Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

những tư tưởng triết học của lão tử trong đạo đức kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.31 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
===== o0o =====

TIÓU LUËN triÕt häc
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA LÃO TỬ TRONG ĐẠO ĐỨC KINH

Người hướng dẫn khoa học : TS. Vi Thái Lang
Học viên
: Lương Thị Thu Thủy
Lớp

: LLVH K18 đợt 2


Hà Nội - 2015

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 3
6. Cấu trúc tiểu luận 3

B. NỘI DUNG VẤN ĐỀ 4
CHƯƠNG 1: LÃO TỬ VÀ ĐẠO ĐỨC KINH 4
1.1. Lão Tử: tiểu sử và con người 4


1.2. Đạo Đức Kinh 5

CHƯƠNG 2 6
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÃO TỬ 6
TRONG ĐẠO ĐỨC KINH 6
2.1. Học thuyết về “Đạo” 6
2.2. Tư tưởng biện chứng 9
2.3. Tư Tưởng về đạo đức – nhân sinh 12
2.4. Tư tưởng về chính trị - xã hội 16

C. KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006. 23


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành tiểu luận "Những tư tưởng
triết học của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh", tôi nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ, động viên của các thầy, cô giáo và các bạn học viên Trường ĐHSP
Hà Nội 2.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô
giáo Trường ĐHSP Hà Nội 2, đặc biệt là Tiến Sĩ Vi Thái Lang – người trực
tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình, giúp tôi hoàn thành tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 01 năm 2015
Học Viên



1

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử triết học phương Đông, triết học Trung Quốc thời kì cổ,
trung đại có một vị trí rất quan trọng. Các trường phái triết học Trung Quốc
xuất hiện vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc phát triển mạnh mẽ và đạt được
những thành tựu hết sức rực rỡ. Sử sách Trung Quốc gọi thời kì này là thời kì
“Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh”, thời kì vàng son của triết học
Trung Quốc. Chính trong thời kì này đã sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn và
hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các
trường phái này là luôn lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo
đức của xã hội. Tiêu biểu trong các trường phái triết học Trung Quốc cổ,
trung đại là Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Âm dương gia, Pháp gia.
Trong số sáu trường phái triết học lớn này, Đạo gia là một trong những trường
phái triết học học giữ vai trò quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống,
văn hóa, tư tưởng của dân tộc Trung Quốc.
Lão Tử (khoảng thế kỉ VI trước C.N) được lịch sử Trung Hoa coi là
ông tổ của Đạo gia. Toàn bộ tư tưởng của Lão Tử được trình bày cô đọng
trong tác phẩm Đạo Đức Kinh. Những tư tưởng triết học trong Đạo Đức Kinh
của Lão Tử đã vượt ra khỏi biên giới Trung Quốc và có ảnh hưởng sâu sắc
đến các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam trong suốt
hàng mấy chục thể kỉ. Những bí ẩn về cuộc đời Lão Tử và những tư tưởng
trong Đạo Đức Kinh, cũng như những giá trị của nó trong đời sống xã hội vẫn
là đề tài nghiên cứu của rất nhiều học giả Đông – Tây. Một tác phẩm chỉ
khoảng năm nghìn chữ - mươi, mười lăm trang sách nhưng theo thống kê của
Nghiêm Linh Phong, một học giả Trung Hoa hiện đại, có tới 1600 hay 1700



2
bản hiệu đính, chú thích, luận bàn về Đạo Đức Kinh và học học thuyết của
Lão Tử. Và hiện nay cuốn kinh của Đạo gia, Đạo Đức Kinh, đã được dịch ra
rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ở Pháp, từ trước tới nay đã có 60 bản dịch
Đạo Đức kinh; ở Anh, Đức số bản dịch nếu không hơn thì cũng không kém.
Như vậy, trong lịch sử triết học Đông Tây, chưa có tác phẩm nào ngắn như
vậy mà được người đời sau giải thích, dịch, phê bình nhiều bằng.
Hiện nay, khoa học kĩ thuật đã phát triển, những điều kiện kinh tế, xã
hội, chính trị cũng không còn giống như thời mà học thuyết của Lão Tử ra đời
và phát triển. Nhưng con người hiện đại vẫn tìm đọc Lão Tử và vẫn tìm thấy
trong Đạo Đức kinh những tư tưởng quý báu cho bản thân, cho xã hội. Điều
gì đã tạo nên sức sống lâu bền và giá trị to lớn của một tư tưởng triết học cổ
đại như vậy ? Đó chính là câu hỏi thôi thúc chúng ta tìm hiểu Đạo Đức Kinh
của Lão Tử để có câu trả lời.
Hơn nữa, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng sâu
sắc của Đạo gia. Những tư tưởng của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh có ảnh
hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết học, văn chương,
nghệ thuật, âm nhạc …, đồng thời ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp xã hội ở nước
ta. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và tác động của những tư tưởng
của Lão Tử đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần
thiết. Với mỗi cá nhân, Đạo Đức Kinh của Lão Tử, bên cạnh những hạn chế
nhất định, ta vẫn có thể tìm trong đó những tư tưởng tiến bộ, tích cực, giúp ta
có cái nhìn sáng suốt, hành động đúng đắn, tìm được cách sống hợp lí và giúp
ích cho xã hội. Đối với quốc gia, bên cạnh nền tảng triêt học Mác – Lên Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần biết vận dụng hợp lí những tư tưởng
của Lão Tử nhằm đạt mục tiêu xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển
thịnh vượng.


