Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

chính sách phát triển tây nguyên bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.81 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Khoa QLNN về đô thị và nông thôn

BÀI ĐIỀU KIỆN MÔN TỔNG QUAN QLNN VỀ VÙNG, LÃNH THỔ
Đề tài : Tìm hiểu về chính sách phát triển bền vững kinh tế - xã hội và đảm bảo an
ninh, quốc phòng ở Tây Nguyên giai đoạn 2001 – 2010. ( Đính kèm Nghị quyết 10
NQ/TW)
Giảng viên hướng dẫn :Tiến sỹ Ngô Thúy Quỳnh
Sinh viên thực hiện : Nhóm 8

Hà Nội, Ngày 4 tháng 7 năm 2015

1


DANH SÁCH NHÓM 8
1.

LÒ KIM HUỆ

2.

NGUYỄN ĐOÀN KHÁNH LY

3.

ĐỖ THỊ KIỀU TRANG

4.

ĐẶNG THỊ XUÂN



5.

NÔNG THỊ YẾN

2


Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế xã
hội và quốc phòng an ninh cả nước. Là vùng đất rộng lớn bao gồm 5 tỉnh
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, diện tích tự nhiên
54.474 km2, chiếm 16,8% diện tích cả nước, dân số đến cuối năm 2009 là
5.107.437 người, Tây Nguyên là một trong sáu vùng kinh tế - sinh thái của
nước ta hiện nay. Tây Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và
kinh tế xã hội, là thế mạnh để phát triển kinh tế vùng cũng như thúc đẩy sự
phát triển kinh tế chung của cả nước.
Tây Nguyên ở vào vị trí trung tâm của miền núi Nam Đông Dương,
có những hành lang tự nhiên thông với Nam Lào, Đông Bắc Campuchia; có
hệ thống đường giao thông liên hoàn nối với các tỉnh duyên hải miền Trung
và Đông Nam Bộ; có các cửa khẩu quốc tế, quốc gia liên tuyến hành lang
Đông-Tây và không quá xa các cảng biển nước sâu như Dung Quất, Chân
Mây, vì vậy Tây Nguyên có điều kiện để phát triển một nền kinh tế mở.
Rừng là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng, giữ vai trò cân
bằng sinh thái, là nguồn nước của hệ thống sông suối khu vực miền Trung và
Đông Nam Bộ với độ che phủ rừng trên 54% (cả nước là 39,5%), có hệ động
3



thực vật đa dạng. Tây Nguyên có diện tích đất bazan chiếm 74,25% của cả
nước với trên 1,5 triệu ha và có hàng chục vạn ha đất đen, đất phù sa thích
hợp với nhiều loại cây trồng rất thuận lợi phát triển một nền nông nghiệp đa
dạng.
Vùng Tây Nguyên nằm ở cả Đông và Tây Trường Sơn, địa hình chia
cắt mạnh đã hình thành một mạng lưới sông suối dày, nhiều ghềnh thác; là
nơi khởi nguồn của 4 hệ thống sông chính với trữ lượng thủy năng chiếm
22% của cả nước, có thể sản xuất 15 tỉ kWh điện mỗi năm. Tài nguyên
khoáng sản khá phong phú; một số loại đã điều tra có trữ lượng lớn như:
than bùn, than nâu, sét cao lanh, puzơlan và bô-xít với trữ lượng dự báo
khoảng 4,5 tỷ tấn (chiếm 91% trữ lượng của cả nước), phân bố chủ yếu ở
các tỉnh Đắk Nông, Lâm Đồng. Nhóm khoáng sản kim loại như sắt,
wonfram, antimon, chì, kẽm, vàng; nhóm đá quý như saphia, xircon,
corindon, thạch anh... khá nhiều và phân bố đều ở các tỉnh.
Bên cạnh tài nguyên rừng và khoáng sản, Tây Nguyên còn có lợi thế
lớn về đất. Đất ở Tây Nguyên vô cùng đa dạng với 11 nhóm chính, trong đó
tập trung ở hai nhóm có diện tích lớn nhất là nhóm đất xám (acrisols) và
nhóm đất đỏ (ferrasols). Nhóm đất xám (acrisols) hình thành trên đá biến
chất granit, chiếm khoảng 45% diện tích tự nhiên của toàn vùng, phân bố
đều ở hầu hết các huyện, thị, thành phố. Nhóm đất đỏ (ferrasols) được hình
thành trên đá mẹ bazan do quá trình phong hóa, trong đó nổi bật là đất đỏ
bazan với khoảng 1,45 triệu ha. Đặc điểm của loại đất này là hàm lượng mùn
rất cao, kết cấu viên cục và độ xốp 65%, hàm lượng độ ẩm trong tầng đất
mặt vào mùa khô vẫn đạt 40%, được xếp vào loại đất tốt nhất trên thế giới.
Ngoài ra, còn có hàng chục vạn ha đất đen, đất phù sa và nhiều nhóm đất
khác thích hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau. Tài nguyên đất là yếu tố
quan trọng để Tây Nguyên trở thành một vùng sinh thái đặc thù có ưu thế
4



