo tiêu chuẩn nghề nghiệp.
Phòng KĐCLGD, phòng ĐT, các khoa, tổ bộ môn là những đơn vị chịu trách nhiệm
thực hiện công tác quản lí này. Hiệu trưởng có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho đơn
vị chức năng tham gia dự giờ dạy học thực hành để có thể kiểm tra việc thực hiện
nội dung, chương trình DHTH của các giáo viên DHTH có đúng tiến độ, đủ kiến
thức và chất lượng đào tạo hay không để kịp thời chỉ đạo chỉnh sửa.
1.4.2.2. Quản li chương trình DHTH :
Công tác quản lí chương trình DHTH là quản lí việc thực hiện đúng, đầy đủ
toàn bộ nội dung kiến thức của các học phần thực hành nghiệp vụ theo thời lượng
yêu cầu đặc trưng của mỗi ngành nghề đúng với mục tiêu đã xác định, đúng với kế
hoạch DHTH của mỗi cấp bậc đào tạo.
Trên cơ sở chương trình DHTH, phòng ĐT kết hợp với các khoa, tổ bộ môn
lên kế hoạch xây dựng tiến độ đào tạo cho cả khóa học, năm học, lịch trình giảng
dạy các học phần, từ đó triển khai phân công nhiệm vụ cho các GV nghiên cứu
chương trình, chuẩn bị giáo trình, tài liệu, phương pháp, phương tiện giảng dạy cho
cho các học phần. Giáo viên luôn phải ý thức được đây là nhiệm vụ quan trọng
nhằm đảm bảo cho công tác DHTH đạt hiệu quả tối ưu, hoàn thành tốt chức trách
được giao, đảm bảo hoạt động đào tạo đạt được mục tiêu đã đề ra.
1.4.3. Quản lí việc soạn giáo án, chuẩn bị giờ lên lớp
Công tác biên soạn giáo trình, giáo án, chuẩn bị phương pháp DHTH là
những khâu vô cùng quan trọng quyết định chất lượng giờ giảng của GVTH. Các

công tác này đều phải căn cứ tiêu chuẩn quy định về nghề và được thực hiện cho
từng tiết dạy, bài dạy cụ thể và cả khóa học.
Soạn giáo án là công việc chuẩn bị hết sức quan trọng của người dạy trước
khi tiến hành thực hiện giờ giảng. Giáo viên được phân công đảm nhận nhiệm vụ
DHTH tự xây dựng, thiết kế giáo án bài giảng, chuẩn bị phương pháp, phương tiện

22


DHTH chi tiết cho mỗi tiết dạy. Giáo án phải thể hiện rõ nội dung cần truyền thụ,
cách tổ chức lớp học, ấn định thời gian, các tình huống giả định, phương thức xử lý
tình huống…Cấu trúc của giáo án có thể thay đổi tùy theo loại bài học kiến thức
mới, bài tập, bài ôn tập, bài tổng kết, bài kiểm tra định kỳ. Phòng ĐT, khoa, tổ bộ
môn chức năng có trách nhiệm thống nhất và hướng dẫn cho giáo viên DHTH các
quy định và yêu cầu về soạn giáo án, chuẩn bị phương pháp, phương tiện DHTH
theo chương trình khung của Bộ GD&ĐT, đồng thời trực tiếp hoặc gián tiếp tổ chức
kiểm tra, giám sát thường xuyên hoặc đột xuất việc soạn giáo án của giáo viên
DHTH nhằm đảm bảo chất lượng và nề nếp giảng dạy.
1.4.4. Quản lí việc đổi mới phương pháp DHTH
Quản lí phương pháp DHTH có vai trò quan trọng tương tự quản lí việc soạn
giáo án của giáo viên trước khi lên lớp. Hiện nay, ngành giáo dục nói chung và
trường CĐDLHN nói riêng đều khuyến khích, cố gắng nỗ lực tạo điều kiện cho
công tác đổi mới phương pháp DH và DHTH. Việc đổi mới phương pháp DHTH
nhằm hình thành cho học sinh năng lực tự học, tự nghiên cứu. Quản lí phương pháp
DHTH phải đảm bảo định hướng cho GV và HS áp dụng các phương pháp hiệu quả
với từng học phần, khuyến khích GV sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp
tiên tiến vào DHTH đồng thời khuyến khích HS tích cực rèn luyện kỹ năng học TH
theo phương pháp đó. Đổi mới phương pháp DHTH đạt hiệu quả giáo dục cao khi
phát huy được tính tự giác, tích cực của HS, xây dựng được môi trường hoạt động
chủ động cho chính người học, tạo ra nhiều cơ hội TH để học sinh trải nghiệm và

phát huy sở trường cá nhân…Công tác quản lí phương pháp DHTH đòi hỏi người
quản lí phải hiểu rõ bản chất và phương thức áp dụng đối với từng mô hình phương
pháp DHTH mang lại hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện nhà trường nhưng vẫn
đảm bảo quy trình đào tạo.
1.4.5. Quản lí việc dạy học của giáo viên dạy TH
Công tác quản lí hoạt động giảng dạy của giáo viên DHTH là công tác nhằm
nâng cao tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình yêu nghề và phương pháp giảng dạy
của giáo viên đồng thời hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc GV thực hiện và hoàn thành
đầy đủ các khâu trong quy định về nhiệm vụ của người GV. Qua giờ dạy trên lớp,