3

Vì vậy, bài tiểu luận này xin được trình bày những hiểu biết của người
viết về “Những tư tưởng triết học của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Với những kiến thức lĩnh hội được từ việc nghiên cứu, tìm hiểu Đạo Đức
Kinh của Lão Tử cùng với những lí luận của các học giả đã nghiên cứu về
Lão Tử và tác phẩm của ông, tôi hi vọng sẽ bước đầu hiểu được Đạo đức kinh
của Lão Tử và từ đó có thể áp dụng những lời khuyên hữu ích, có giá trị của
Lão Tử vào thực tiễn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lịch sử triết học trung hoa cổ - trung đại.
- Nghiên cứu những tư tưởng cơ bản trong triết học nho giáo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng triết học của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm.
6. Cấu trúc tiểu luận
Nội dung đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 2 chương:
Chương 1: Lão Tử và Đạo Đức Kinh.
Chương 2: Tư tưởng triết học của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh.


4

B. NỘI DUNG VẤN ĐỀ
CHƯƠNG 1: LÃO TỬ VÀ ĐẠO ĐỨC KINH
1.1. Lão Tử: tiểu sử và con người
Lão Tử (khoảng thế kỉ VI trước C.N) được lịch sử Trung Hoa coi là
ông tổ của Đạo Gia, được tôn là Thái Thượng Lão quân, một trong ba vị thần
tối cao của Đạo gia. Tiểu sử của ông bị huyền thoại vây phủ và vì vậy gây

nhiều tranh luận trong giới học thuật. Từ thời Tư Mã Thiên đến nay, biết bao
nhà nghiên cứu tra cứu đủ các sách cổ cố để tìm hiểu Lão Tử tên thật là gì,
sống ở thời nào, làm gì, tiếp xúc với những ai nhưng chỉ đưa ra được các giả
thuyết. Theo Sử kí của Tư Mã Thiên, Lão Tử là người làng Khúc Nhân,
Hương Lệ, huyện Lỗ, nước Sở. Lão Tử có họ là Lý, tên Nhĩ, tự là Đam, làm
quan sử giữ kho chứa sách của nhà Chu. Theo Sử kí, Lão Tử là người sống
cùng thời với Khổng Tử. Khi Khổng Tử qua Chu, đã hỏi Lão Tử về lễ. Lão
Tử ở nước Chu đã lâu, thấy nhà Chu suy, bèn bỏ đi. Đến cửa quan, viên quan
coi cửa là Doãn Hi bảo: “ông sắp đi ẩn, rán vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là
Lão Tử viết một cuốn gồm hai thiên thượng và hạ, nói về ý nghĩa của “Đạo”
và “Đức”, được trên năm ngàn chữ. Không ai biết chết ra sao, ở đâu.
Lão Tử là một triết gia lớn, ở thời nào cũng được dân tộc Trung Hoa
tôn trọng. Vậy mà chúng ta không biết gì chắc chắn về đời ông, cả về tác
phẩm bất hủ mang tên ông nữa. Nhưng thiết nghĩ điều đó cũng không thật sự
quan trọng. Bởi việc chúng ta cố công tìm ra Lão Tử là ai, sống ở thời nào,
thọ bao nhiêu tuổi, làm gì… cũng sẽ không làm thay đổi giá trị tác phẩm của
ông. Đối với hậu thế, Lão Tử mãi mãi là một triết gia lớn, con người đáng
kính trọng vì giá trị tư tưởng mà ông để lại cho nhân loại.