lớn về nông nghiệp, rất thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng,
với nhiều sản phẩm chủ lực như: cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, ngô lai, bông
vải, chè, rau, hoa, cây ăn trái...
Tây Nguyên cũng là vùng đất lý tưởng để làm du lịch, bởi có điều
kiện thuận lợi để tạo nên những sản phẩm đặc trưng, riêng biệt, hấp dẫn,
thông qua khai thác cảnh quan thiên nhiên, di tích văn hóa, lịch sử và di sản
văn hóa tộc người; nơi dồi dào tiềm năng du lịch sinh thái với hệ thống hồ,
thác, khu hệ động, thực vật và nhiều tiểu vùng có khí hậu ôn hòa mát mẻ,
thích hợp với loại hình nghỉ dưỡng.
Về điều kiện xã hội, đây là vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa, nơi hội tụ,
cư trú của 47 dân tộc anh em với rất nhiều đặc trưng, sắc thái của nhiều tộc
người, nhiều địa phương trong cả nước. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
có truyền thống đoàn kết đấu tranh cách mạng kiên cường; có văn hóa dân
tộc vừa đa dạng, phong phú, vừa có nhiều nét đặc thù. Về văn hóa, Tây
Nguyên còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, vừa có
giá trị lịch sử vừa có giá trị thẩm mỹ đặc sắc, độc đáo như: nhà rông, nhà
dài, đàn đá, tượng nhà mồ, các lễ hội và một kho tàng văn học dân gian đậm
đà bản sắc được lưu truyền và gìn giữ qua nhiều thế hệ. Cồng chiêng Tây
Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa truyền khẩu và
phi vật thể của nhân loại. Tất cả những điều kiện như trên, Tây Nguyên hoàn
toàn có thể trở thành vùng có nền kinh tế phát triển bền vững, tạo động lực
cho sự phát triển của cả nước.
Mặc dù Tây Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi như vậy nhưng cũng
tồn tại không ít khó khăn, gây trở ngại cho công tác thúc đẩy sự phát triển
vùng như điều kiện địa hình hiểm trở, khó tiếp cận với khoa học công nghệ.
Cùng với đó là sự suy giảm nhanh chóng tài nguyên rừng và khoáng sản với
nạn khai thác rừng, tài nguyên bất hợp lý. Bên cạnh đó, Tây Nguyên vẫn là
một vùng nghèo, chậm phát triển so với nhiều cùng trong cả nước, cần được
5



hỗ trợ vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển. Trình độ dân trí
thấp và ý thức người dân chưa cao, là đối tượng dễ bị các thế lực thù địch
kích động lôi kéo cũng là vấn đề cần được quan tâm sát sao. Dù chiến tranh
đã qua đi nhưng đây vẫn là địa bàn nhạy cảm và phức tạp về an ninh chính
trị. Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1975 đến nay, Tây Nguyên luôn là địa bàn
trọng điểm chống phá của thực dân, đế quốc, các thế lực thù địch, phản
động..
Những khó khăn trên đặt ra cho Tây Nguyên nhiều vấn đề cấp thiết
phải giải quyết. Trước tình hình đó, Bộ Chính Trị khóa IX đã đề ra nghị
quyết 10 về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùn
Tây Nguyên thời kỳ 2001 - 2010 nhằm phát triển Tây Nguyên toàn diện,
phát huy những tiềm lực sẵn có và khắc phục những khó khăn, yếu kém còn
tồn tại để đưa Tây Nguyên trở thành vùng đất giàu có cả về kinh tế và bản
sắc văn hóa, tạo động lực cho sự phát triển chung của cả nước. Nghị Quyết
này là chính sách đúng đắn, đề ra phương hướng cụ thể nhất để phát triển
Tây Nguyên qua từng giai đoạn. Để hiểu rõ hơn những chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước đề ra, Nhóm 8 chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
"Phân tích chính sách phát triển bền vững kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở Tây Nguyên", thông qua đó đánh giá được những điểm
đúng và chưa đúng của chính sách, và đưa ra những kiến nghị dựa trên quan
điểm cá nhân. Bài tiểu luận là cái nhìn cụ thể về một chính sách để từ những
phân tích đó bổ sung thêm những tri thức sâu rộng hơn về cách thức quản lý
của Nhà nước về từng vùng, lãnh thổ cụ thể.
Mặc dù nhóm chúng tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi và xây dựng
bài tiểu luận một cách khoa học và logic, nhưng không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Chúng tôi rất mong sự đóng góp của các bạn đọc để
6



đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn. Qua đây, chúng tôi xin chân thành
cảm ơn đến cô Ngô Thúy Quỳnh, giảng viên môn QLNN về vùng - lãnh thổ,
người đã tận tình hướng dẫn chúng tôi hoàn thành đề tài này.

I.

THÀNH TỰU
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về "Phát
triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ
2001-2010", đời sống của đồng bào khu vực Tây nguyên có bước cải thiện, an
ninh-quốc phòng trên địa bàn được củng cố ngày càng vững chắc, ổn định, tổ chức

1.1.

thực hiện đạt nhiều kết quả quan trọng và khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực :
Lĩnh vực kinh tế:
Kinh tế của vùng từ chỗ mất cân đối, tốc độ tăng trưởng thấp, cơ cấu lạc hậu
đã chuyển dịch mạnh mẽ và phát triển theo hướng đa dạng với quy mô, chất lượng,
hiệu quả ngày càng tăng. Trong 10 năm, giá trị tổng sản phẩm (GDP) tăng 2,8 lần,
với mức tăng trưởng bình quân 11,9%/năm. Thu nhập bình quân đầu người so với
cả nước đã thu hẹp khoảng cách rất nhanh. GDP toàn vùng đạt 13,52%, thu ngân
sách tăng 16,8%, kim ngạch xuất khẩu tăng 29,9%, thu hút đầu tư toàn xã hội tăng
hơn 10%; thu nhập bình quân đầu người đạt 21,8 triệu đồng/năm. Đã có 45.000
nghìn lao động được đào tạo nghề và 103.000 lao động được giải quyết việc làm.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 22,48% (2010) xuống còn 19,06%.
Hiện nay, Tây Nguyên trở thành vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn của cả
nước, với những sản phẩm chủ lực có nhu cầu thị trường cao như cà phê, cao su,
chè, tiêu, bông vải, dược liệu, cây ăn quả, nguyên liệu giấy, phục vụ trực tiếp công

nghiệp chế biến và tạo ra khối lượng hàng hóa lớn có lợi thế cạnh tranh trong tiêu
dùng nội địa và xuất khẩu.