23


GV se bộc lộ hết năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn kiến thức, hiểu biết xã
hội, đây là các yếu tố quyết định sự thành công của giờ giảng.
Để thực hiện tốt công tác quản lí hoạt động giảng dạy của giáo viên DHTH
đạt hiệu quả cao, yêu cầu đặt ra cho các nhà quản lí là phải biết cách tổ chức kiểm
tra, đôn đốc chặt che các giáo viên thực hiện kế hoạch, nội dung, chương trình và
phương pháp giảng dạy TH thông qua kiểm tra các khâu chuẩn bị trước giờ giảng
dạy : nội dung kiến thức giảng dạy của GV, soạn giáo trình, chuẩn bị tài liệu tham
khảo, chuẩn bị phương pháp, phương tiện giảng dạy, kiểm tra việc ghi sổ lên lớp
hàng ngày, sổ tay giáo viên, các phiếu điểm, báo cáo …để từ đó đối chiếu với
chương trình, tiến độ học phần để xem xét quá trình giảng dạy của GV. Dự giờ
giảng dạy TH có báo trước hoặc đột xuất cũng là một khâu quan trọng, không thể
thiếu trong quá trình quản lí việc dạy học của giáo viên DHTH nhằm phát hiện thực
trạng giảng dạy của giáo viên. Trên cơ sở dự giờ giảng của giáo viên DHTH, các
nhà quản lí phải phân tích các nội dung, yêu cầu về bài giảng TH, đánh giá rút kinh
nghiệm cho từng bài giảng TH.
Bên cạnh việc kiểm tra, đôn đốc GV thực hiện và hoàn thành đầy đủ nhiệm
vụ, nhà trường còn phải tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ

GV, tổ chức hội giảng các cấp, bố trí cho các GV đến học tập, trao đổi kinh nghiệm
thực tế, thu thập thông tin tại các cơ sở doanh nghiệp uy tín, gửi GV tham gia các
khóa học dài hạn và ngắn hạn trong nước và quốc tế.
1.4.6. Quản lí sinh hoạt chuyên môn, dự giờ rút kinh nghiệm
Sinh hoạt chuyên môn, dự giờ giảng là những hoạt động rất quan trọng cần
phải được duy trì thường xuyên đối với từng đơn vị khoa, tổ bộ môn. Hai hoạt động
này được tổ chức nhằm giúp các GV trong khoa có cơ hội trao đổi, rút kinh nghiệm
cho phương pháp giảng dạy, bổ sung tư liệu phục vụ bài giảng, nâng cao trình độ
chuyên môn cho bản thân. Tổ chức dự giờ đột xuất hoặc định kỳ giúp Hiệu trưởng và
các phòng, khoa chức năng nắm bắt được thực trạng hoạt động dạy và học của GVHSSV trong trường, đánh giá đúng năng lực thực của các GV, đồng thời hiểu rõ ý
thức, trình độ, năng lực cũng như tâm tư nguyện vọng của người học để từ đó có
những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Để thực

24


hiện được điều đó, các khoa, tổ bộ môn có trách nhiệm xây dựng nội dung sinh hoạt
chuyên môn, lập kế hoạch dự giờ trình Hiệu trưởng phê duyệt, đồng thời thông báo
tới từng cá nhân GV phải có trách nhiệm tham gia các hoạt động này. Hiệu trưởng có
thể trực tiếp hoặc ủy quyền phân cấp kiểm tra và quản lí hoạt động sinh hoạt chuyên
môn và dự giờ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu về chất lượng đào tạo của trường.
1.4.7. Quản lí hoạt động học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, tham gia
nghiên cứu khoa học của các GV
Hoạt động học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, tham gia nghiên cứu khoa
học mang ý nghĩa tích cực, thúc đẩy đội ngũ GV hăng say cập nhật, bổ sung kiến
thức, kỹ năng, thái độ thích hợp, tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để có thể bắt kịp
xu thế phát triển của xã hội. Hội đồng Khoa học và Đào tạo có trách nhiệm thẩm
định các đề tài NCKH, trình Hiệu trưởng phê duyệt đưa vào áp dụng trong hoạt
động đào tạo của trường. Hiệu trưởng cần có những chế độ động viên, khen thưởng
kịp thời đối với những đề tài NCKH mang tính ứng dụng cao.

1.4.8. Quản lí hoạt động học TH của HSSV
Trong quá trình DH nói chung và DHTH nói riêng, việc rèn luyện kỹ năng
và năng lực thực hành nghề cho HSSV đạt tiêu chuẩn đầu ra theo quy định là một
yêu cầu cấp thiết đòi hỏi công tác quản lí hoạt động học TH của HSSV phải được
thực hiện một cách chặt che và tích cực. Công tác quản lí này tạo động lực cho
HSSV hăng hái tích cực trong lao động, học tập, phấn đấu đạt kết quả cao trong học
tập, đồng thời có khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tế sản xuất.
Một yếu tố quan trọng đầu tiên trong công tác quản lí hoạt động học TH của
HSSV đó là phải tạo dựng được động cơ, thái độ đúng đắn cho người học. Xuất
phát điểm đầu vào của đại đa số người học đều có trình độ văn hóa không cao, hầu
hết là các HS đã tốt nghiệp THPT và không thi đỗ vào các trường ĐH, ngoài ra còn
có những đối tượng HS chỉ mới tốt nghiệp THCS. Tâm lí của các đối tượng HS này
là chỉ chú trọng vào học TH và coi nhẹ các tiết học lí thuyết, ngại học ngoại ngữ,
chính vì vậy để đảm bảo chất lượng đào tạo câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lí là
phải làm sao có thể quán triệt được tư tưởng và thái độ học tập của người học, để tự

25


×