5
1.2. Đạo Đức Kinh
Đạo Đức Kinh, bản lưu hành ngày nay, dài hơn 5000 chữ, chia làm 81
chương ngắn, nhiều chương chỉ có trên 40 chữ, chương ngắn nhất là chương
40 chỉ có 21 chữ; những chương dài nhất như chương 20, chương 38 cũng
chưa đầy 150 chữ. Tác phẩm chia làm hai thiên, thiên thượng từ chương 1 đến
chương 37 gọi là Đạo kinh; thiên hạ từ chương 38 trở đi gọi là Đức kinh.
Trong Đạo Đức Kinh chỉ có khoảng 50 chương độ 3000 chữ là quan trọng,
còn những chương kia hoặc lặp lại, hoặc diễn thêm ý trong các chương trước.
Các chương lại sắp đặt rất lộn xộn, vậy mà học thuyết của Lão Tử lại được

coi là một triết thuyết hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tân. Đạo
Đức Kinh không phải là một tác phẩm có kết cấu logic của một thế giới quan
mà chỉ là tập hợp của những câu triết lý rời rạc. Tuy vậy nó cũng thể hiện một
quan điểm rõ ràng về tư tưởng triết học của một trường phái và có giá trị nhất
định.
Đạo Đức Kinh được viết theo hình thức câu dài ngắn khác nhau, rất súc
tích, ngắn gọn, dễ nhớ nhưng không dễ hiểu. Nhiều câu trong tác phẩm tối
nghĩa, mỗi người có thể chấm câu một khác, hiểu một khác. Đọc Đạo Đức
Kinh không nên căn cứ vào chữ nghĩa, nó chỉ là những gợi ý và mỗi người hội
ý theo “trực giác linh cảm” của mình.
Toàn bộ tư tưởng của Lão Tử được trình bày cô đọng trong tác phẩm
Đạo Đức Kinh, nổi bật nhất là những vấn đề: học thuyết về đạo, tư tưởng về
phép biện chứng và học thuyết vô vi hay những vấn đề đạo đức – nhân sinh,
chính trị xã hội. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt đi tìm hiểu những tư tưởng
triết học đó trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử.


6

CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÃO TỬ
TRONG ĐẠO ĐỨC KINH
2.1. Học thuyết về “Đạo”
Tư tưởng của Đạo gia thể hiện tập trung ở phạm trù “đạo” “đức”, phản
ánh thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của trường phái này. Tư
tưởng về “đạo” đóng vai trò cực kì quan trọng trong triết học của Lão Tử. Nó
là nền tảng của mọi vấn đề khác và chi phối xuyên suốt học thuyết của ông.
Từ sự quan sát sự vận chuyển của vạn vật trong thế giới Lão Tử rút ra
quy luật về sự biến hóa của tự nhiên, đề ra học thuyết “Đạo” để giải thích
nguồn gốc hình thành vạn vật. Theo Lão Tử “đạo” là “mẹ của vạn vật”, vậy

nó là khởi thủy của vũ trụ. Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết: “Có một vật gì
đó hỗn độn mà thành trước cả trời đất (…), có thể coi là mẹ của vạn vật trong
thiên hạ”. Cái đó ông không biết tên là gì, tạm đặt cho nó là Đạo. Đạo là một
danh từ đã được người Trung Hoa sử dụng từ thời thượng cổ, với ý nghĩa trỏ
một đường đi, rồi sau đó trỏ cái lí phải theo; sau cùng nghĩa mở rộng ra nữa
và đạo trỏ luật, trật tự tự nhiên. Tuy nhiên, Lão Tử thừa nhận là không thể
dùng ngôn ngữ để mô tả được bản chất của Đạo, cho nên ông mở đầu Đạo
Đức kinh bằng câu: “Đạo khả đạo phi thường Đạo, danh khả danh phi
thường danh” (Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải đạo vĩnh cữu bất
biến; tên mà có thể đặt ra để gọi “đạo” thì không phải là cái tên vĩnh cữu, bất
biến).
Theo Lão Tử, vũ trụ không có chung, mà có một khởi thủy – ông gọi là
đạo, nhưng ông cũng ngờ còn một cái gì trước cái khởi thủy đó mà ông chưa
suy ra được. Đạo không phải là thứ vật thể đặc biệt cố định, nó là cái bản
nguyên sâu kín, huyền diệu, là thực thể vật chất của khối hỗn độn, mập mờ,
thấp thoáng, không có đặc tính, không có hình thể. Điều này được Lão Tử ghi