7


Công nghiệp tuy chưa phát triển mạnh so với mục tiêu, nhưng đã thay đổi
lớn cả về quy mô và chất lượng sản xuất; xuất hiện một số ngành công nghiệp mới
như thủy điện, khai khoáng, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản xuất khẩu.
Dịch vụ sản xuất, tiêu dùng của nhân dân và các hoạt động thương mại, xuất
nhập khẩu, du lịch đều phát triển khá nhanh; giữ được vai trò chi phối của thành
phần kinh tế nhà nước.
Hoạt động xuất khẩu từng bước mở rộng thị trường và tăng dần xuất khẩu
trực tiếp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển. Hệ thống đường sá đã
được đầu tư xây dựng, nâng cấp, hình thành mạng lưới rộng khắp, vừa liên kết 5
tỉnh trong vùng, vừa nối Tây Nguyên với các vùng khác trên tuyến hành lang Đông
- Tây. Hệ thống thủy lợi từng bước được xây dựng, nâng năng lực tưới lên gấp ba
lần so với năm 2001, đáp ứng 60% nhu cầu tưới của toàn vùng.
1.2.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội:
Các chính sách đặc thù và các chương trình mục tiêu quốc gia từ 2001 2010 đã đầu tư trên 14 nghìn tỉ đồng, chiếm 10,93% tổng chi ngân sách nhà nước
của toàn vùng (chưa kể các nguồn đầu tư và hỗ trợ khác của Nhà nước và cộng
đồng xã hội). Đến nay, hơn một nửa số buôn làng từ nghèo đói vươn lên khá và
trung bình.Trên 85% số buôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ định canh định cư vững
chắc.
Đường giao thông nông thôn đã đến hầu hết các buôn làng, kể cả vùng sâu,
biên giới. Số buôn làng có điện lưới quốc gia; số hộ được dùng điện, nước sạch
không ngừng tăng. Hệ thống trường lớp mở rộng đến buôn làng với phương châm
có dân sinh là có trường lớp. Chính sách cử tuyển và ưu đãi, hỗ trợ học sinh, sinh
viên được thực hiện với khả năng cao nhất. Nhận thức về giáo dục, chăm sóc sức

khỏe trong nhân dân chuyển biến rõ nét.
Đời sống văn hóa ở buôn làng từng bước được cải thiện. Đã xây dựng hàng nghìn
nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà rông văn hóa; thực hiện chủ trương cấp miễn phí
báo, tạp chí, tặng máy thu hình, thu thanh. Các đài phát thanh, truyền hình địa
phương đã phát ổn định với thời lượng khá lớn bằng nhiều thứ tiếng dân tộc thiểu
8


số. Nhà nước đầu tư hàng chục tỉ đồng nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian; phục
hồi văn hóa cồng chiêng, biên soạn luật tục dân tộc; khuyến khích bảo tồn văn hóa
dân tộc.
1.3.
Lĩnh vực an ninh quốc phòng:
Tây Nguyên đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh vô hiệu hoá, ngăn chặn
và làm thất bại âm mưu phục hồi tổ chức, phát triển lực lượng của phản động
FULRO. Tập trung bảo đảm an ninh nông thôn, xử lý kịp thời một số vụ việc phức
tạp về tranh chấp, khiếu kiện đất đai, chặt phá rừng, hạn chế đến mức thấp nhất
việc xô xát, gây mất an ninh, trật tự, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội và
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên tuyến biên giới, đã đẩy mạnh công tác
phối hợp, tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác của chính quyền, lực lượng vũ trang và các
cơ quan chức năng Cămpuchia, Lào trong phòng, chống xâm nhập, vượt biên, đảm
bảo an ninh biên giới. Tiếp tục triển khai các dự án phát triển kinh tế kết hợp với
quốc phòng, an ninh, ổn định dân cư, củng cố vững chắc các khu vực phòng thủ;
phục vụ có hiệu quả công tác phân giới cắm mốc với Campuchia và tăng dày cột
mốc cả hai tuyến biên giới.
Hệ thống chính trị cơ sở có chuyển biến tích cực trong việc tổ chức bám dân,
nắm tình hình, đề cao trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn
thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự. Đã
tập trung kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng, nhất là ở
những địa bàn khó khăn phức tạp, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Tiếp

tục thu hẹp số thôn buôn chưa có đảng viên và tổ chức đảng. Nhiều nơi đã có tiến
bộ trong công tác xây dựng cán bộ cốt cán, tạo nguồn phát triển đảng trong tôn
giáo và vùng dân tộc thiểu số. Các ban, ngành, lực lượng vũ trang tiếp tục tăng
cường công tác dân vận, xây dựng chính quyền, đoàn thể cơ sở, củng cố khối đại


-

đoàn kết toàn dân tộc.
Cụ thể, một số tỉnh trong vùng đã đạt được những thành tựu như sau:
Tỉnh Lâm Đồng:
Lĩnh vực kinh tế:
9


Tốc độ tăng trưởng GDP trong thời kỳ 2001-2010 đạt bình quân 12,6%/năm, trong
đó thời kỳ 2001-2005 tăng 11,3%, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%. GDP trung bình
năm 2010 đạt 19,2 triệu đồng/người, tăng gấp 3 lần so với năm và gấp 6,8 lần so
với năm 2000 (Thu nhập bình quân đầu người vùng Tây Nguyên năm 2001 đạt
2,86 triệu đồng, năm 2010 đạt 15,52 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp trong GDP giữ mức 20-20,5%, nông nghiệp
chiếm 46,7-48,2%, dịch vụ 31-32%.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thời kỳ 2001-2010 thực hiện 41.806 tỷ đồng,
bình quân tăng 26%/năm, trong đó thời kỳ 2006-2010 đạt 32.328 tỷ đồng, tăng 3,4
lần so với thời kỳ 2001-2005. Vốn đầu tư trong nước chiếm 90%, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện khoảng 181,2 triệu USD. Thu hút đầu tư trong
nước từ năm 2003 đến tháng 8/2010 được 597 dự án với tổng số vốn đầu tư 66,1
nghìn tỷ đồng, vốn thực hiện ước khoảng 8 nghìn tỷ đồng, tổng diện tích đất sử
dụng khoảng 63,6 nghìn ha.
Tổng thu ngân sách nhà nước tên địa bàn 10 năm đạt 14.556 tỷ đồng, tốc độ