7
rất rõ trong chương 14 của Đạo Đức Kinh : “Nhìn không thấy goi là di, nghe
không thấy gọi là hỉ, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (di, hi, vi tức là vô
sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy
trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất
tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng
không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ.
Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi”. Như vậy, cảm quan
của con người không cảm nhận được “đạo”, nhưng nó vẫn tồn tại tuyệt đối,
vĩnh viễn, mạnh mẽ, bao khắp cả vũ trụ, có trước trời đất và là cái từ đó vạn
vật có danh tính, có hình thể sinh ra. Lão Tử viết “có vật gì trong sự hỗn độn,
có trước cả trờ đất, vừa trống không, vừa lặng yên, đứng một mình không đổi,

lưu hành khắp chốn không mỏi, có thể là mẹ của thiên hạ, ta không biết nó tên
gì, nên mới đặt tên cho nó là đạo, gượng gọ là lớn” (chương 25).
Hai lần Lão Tử gọi “đạo” , bản nguyên của vũ trụ là “vật”: đạo chi vật
(chương 21), hữu vật hỗn thành (chương 25). Chữ “vật” đó không nên hiểu là
một vật như cái bàn là một vật, cái ghế là một vật… mà chỉ nên hiểu là một
cái gì đó. Cái gì đó mênh mông, “thâm viễn”, không sáng, không tối, mập
mờ, thấp thoáng. Lão Tử đã nhìn thấy sự khác nhau giữa cơ sở vật chất đầu
tiên và sự vật cá biệt, ông không lấy đặc tính riêng rẽ để giải thích nguồn gốc
của vạn vật. “Đạo” là bản chất sâu xa, tuyệt đối, là cơ sơ do đó trời đất, vạn
vật sinh sống, vì thế “đạo” không thể giống với sự vật. Sự vật sinh ra từ
“đạo”, có hình thể thì có thể gọi tên được là hữu, còn đạo không thể gọi tên
được là vô. Nhưng vì “đạo” có thể sinh ra vạn vật nên cũng có thê bảo là hữu.
Như vậy “đạo” gồm cả hai phương diện hữu và vô. Vô là thể của “đạo” , hữu
là dụng của “đạo”. Thể của “đạo” thì huyền diệu mà dụng của nó thì vô cùng.
Vì nó sáng tao ra vạn vật (dĩ duyệt chúng phủ - chương 21.), vạn vật nhờ nó
mà sinh (vạn vật thị chi sinh). Theo Lão Tử đạo sinh ra vạn vật theo trình tự :


8
“Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật đều
cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư” (chương 42). Đạo
không chỉ sinh ra vạn vật mà còn làm phép tắc cho trời, cho đất, cho người,
cho vạn vật. Điều này được Lão Tử đề cập đến ở chương 25: “Nhân pháp địa,
địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên.”
“Đạo” có công sinh ra vạn vật, nhưng công nuôi dưỡng, che chở cho
mỗi vật cho tới lớn là “đức” : “Đạo sinh ra vạn vật, đức bao bọc, bồi dưỡng,
nuôi lớn tới thành thục, che chở cho mỗi”. Chữ “đức” ở đây Lão Tử dùng
không cùng một nghĩa với chữ “đức” của Đạo Nho. “Đức” là một phần của
“đạo”: khi chưa hiển hiện trong mọi vật thì là “đạo”, khi đã hiển hiện rồi thì
phần hiển hiện trong mỗi vật là “đức”. Mỗi vật đều có “đức” mà “đức” của

bất kì vật nào cũng từ “đạo” mà ra, là một phần của “đạo” nên “đức” nuôi lớn
mỗi vật mà luôn tùy theo “đạo”.
Như vậy, tóm lại trong thuyết về “đạo” của Lão Tử, “đạo” là bản
nguyên của vũ trụ, cũng có thể là tổng nguyên lí hay nguyên tố của vũ trụ.
“Đạo” sinh ra vạn vật và làm phép tắc cho vạn vật. “Đức” là một phần của
“đạo” nuôi dưỡng, chở che cho vạn vật. Như vậy, ông đã thể hiện được quan
điểm chủ đạo trong vấn đề nhận thức thế giới vạn vật thông qua sự nhìn nhận
về khái niệm “đạo”. Điều này có một giá trị rất lớn trong việc đánh giá sự vật.
Với học thuyết về “đạo” có thể khẳng định, Lão Tử là người đầu tiên luận về
vũ trụ. Các triết gia Trung Hoa thời Xuân Thu và thời chiến Quốc chỉ trừ Lão
Từ, đều không bàn đến vấn đề khởi thủy đó. Trước ông chưa có ai đặt ra câu
hỏi vũ trụ có “thủy”, có “chung” không. Ông cho rằng vũ trụ có khởi thủy và
không có chung. Dân tộc Trung Hoa cũng như mọi dân tộc khác, tin có Trời
và thờ Trời, cho Trời là gốc của vạn vật. Khổng Tử ít nói tới Trời và quỷ thần,
nhưng ông tin có trời và thường dùng chữ thiên mạng khi nói đến trời. Cả bộ
Đạo Đức Kinh chỉ có chương 4 là nhắc tới đế (trời) nhưng lại đặt dưới đạo.


9
Còn quỷ thần cũng chỉ thấy ông nói đến hai lần trong chương 39 và chương
60, nhưng lại nói: “Dùng đạo mà trị thiên hạ thì quỷ không linh; chẳng những
quỷ không linh mà thần cũng không hại được người”. Lão Tử là người hoàn
toàn vô thần khi đả kích quan điểm trời sáng tạo ra thế giới và cho rằng, trời
không phải căn cứ tồn tại của đạo, trái lại đạo có trước thần linh.
Theo Lão Tử, bản chất của “đạo” là phác (mộc mạc, chất phác). Loài
người cũng như vạn vật do “đạo” sinh ra đều phải giữ tính cách đó thì mới
hợp đạo, mới có hạnh phúc. Ngoài ra Lão Tử còn đưa ra học thuyết “đạo pháp
tự nhiên” để giải thích bản chất của “đạo”. Tự nhiên là một điểm quan trọng
vào bậc nhất trong học thuyết lão Tử. Đạo sinh ra vạn vật rồi để cho chúng
vận hành, diễn biến theo luật riêng, theo bản năng của chúng chứ không can

thiệp vào. Như vậy, đạo chính là phác; đạo với tự nhiên là một. Vì vậy, vạn
vật do đạo sinh ra phải có những tính chất của đạo. Quy tắc “pháp”, “tự
nhiên” được Lão Tử áp dụng rất nhiều trong cách xử thế và trị nước.
2.2. Tư tưởng biện chứng
Phép biện chứng đã xuất hiện từ thời cổ đại cả ở phương Đông và
phương Tây, ngày nay nó vẫn tiếp tục được hoàn thiện và phát triển. Ở
phương Đông, Đạo Đức Kinh của Lão Tử là một trong những tác phẩm có
chứa đựng tư tưởng biện chứng sâu sắc. Quan điểm biện chứng của Lão Tử
được thể hiện ngay trong tư tưởng về “đạo”. Trong triết học của Lão Tử,
“đạo” không chỉ là bản nguyên mà còn là con đường, quy luật sinh thành,
biến hóa của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Lão tử gọi là “đạo thường”.
chính ở đây tư tưởng biện chứng được thể hiện rõ nét, tạo nên bản sắc riêng
trong triết học của ông. Lão Tử cho rằng trong thế giới không có vật gì vĩnh
viễn không thay đổi, có những vật tiến lên phía trước, có những vật lùi lại
đằng sau, có những vật lớn lên, có những vật suy đi, có những vật đang hình
thành, có những vật đang đi tới sự tiêu diệt. Sự vận động của vạn vật không


10
phải là hỗn độn mà tuân theo những quy luật tất yếu, tự nhiên, nghiêm ngặt,
không sự vật nào đứng ngoài quy luật đó, kể cả trời đất, thần linh. Theo Lão
Tử, vạn vật từ “đạo” sinh ra vì vậy chúng phải biến hóa tuân theo quy luật của
“đạo” : “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp địa, địa pháp tự nhiên”
(Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự
nhiên).
Lão Tử cho rằng, vạn vật trong vũ trị đều bị điều khiển bởi hai luật phổ
biến là quân bình và phản phục. Luật quân bình luôn giữ cho vận động được
thăng bằng, theo một trật tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất
cập. Ở chương 45 Lão Tử viết “ cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ
được thẳng”. Để lập lại quân bình trong xã hội, phải trừ khử những thái quá,

nâng đỡ những cái bất cập : “Đạo trời giống như buộc dây cung vào cung
chăng? Dây cung ở quá cao thì hạ nó xuống; ở thấp quá thì đưa nó lên; dài
quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ chuyển”
(chương 77). Vậy trong vũ trụ vật nào cũng ngang nhau, không có quý tiện;
trạng thái nào cũng cần thiết như nhau. Loài nào trong vũ trụ cũng có công
giữ sự quân bình, điều hòa trong vũ trụ.
Cũng theo Lão Tử, luật vận hành của “đạo” là quay trở về “phản giả,
đạo chi động”. Vì vậy, vạn vật do đạo và đức sinh ra mà trưởng thành, tất
nhiên phải theo quy luật “phản phục”, tức là quay trở về. Luật phản phục, tức
luật tuần hoàn của vũ trụ con người đã nhận thấy từ hồi sơ khai, vạn vật nối
tiếp nhau theo một vòng tuần hoàn đều đặn, nhịp nhàng, bất tận như bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông, thay đổi qua lại, con người thì “từ cát bụi trở về cát bụi”.
Đó là quy luật bất di bất dịch của tự nhiên. Nhưng Lão Tử đã triển khai luật
đó đến cực điểm, bảo vạn vật sẽ trở về gốc, gốc đó tức là đạo, mà tính cách
của đạo là phác nên trở về gốc cũng là trở về phác. Lão Tử quan sát vũ trụ, cố
gắng tìm ra quy luật khách quan của sự vật phát triển và biến hóa, dạy mọi