thu đạt 22%/năm, riêng năm 2010 đạt 3.050 tỷ đồng, gấp 7,3 lần so với năm 2000
và gấp 2,5 lần so với năm 2005 (năm 2010 vùng Tây Nguyên thu 9.719 tỷ đồng).
Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm đạt 1,53 tỷ USD, riêng năm 2010 tăng gấp 5,6
lần so với năm 2000 và gấp 2,1 lần so với năm 2005, một số nông sản xuất như
-

chè, cà phê chiếm tỷ trọng khá lớn so với toàn quốc.
Về văn hóa xã hội:
Thực hiện khá tốt chủ trương xã hội hóa lĩnh vực văn hóa - xã hội, huy động
được nhiều nguồn lực đầu tư, nhất là lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào
tạo và y tế; từng bước xây dựng, hình thành nếp sống văn hóa, văn minh, bảo đảm
công bằng xã hội trong đời sống của nhân dân.
Đã tập trung các nguồn vốn thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói giảm
nghèo theo tiêu chí cũ từ 13% năm 2000 giảm xuống còn 8% năm 2005, riêng
đồng bào dân tộc thiểu số từ 27% năm 2001 giảm xuống còn 20% năm 2005; theo
tiêu chí mới, tỷ lệ hộ nghèo từ 23,7% (cuối năm 2005) giảm xuống còn 5% năm
10


2010, riêng đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 54% (cuối năm 2005) xuống còn
15% năm 2010 (năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo chung ở Tây Nguyên là 10,23%, tỷ lệ hộ
nghèo dân tộc thiểu số là 21,69%).
Sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo phát triển nhanh theo hướng đa dạng hóa về
loại hình, phương thức đào tạo; hệ thống trường lớp phát triển và được bố trí tương
đối hợp lý theo địa bàn dân cư, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân; đã
hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ cở. Quy
mô, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngày càng phát triển, nhất là
đào tạo nghề, đào tạo cán bộ cơ sở. Đến năm 2010, toàn tỉnh có 321.895 học sinh,
sinh viên (trong đó học sinh mầm non 52.906 em; học sinh tiểu học, trung học cơ
sở 199.527 em; học sinh trung học phổ thông: 47.420 em; học sinh phổ thông trung

học nội trú: 2.348 em; học sinh, sinh viên cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề: 4.694 em; sinh viên đại học 15.000 em); có 100% xã phổ cập tiểu học đạt
chuẩn; 93,9% xã phổ cập trung học cơ sở, 99,1% trẻ trong độ tuổi đến trường (Tây
Nguyên đạt tỷ lệ 96,90%), 103 trường đạt chuẩn quốc gia (vùng Tây Nguyên có

-

407 trường).
Tỉnh KonTum:
Lĩnh vực kinh tế:
Kon Tum là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao ở vùng Tây Nguyên
(bình quân 11%/năm giai đoạn 2001-2005; khoảng 14,5%/năm giai đoạn 20062010); thu nhập bình quân đầu người năm 2010 ước đạt khoảng 14 triệu đồng, gấp
gần 2 lần năm 2005 và gấp 4,3 lần năm 2001; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và thương mại-dịch vụ; kim
ngạch xuất khẩu liên tục tăng, năm 2010 ước đạt 60 triệu USD, gấp 3,7 lần năm
2005 và gấp 10 lần năm 2001; thu ngân sách nhà nước tại địa bàn tăng khá và liên
tục qua các năm.
Các vùng kinh tế động lực của tỉnh được hình thành và đang có bước phát
triển (TP.Kon Tum gắn với KCN Sao Mai và các khu đô thị mới; huyện Ngọc Hồi
11


gắn với Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Bờ Y; huyện Kon Plông gắn với Khu du lịch
sinh thái Măng Đen). Môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể. Kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội của tỉnh nói chung và ở các xã khó khăn, xã đặc biệt khó khăn nói

-

riêng được cải thiện đáng kể.
Tỉnh ĐắcLắk:

Lĩnh vực kinh tế:
Nền kinh tế của tỉnh luôn giữ được tốc độ tang cao, bình quân trong 10 năm
2001 – 2010, đạt 10,13%/năm, năm 2011 tăng 12,59%, năm 2012 ước tang 9,42%.
Các ngành kinh tế duy trì được tang trưởng ổn định nhất là khu vực công nghiệp
xây dựng, dịch vụ liên tục có tang trưởng mạnh mẽ. Bình quân giai đoạn 20012005, tang trưởng công nghiệp xây dựng đạt 21,3%, dịch vụ đạt 17%, nông lâm
ngư nghiệp đạt 4,1% tương ứng ở giai đoạn 2006-2010 là 18,4%, 22,1 và 6,1% và
năm 2012 ước tang các chỉ tiêu tương ứng là 9,38%, 13,45 và 6,33%.
Quy mô nền kinh tế tăng mạnh qua từng thời kỳ. Giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn
(theo giá so sánh năm 1994) năm 2005 đạt 7.235 tỷ đồng, gấp 1,47 lần giá trị tổng
sản phẩm năm 2000, năm 2010 đạt 12.813 tỷ đồng, gấp 2,62 lần năm 2000 và gấp
1,77 năm 2005, năm 2012 ước đạt 15.513 tỷ đồng gấp 3,18 lần năm 2000 và gấp
2,14 lần 2005.
Giá trị tổng sản phẩm bình quân đầu người 2012 (tính theo giá hiện hành)
ước đạt 26,8 triệu đồng/người, gấp 10,35 lần năm 2000, gấp 5,36 lần 2005.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp, tang dần tỷ
trọng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, tỷ trọng Nông – Lâm – Ngư nghiệp giảm từ
77,5% năm 2000 xuống còn 45-46% năm 2010, công nghiệp – xây dựng tăng từ
7,3% lên 17-18%, dịch vụ tăng từ 15,2% lên 35-36% vào năm 2012.
II.
THÁCH THỨC
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được khi triển khai Nghị Quyết
10-NQ/TW, Tây Nguyên vẫn đứng trước rất nhiều những khó khăn, thử thách còn
tồn tại.
12


II.1.