11
người hành động theo quy luật tự nhiên: “trở về gốc… gọi là “trở về mệnh”,
trở về mệnh là luật bất biến của vạn vật, biết luật bất biến thì sáng suốt, không
biết thì vọng động mà gây họa”.
Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt
đối lập vừa xung khắc lại vừa dựa vào nhau và liên hệ, ràng buộc, bao hàm
lẫn nhau. Vũ trụ tiến tới cùng cực một trạng thái nào đó thì quay trở lại, tức là
chuyển qua trạng thái ngược lại, trái lại trạng thái trước : “có và không sinh
lẫn nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao và thấp
dựa vào nhau…; trước và sau theo nhau” (chương 2). Theo Lão Tử các trạng
thái trên tuy bề ngoài là trái nhau nhưng thực là sinh thành lẫn nhau, không có
cái này thì không có cái kia: không sinh ra có tức là vạn vật, vạn vật biến hóa

tới cực điểm rồi trở về không; vả lại phải có rồi mới thấy rằng không, ngược
lại cũng vậy; cũng như phải có một vật dài mới thấy một vật khác là ngắn,
một vật cao rồi mới thấy một vật khác là thấp. Cái đẹp xấu cũng vậy, cái thiện
ác cũng vậy: “ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó mà sinh ra quan niệm về cái
xấu, ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mới sinh ra quan niệm về cái ác”
(chương 2). Đẹp xấu, thiện ác đều là quan niệm của loài người cả; đạo không
phân biệt như vậy, chỉ vận động không ngừng , hết giai đoạn này tiếp ngay
đến giai đoạn khác, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ của nó là chuẩn bị cho giai
đoạn sau cuối cùng là trở về đạo. Đối với đạo, vật nào cũng ngang nhau
không có quý tiện, không có họa phúc vì “họa là chỗ dựa của phúc, phúc có
thể biến họa” (chương 58), “chính có thể biến thành tà, thiện có thể trở thành
ác”. Như vậy, sự luân phiên và tương đối của các tương phản chính là quy
luật tất yếu của tự nhiên, là “đạo trời” chi phối mọi sự vật, hiên tượng tự
nhiên cũng như xã hội. Bởi vậy, Lão Tử dạy mọi người “nếu muốn cho sự vật
nào đó suy tàn thì tạm thời làm cho nó hưng lên, để cho nó phát triển đến tột


12
cùng, tất nhiên nó sẽ đổi sang mặt ngược lại, muốn thu lại hãy mở ra, muốn
đoạt lấy hãy cho đi” (chương 36).
Những nhân tố biện chứng trong triết học Lão Tử biểu hiện năng lực
quan sát tinh vi và trình độ tư duy sắc sảo của ông đối với sự vật khách quan.
.

Đây là một tư tưởng đi trước thời đại gắn với những ngành khoa học hiện

đại ngày nay đã chứng thực : vật lý, khoa học vũ trụ, phép biện chứng về mâu
thuẫn của triết học. Tuy nhiên sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong sự vật
hiện tượng không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới, mà theo
vòng tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải

quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập, mà ông chủ trương lấy
cái tĩnh, vô vi để tạo thành sự chuyển hóa. Chính vì thế phép biện chứng của
ông mất đi sinh khí của nó và mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại có tính
chất tuần hoàn, buồn tẻ.
2.3. Tư Tưởng về đạo đức – nhân sinh
Lão Tử sống ở thời loạn, thấy người ta càng cứu loạn thì càng loạn nên
ông chủ trương đừng hữu vi, làm trái tự nhiên, tức là phải “vô vi”. Học thuyết
vô vi do Lão Tử đề xướng là một học thuyết rất quan trọng trong hệ tư tưởng
của Đạo giáo. Quan điểm “vô vi” của Lão Tử không phải là không làm gì cả
mà nghĩa là cứ thuận theo tự nhiên mà làm , không can thiệp vào đời sống vạn
vật. Từ học thuyết vô vi, Lão Tử đã trình bày tư tưởng về các vấn đề đạo đức
nhân sinh.
Nền luân lí Khổng - Mạnh từ khi ra đời đến giữa thế kỉ XX, ở thời nào
cũng được tôn trọng. Vậy mà Đạo Đức Kinh của Khổng tử, bộ sách chỉ vẻn
vẹn có khoảng 5000 chữ, đã làm một cuộc cách mạng rất lớn, lật ngược cả
nền luân lí của Khổng. Nếu Đaọ Khổng đề cao các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
và trung hiếu thì Lão Tử lại chủ trương bác bỏ điều đó. Trong chương 18, Lão
Tử nói: “Đạo lớn bị bỏ đi rồi mới có nhân, nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới


13
có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra
hiếu từ; nước nhà có loạn rồi mới có tôi trung”. Quan điểm này còn được
Lão Tử nói tới tiếp ở chương 38. Theo Lão Tử loài người bẩm sinh đã có lòng
yêu thương cha mẹ, yêu con, yêu đồng loại, tôn trọng bề trên… Loài người
mất đi tình cảm hồn nhiên đó rồi mới đặt ra nhân, nghĩa, lễ, trí, tính, hiếu,
trung; bảo phải hành động ra sao mới là là nhân nghĩa, hiếu, trung thì tình
cảm không còn hồn nhiên, mà cố ý, nhằm một mục đích nào đó, không còn
thành thực nữa bắt người ta làm như mình thì không còn là đạo đức nữa mà là
sa đọa, dùng trí xảo, trọng sự lòe loẹt, đầu mối của hỗn loại. Vì vậy, Lão Tử

chủ trương phải “tuyệt thánh khí trí”, “bất thượng hiền” mà giữ sự chất phác:
“dứt thánh, bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt
trí xảo bỏ lợi, không có trộm giăc” (chương 19); “không trọng người hiền để
cho dân không tranh” (chương 3). Với Lão Tử những ông thánh mà Đạo Nho
ca ngợi không những có công mà còn có tội với dân tộc Trung Hoa. Lão Tử
cũng phản đối tri thức, mà Khổng tử đề cao. Vì theo Lão Tử căn bản của nó
dựa trên sự phân biệt sai lầm về thị phi, thiện, ác, trên những giá trị giả tạo,
hơn nữa tri thức là đối tượng của lòng dục mà Lão Tử lại là người chủ trương
“quả dục”. Càng hiểu biết nhiều lại càng ham muốn – ham danh, ham lợi,
ham quyền – và càng có nhiều khả năng thỏa mãn dục vọng, vì vậy con người
ngày càng hóa ra trí xảo, có tinh thần ganh đua, hiếu thắng. Và Lão Tử chỉ ra
chỉ có một cách học là “học bất học”, nghĩa là lấy sự “không học” làm học,
như vậy mới giúp con người trở về với đạo, giúp vạn vật phát triển theo tự
nhiên. Điều này trái hẳn với cách học của Khổng Tử, không dùng sách vở,
không cách vật mà giữ cho tâm hồn hư tĩnh, dùng trực giác để hiểu đạo, hiểu
mình nhằm tìm một lối sống hợp với đạo. Học theo cách đó thì: “không ra
khỏi cửa mà biết được thiên hạ; không dòm ra ngoài mà biết được trời đất.
Càng đi xa càng biết được ít (chỉ biết được những hiện tượng trước mắt mà


14
thôi, biết được phần tử mà không biết được toàn thể). Cho nên thánh nhân
không đi mà biết, không nhìn mà thấy rõ, không làm mà nên”.
Như vậy, quan điểm trên của Lão Tử cho thấy, Lão Tử có niềm tin vào
bản chất thiện của con người, chính vì vậy ông mới chủ trương giữ sự chất
phác của con người. Đồng thời, Lão Tử cũng khẳng định con người có khả
năng nhận thức. Hiểu đạo là mục tiêu của nhân thức. Muốn vậy phải quay lại
con đường trực giác tâm linh, tức là quay về với tự nhiên. Tuy nhiên, Lão Tử
đã quá đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể.
Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử coi vạn vật như nhau, không phân biệt

quý tiện; phải để cho vạn vật tự nhiên phát triển theo bản tính của chúng,
không can thiệp vào. Lão Tử chủ trương một xã hội mà quyền và bổn phận
của vua chúa, gia trưởng giảm rất giảm thiểu. trong khi đó, Lão Tử lại rất
trọng nữ tính, có lẽ vì vậy mà ngay trong chương đầu ông đã bảo “đạo là mẹ
của vạn vật”. Như vậy, những quan điểm này của Lão Tử trong đạo đức kinh
đã lật ngược lại chế độ tôn ti phong kiến: một xã hộ theo quan niệm của Lão
Tử là xã hội bình đẳng và tự do, giống như xã hội thời sơ khai.
Lão Tử là triết gia đầu tiên và có lẽ duy nhất đi tìm nguyên nhân sâu xa
của sự sa đọa của loài người. Theo Lão Tử, nguyên nhân chính, duy nhất là
tại loài người mỗi ngày một xa đạo, không sống thuận theo đạo, tức thuận
theo tự nhiên, mất sự chất phác, có nhiều dục vọng quá, càng thông minh lại
càng nhiều dục vọng, càng xảo trá, tranh giành, chém giết nhau. Và Lão Tử
kết luận, chỉ có một cách là thay đổi lối sống, trở về với đạo, với tự nhiên, tức
là phải “phản phác”. Bước đầu là “quả dục”, giảm thiểu dục vọng “trong quá
trình biến hóa, tư dục của vạn vật mà phát ra thì ra dùng cái mộc mạc vô danh
mà trấn áp hiện tượng đó, khiến chúng không còn tư dục nữa. không còn tư
dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định”. Ông cho rằng, con người chỉ cần
thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên tối thiểu : bụng thì no, xương cốt thì mạnh,