Lĩnh vực an ninh quốc phòng

Có thể nói, nơi đây vẫn là địa bàn nhạy cảm và phức tạp về an ninh chính trị.

Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc từ năm 1975 đến nay, Tây Nguyên luôn là địa bàn trọng điểm chống
phá của thực dân, đế quốc, các thế lực thù địch, phản động. Chúng tìm mọi cách để
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”; kích động tâm lý dân tộc hẹp hòi, gây chia
rẽ Kinh - Thượng... hòng thực hiện những mưu đồ đen tối.
Tư tưởng của một bộ phận quần chúng và một số ít cán bộ đảng viên hoang
mang, dao động; một số nhận thức mơ hồ, ngộ nhận về “Nhà nước Đêga”; ở một
số nơi vẫn tồn tại tâm lý kỳ thị dân tộc; hệ thống chính trị cơ sở nhiều nơi hoạt
động yếu kém, xa dân, không nắm được tình hình; một bộ phận cán bộ yếu cả về
năng lực và bản lĩnh chính trị. Tình hình an ninh nông thôn, tranh chấp, khiếu kiện
về đất đai, mâu thuẫn trong nội bộ dân cư vẫn còn phức tạp; nhiều vấn đề bức xúc
về kinh tế, xã hội chưa được giải quyết tốt đã tác động và ảnh hưởng đến khối đại
đoàn kết dân tộc, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị, xã hội.
II.2.
Lĩnh vực kinh tế :
Tây Nguyên vẫn là một vùng nghèo, chậm phát triển so với nhiều vùng
trong cả nước. Một yếu tố khách quan không thuận lợi là Tây Nguyên ở xa các
trung tâm kinh tế lớn; xuất phát điểm đi lên thấp và thiếu nguồn lực đồng bộ, đủ
mạnh để đầu tư phát triển. Do vậy, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ;
hệ thống đường sá thiếu và chất lượng thấp.
Hệ thống thủy lợi và hạ tầng các khu cụm công nghiệp, dịch vụ du lịch, bưu
chính viễn thông chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống dân cư cũng như hoạt
động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Các tiềm năng, lợi thế về đất, rừng, tài nguyên khoáng sản mặc dù rất lớn
nhưng mới tập trung khai thác chiều rộng, chưa khai thác chiều sâu để phát huy
hiệu quả.

13



Công tác quản lý sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, nhất là quy hoạch
phát triển thủy điện và giải quyết vấn đề rừng, lâm nghiệp chưa tốt, đã tác động
không nhỏ đến sự phát triển bền vững của toàn vùng.
II.3.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội :
Nhiều vấn đề xã hội còn nổi lên bức xúc, nhất là đất đai và không gian sinh
sống của các buôn làng. Qua nhiều giai đoạn, do chúng ta xử lý vấn đề này chưa
tốt, cộng với áp lực của dân di cư tự do, áp lực từ các dự án kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh, các công trình thủy điện... đã làm cho không gian sinh sống của
của các buôn làng bị thu hẹp. Đến nay, qua nhiều năm nỗ lực giải quyết bằng nhiều
chính sách nhưng vẫn còn hàng chục nghìn hộ thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc
thiểu số còn cao và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các bộ phận dân
cư.
Trình độ dân trí hạn chế cũng là lực cản đối với quá trình phát triển. Hiện
nay, ở vùng sâu, vùng xa trình độ học vấn của đồng bào thấp, tỷ lệ người không
biết chữ còn nhiều; kiến thức về pháp luật, sản xuất, đời sống, văn hóa xã hội,
chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường... còn thấp; tập quán sản xuất và tiêu dùng
lạc hậu. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa phát triển được “xã hội học tập”; chất
lượng giáo dục quá thấp so với mặt bằng chung; công tác đào tạo, dạy nghề cho
con em đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Do sự tác động của cơ chế
thị trường nên việc đầu tư vào sự nghiệp văn hóa, y tế, chăm sóc sức khỏe ở vùng
sâu vùng xa chưa được chú trọng; đời sống văn hóa tinh thần nhiều nơi yếu kém;
chưa có một hệ thống thiết chế văn hoá - thông tin đồng bộ ở xã, buôn làng. Việc
phát triển các hình thức nghệ thuật, văn hóa quần chúng để người dân thưởng thức
ngày càng khó khăn. Nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật chưa đến được với
dân; công tác truyền thông, phổ biến kiến thức, khoa học kỹ thuật xuống cơ sở kém
hiệu quả.


14


Tình hình dân di cư tự do chưa được giải quyết cơ bản càng làm trầm trọng
thêm những khó khăn của Tây Nguyên. Các tỉnh như Đắk Nông, Đắk Lắk, Lâm
Đồng còn hàng chục nghìn hộ di cư tự do cần tái định cư nhưng nguồn vốn hỗ trợ
thực hiện chương trình ổn định dân di cư tự do hàng năm quá ít, không thể đầu tư
hạ tầng đồng bộ đưa dân vào vùng quy hoạch. Vì vậy, ở các tỉnh hiện còn hàng
nghìn hộ phải sống tạm bợ, một số ở sâu trong các khu rừng, thường xuyên bị ngập
lụt, đời sống khó khăn, đói nghèo, phá rừng, săn bắn trái phép, có nơi gây tranh
chấp đất đai với dân tại chỗ, nhất là trong vùng đồng bào Mông. Về lâu dài vẫn
chưa có một giải pháp toàn diện để giải quyết triệt để vấn đề di cư tự do.
III.
KIẾN NGHỊ
Qua hơn 10 thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị khóa XI, Tây Nguyên
đã đạt được những thành tựu to lớn, tuy nhiên từ thực tế áp dụng cũng bộc lộ
những hạn chế cần phải khắc phục và thay đổi cho phù hợp với vùng đất này, dưới
đây là một số kiến nghị cá nhân của nhóm.
III.1.

Trên lĩnh vực kinh tế :
Nghiên cứu , ban hành một số cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù để tăng

cường thu hút đầu tư vào Tây Nguyên nhất là những lĩnh vục có nhiều tiềm năng
như công nghiệp thuỷ điện , khai khoáng, chế biến nông lâm sản, dịch vụ du lịch,
kinh tế rừng, chăn nuôi gia xúc và công nghiệp kỹ thuật cao.
Ban hành cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại khu vực biên giới
ba nước (Việt Nam – Lào- Campuchia) gắn với nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng.
Có chính sách đặc thù để phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số ở Tây

Nguyên.
Xác định rõ vai trò của sự liên kết, phối hợp phát triển kinh tế các địa
phương trong vùng Tây Nguyên và giữa vùng Tây Nguyên với các vùng khác từ đó
có sự liên kết các tỉnh trong vùng và các vùng với nhau.
Tranh thủ nguồn vốn của Nhà nước, lồng ghép các chương trình mục tiêu
quốc gia, phát huy tinh thần tự lực của người dân để vươn lên xóa đói, giảm nghèo;
15


đẩy mạnh việc tổ chức liên kết sản xuất, khuyến khích các doanh nghiệp, công ty,
nông trường đóng vai trò đỡ đầu, liên kết làm ăn trên cơ sở đất đai và lao động của
dân cộng với vốn đầu tư, khoa học, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm của doanh
nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu lao động trong vùng dân tộc
thiểu số.
III.2.
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội :
Có chính sách phù hợp để nâng cao dân trí phát triển nguồn lực của tây
nguyên, chú tọng đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hoá của các dân tộc thiểu số. Trước mắt cần thành lập một số trường , phân viện
cao đẳng, đại học đa nghành. Ban hành chính sách đa dạng hoá các loại hình đào
tạo, dạy nghề tại chỗ. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng các trường dân tộc
nội trú và bán trú dân nuôi, phát triển các trường mẫu giáo, nhà trẻ. Tăng cường
công tác đào tạo cử tuyển, có chính sách ưu tiên giải quyết việc làm cho con em
dân tộc thiểu số.
Nghiên cứu tăng ngân sách cho các tỉnh Tây Nguyên để giải quyết một số
vấn đề xã hội cấp bách. Hoàn thành dứt điểm chương trình định canh định cư cho
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Hỗ trợ trực tiếp hộ nghèo vùng đặc biệt khó
khăn. Cho vay tín dụng xoá đói nghèo, giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho thanh
niên dân tộc thiểu số.
Có đề án đào tạo bắt buộc về chuyển giao kỹ thuật cho đồng bào dân tộc

thiểu số, đặc biệt là thanh thiếu niên, gắn với chính sách hỗ trợ trực tiếp của nhà
nước để sớm giải quyết việc làm, cải thiện cuộc sống của bản thân và gia đình,
giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Xây dựng và phát huy hiệu quả các thiết chế văn hoá cơ sở, các thiết chế văn
hoá có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc dân tộc.
Xây dựng thiết chế văn hoá ở Tây Nguyên thật sự vững mạnh từ tổ chức bộ máy,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc trang bị cơ sở vật chất từ thành phố,huyện thị,
đến buôn làng để bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc thiểu số.
16


Xây dựng nơi lưu trữ, các bảo tàng, triển lãm các di sản văn hoá, nơi trưng bày
những triển lãm các di sản văn hoá. Các thiết chế này vừa phải lưu trữ, vừa phải
phổ biến các gịá trị tầm vóc văn hoá xem đó là sự đóng góp to lớn vào việc củng
cố, xây dựng nền tảng tinh thần xã hội trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, cụ thể: cần xúc tiến hành thành lập Bảo tàng dân tộc học về Tây Nguyên
để thu thập, bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hoa của văn hoá các dân tộc bản
địa. Ngoài ra ở mỗi xã hoặc buôn làng cần nhanh chóng xây dựng lại nhà rông
hoặc nhà dài theo đúng đặc trưng của tửng dân tộc người Tây Nguyên và biến nơi
đó trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá xã hội của đồng bào trong thôn, xã, buôn
làng.
III.3.

Lĩnh vực an ninh- quốc phòng :
Đẩy mạnh tuyên tuyền, phát động quần chúng với nội dung, hình thức phù

hợp làm cho đòng bào thấy rõ sự chăm lo của Đảng và Nhà nước với đồng bào các
dân tộc thiểu số vạch trân âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch,
từng bước xoá ảnh hưởng FULRO, tư tưởng ly khai tự trị, tăng cường quản lý giáo
dục đối tượng FULRO sống trong cộng đồng .

Tăng cường các giải pháp đấu tranh ngoại giao nhằm hạn chế sự can thiệp
của nước ngoài vào những vấn đề của Tây Nguyên, vạch trần sự ủng hộ ngầm của
các thế lực bên ngoài đối với nhóm người Thượng lưu vong.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đối ngoại, đấu tranh với những luận điệu
xuyên tạc về Tây Nguyên, tạo điều kiện cho các đoàn ngoại giao đến với Tây
Nguyên 1 cách hợp lý để giảm sức ép và xuyên tạc bên ngoài về Tây Nguyên
Tăng kinh phí cho các tỉnh để làm công tác hỗ trợ, tranh thủ sự hợp tác của lãnh
đạo lực lượng vũ trang các tỉnh biên giới Campuchia và Lào trong việc phối hợp
bảo vệ an ninh biên giới.
Tiếp tục triển khai các dự án kinh tế kết hợp với quốc phòng, đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo đồng bộ, liên hoàn, tiếp tục chuyển tuyến phòng thủ
ra biên giới tập trung chăm lo củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân

17


dân; xây dựng thực lực chính trị ở địa bàn biên giới. Đẩy nhanh việc phân giới cắm
mốc biên giới Việt Nam- Campuchia
Chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết tốt việc phối hợp các lực lượng trên
địa bàn Tây Nguyên trong việc nắm tình hình, xử lý thông tin, kịp thời ngăn chặn,
phát hiện những âm mưu chống phá của địch, chủa động phòng chống bạo loạn
vượt biên, kiên quyết không để bị động, bất ngờ. Nâng cao trách nhiệm trong việc
xử lý tình huống theo tinh thần của QĐ 107/QĐ-TTg thực hiên đảm bảo an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Bộ công an, Bộ Quốc phòng, cấp uỷ, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên phải
có kế hoạch cụ thể xoá nhanh các địa bàn không ổn định về an ninh; kiện toàn,
nâng cao chất lượng lực lượng dân quân tự vệ và công an xã đủ để giải quyết
những vụ càn quấy gây mất trật tự an ninh.
Đẩy mạnh việc thực hiện chỉ thị số 12-CT/TW ngày 13.5.2007 của Bộ Chính
trị về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về lĩnh vực công tác quốc phòng, an ninh

trong tình hình mới. Đối với Tây Nguyên cần đưa an ninh quốc phòng thành nội
dung trọng tâm trong việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ chủ
chốt các cấp.
III.4.
Về chính sách và công tác tôn giáo :
Chính quyền cấp uỷ, chính quyền các tỉnh cần quán triệt sâu sắc các quan
điểm chỉ đạo của trung ương về chính sách tôn giáo; sơ kết việc thực hiện chủ
trương của thủ tướng chính phủ về công tác đối với đạo Tin Lành. Hoàn chỉnh quá
trình “bình thường” hoạt động của Tin Lành. Tiếp tục giải quyết những vấn đề liên
quan đến hoạt động tôn giáo sau đăng kí như: công nhận chi hội, cơ sở thờ tự, nơi
nhóm họp sinh hoạt sinh hoạt tôn giáo cuả các điểm nhóm; đào tạo và xác định
phạm vi hoạt động của chức sắc tôn giáo. Khảo sát, nắm tình hình thực trạng các
hệ phái Tin Lành để thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
theo pháp luật sau khi đã cho phép đăng ký, công nhận; khắc phục tình trạng buông
lỏng quản lý, xử lý nghiêm các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật. Tăng cường
18


phối hợp các lực lượng để làm tốt công tác vận động chức sắc, tín đồ trong việc thự
hiện chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, chấp hành pháp luật, chủ động
phát hiện tình hình và xử lý đúng những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Tiếp tục phát
động quần chúng đấu tranh xoá bỏ hoàn tàn cái gọi là “ Tin lành Đềga ” .
Xây dựng lực lượng tiến bộ trong chức sắc tôn giáo, xây dựng cốt cán trong
Tin Lành. Đặc biệt quan tâm và có chính sách đặc thù để tranh thủ chức sắc tôn
giáo.
Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở để quản
lý chặt chẽ hoạt động tôn giáo trên địa bàn cư dân
III.5.
Về xây dựng hệ thống chính trị :
Tập trung chỉ đạo quyết liệt việc kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức

Đảng. Hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, biên chế của phó bí thư phụ trác
xây dựng cơ sở các huyện , xã trọng điểm. Vận dụng linh hoạt chính sách đặc thù
về công tác Đảng viên và công tác cán bộ đến tất cả các thôn, buôn, trường học,
trạm xá, hợp tác xã đều có đảng viên; thu hẹp số thôn buôn chưa có tổ chức đảng;
các xã có cán bộ dự nguồn đạt chuẩn.
Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung chế độ, chính sách, quy định để sớm kiện toàn,
chuẩn hoá, nâng cao chất lượng và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở và
xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Cần có quy định riêng về tiêu
chuẩn công chức xã là người dân tộc thiểu số.
Cho phép các trường trung học chuyên nghiệp được xét tuyển cán bộ thôn,
xã là người dân tộc thiểu số đã học xong chương trình nhưng chưa tốt nghiệp trung
học phổ thông được theo học hệ trung cấp tại trường.
Có chính sách thu hút cán bộ đến công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn và tăng phụ cấp cho cán bộ buôn, làng ở những vùng này
Nâng định mức duy trì kinh phí đào tạo can bộ, công dân cơ sở và có chính
sách đối với cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số đi học cao đẳng, đại học.
Duy trì và tăng thêm kinh phí của đề án xây dựng chính quyền cơ sở vùng Tây
Nguyên để ung cho công tập trung cho công tácđào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức
19


Phân cấp Trường Chính trị tỉnh đào tạo hệ trung cấp quản lý hành chính.
Các tỉnh uỷ ở tây Nguyên cần có nghị quyết chuyên đề về công tác vận động quần
chúng trong tình hình mới; chỉ đạo các ngành, các cấp tập trung xây dựng cốt cán,
thực lực chính trị ở buôn làng; tăng cường tập hợp, tuyên truyền giáo dục chính trịtư tưởng cho thanh niên ; rút kinh nghiệm việc phân công sở, ngành phụ trách xã
trọng điểm, đánh giá lại hoạt động của các đội công tác ở cơ sở để tiếp tục chỉ đạo,
chấn chỉnh, bảo đảm hoạt động thực sự hiệu quả. Quan tâm đầu tư cho Mặt trận tổ
quốc Việt Nam ở các cấp và các đoàn thể đổi mới cả về nội dung, phương thức
hoạt động, kinh phí , cở sở vật chất, điều kiện hoạt động, đào tạo bồi dưỡng; cơ chế

chính sách đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác vận động quần chúng cơ
sở
III.6.

Về bảo vệ môi trường sinh thái :
Nhà nước cần thành lập 1 bộ phận trực tiếp chỉ đạo bảo vệ rừng, nghiên cứu

thành lập 1 số đơn vị đặc nhiệm chuyên xử lý các điểm nóng chặt phá rừng, vi
phạm pháp luật bảo vệ rừng. Thủ tướng chính phủ chỉ đạo rà soát, quy hoạch lại
đất lâm nghiệp, điều chỉnh những diện tích bất hợp lý, ổn định điện tích quy hoạch
theo 3 loại rừng trên bản đồ, thực địa giữa ngành nông nghiệp và phát triển mông
thôn với ngành tài nguyên môi trường; khẩn trương tổ chức quản lý quy hoạch
thống nhất trên cơ sở thiết lập lâm phận ổn định lâu dài theo hệ thống tiểu khu,
khoảnh, lô trên bản đồ, cắm mốc ranh giới 3 loại rừng trên thực địa. Thủ tướng
chính phủ phê duyệt dự án tổng điều tra, kiểm kê tại khu rừng Tây Nguyên đồng
thời xem xét, chỉ đạo tạm dừng khai khác gỗ rừng tự nhiên từ năm 2013. Thủ
tướng chính phủ sớm phê duyệt 1 số đề án về 1 số cơ chế, chính sách đặc thù đối
với công ty lâm nghiệp nhà nước, dựa án tổng thể bảo vệ, khôi phục và phát triển
rừng bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2020

20


21


TỔNG KẾT
Thông qua những phân tích, đánh giá trên đây, có thể thấy Nghị Quyết 10
của Bộ Chính Trị về phát triển bền vững kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc
phòng ở Tây Nguyên là một chính sách hoàn toàn đúng đắn, toàn diện, phù hợp với

điều kiện thực tế, và để tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10, Bộ chính trị đã tiếp tục
đưa ra Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-10-2011 phát triển vùng Tây Nguyên thời
kỳ 2011 – 2020 nhằm hoàn thiện công cuộc phát triển toàn diện Tây Nguyên.
Với tiềm năng, lợi thế được tổ chức khai thác tốt, với quan điểm và giải
pháp đúng đắn cùng với sự chỉ đạo sâu sát, tổ chức thực hiện thật tốt của chính
quyền và nhân dân các dân tộc trong việc dồn sức phát triển kinh tế-xã hội, chắc
chắn vùng Tây Nguyên sẽ vươn lên mạnh mẽ. Và hy vọng họ sẽ đạt được mục tiêu
xây dựng Tây Nguyên thành vùng kinh tế trọng điểm, có lực lượng sản xuất phát
triển ở mức trung bình của cả nước; có cơ cấu kinh tế chuyển dịch vững chắc theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Là những cử nhân Hành chính, chúng tôi không chỉ nhận thấy rằng, việc
nghiên cứu đề tài này cho chúng tôi cơ hội để học tập, thu nạp thêm kiến thức, mà
còn khiến chúng tôi có cái nhìn toàn diện hơn về cách thức quản lý nhà nước về
từng vùng, lãnh thổ cụ thể. Thay cho lời tri ân dành cho các thế hệ đi trước, là lời
hứa rèn luyện và tu dưỡng bản thân trở thành công dân tốt. Bên cạnh đó, là nhiệt
huyết tuổi trẻ, quyết tâm góp sức cùng nhân dân xây dựng đất nước Việt Nam giàu
mạnh sánh vai với các cường quốc trên thế giới !
Xin chân thành cảm ơn !
Nhóm 8 - Kh13 Quản lý công.

1.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2010). Báo cáo kết quả kiểm tra thực hiện Nghị
quyết 10- NQ/TW ngày 18/01/2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế -

22


xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 –

2.

2010.
Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-10-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (Khóa IX) phát triển vùng Tây Nguyên

3.

thời kỳ 2011 – 2020.
Bùi Minh Đạo - Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát

4.

triển bền vững - Hà Nội: khoa học xã hội (2011).
Đại học Đà Nẵng - Phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội khu vực

5.

duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Kỷ yếu hội thảo (2011).
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004). Về triển khai chương trình
phát triển nông nghiệp – nông thôn Tây Nguyên và công tác giải quyết đất

6.

sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên.
Lê Hồng Anh. “Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững”. Tạp chí Cộng

7.

sản, số 66 ( 2012).

Nguyễn Tấn Dũng. “Tây Nguyên vững bước đi lên”. Tạp chí Cộng sản số

8.
9.

837 (2012).
Thủ tướng Chính Phủ(2004). Về một số công tác đối với đạo Tin Lành.
Thủ tướng Chính phủ(2004). Về tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải

pháp để tiếp tục phát triển các vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững.
10. Trần Đại Quang. “ Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững, xứng đáng
với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh và môi trường sinh thái đất nước”. Tạp chí cộng sản số 66 (2012).
11. Trương Minh Dục. Một số vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên
hiện nay. Hà Nội: Chính trị quốc gia (2005).
12. Quyết định 168/2001/QĐ-TTg ngày 30-11-2001 của Thủ tướng Chính phủ
về định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001-2005 và những giải pháp cơ
bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.
13. Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20-07-2004 của Thủ tướng Chính phủ
về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở cho hộ đồng bào dân
tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn.

23


14.

Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23-11-2005 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thí điểm giao rừng cho hộ gia đình và cộng đồng buôn làng đồng


bào dân tộc thiểu số tại chỗ các tỉnh Tây Nguyên.
15. Quyết định 25/2008/QĐ-TTg ngày 05-02-2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối
với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010.

24



×