15
còn những vật hiếm chỉ gợi lòng tham khiến cho xã hội bị loạn thì bỏ hết bởi
“ngũ sắc làm cho ta mờ mắt, ngũ âm làm cho ta ù tai, ngũ vị làm cho ta tê
lưỡi; ruổi ngựa săn bắn làm cho ta mê loạn; vàng bạc châu báu làm cho hành
vi người ta đồi bại. Lão Tử chủ trương hủy bỏ mĩ, nghệ thuật, những cái ta
gọi là sản phẩm của văn minh. Danh vọng, địa vị tiền tại lại càng nên xa lánh.
Phải đặt thân mình ở sau thiên hạ, ra ngoài vòng danh lợi thì thân mình lại ở
trước mới còn được. Hơn nữa, ngay cả cái thân mình cũng nên quên đi, cứ để
đời ta thuận theo tự nhiên, lúc nào về với đạo, với vô thì về, lúc nào chết thì
chết.

“Quả dục” thì phải biết “tri túc”. Lão Tử là người đầu tiên khuyên ta tri
túc “họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì không gì
bằng tham muốn cho được nhiều. Biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó
thì mới luôn luôn thấy đủ” (chương 46). “Tri túc” là điều kiện cốt yếu của
hạnh phúc phương Đông mà chúng ta biết coi trọng. Người phương Tây trái
lại, muốn được thêm hoài, không biết thế nào là đủ, không biết ngừng lại cho
nên họ tiến mau, phú cường nhưng chịu họa cũng lớn.
Đối với mình thì “quả dục”, “phản phác”, đối với người “khiêm nhu”.
Mà “phác”, “nhu” đều là những đức tính của “đạo”, vì vậy nhân sinh quan của
Lão chung quy lại là thuận theo “đạo”, không cưỡng lại quy luật tự nhiên của
tạo hóa. Lão Tử viết : “Nhu nhược thắng cương cường” (chương 37) và
chương 43 ông đã đưa ra ví dụ nhu thắng cương: “trong thiên hạ cái cực mềm
(là nước) chế ngự được cái cực cứng (đá), (vì nước sói mòn được đá”; cái
“không có” lại len vô được cái không có kẽ hở (như không khí len vào được
những chất đá, gỗ cứng mà trông bề ngoài ta không thấy kẽ hở”. Theo Lão Tử
vì biết nhu, biết mềm mỏng, chịu khuất thân thì thân mới được bảo toàn ;
khiêm thì không tự đại; khiêm thì không tự đại, không tự kê công, không tự
phụ. Khiêm thì không tranh với ai vì “đạo trời không tranh mà khéo thắng”


16
(chương 73). Khiêm thì không muốn ở trên người mà cũng không dám ở trên
người (chương 67). Không một triết gia nào đề cao đức khiêm hạ như Lão Tử.
Không những thế trong Đạo Đức kinh, Lão Tử còn đưa ra những lời
khuyên để sống đắc đạo. Theo Lão Tử để lòng hư tĩnh thì mau hiểu được
“đạo”, trở về với “đạo”, đồng nhất với “đạo” mà đồng nhất với “đạo” thì sẽ
cùng với “đạo” trường tồn, bất tử. Về tâm, hư tĩnh là để cho lòng trống không,
vô tri, vô dục, có vậy con người mới trừ hết được các mối oán hờn, lo lắng,
tâm hồn sẽ bình thản, thanh thĩnh, không tranh giành, không có vọng tưởng.
Điều Lão Tử nói khoa học ngày nay đã chứng minh quả thật đúng. Quả dục,

không nóng nảy, hiếu thắng, không tranh đua, lòng than thản thì tâm thần vui
và mạnh mà tâm thần thì ảnh hưởng nhiều đến thế chất. Về thân, Lão Tử
khuyên muốn sống lâu thì không nên sống hưởng thụ thái quá, phải sống đạm
bạc.
2.4. Tư tưởng về chính trị - xã hội
Xã hội Trung Quốc thời kì cổ đại, đặc biệt là thời Xuân Thu – Chiến
Quốc có nhiều biến động phức tạp. Tình trạng cát cứ và bành trướng giữa các
quốc gia đã dẫn đến sự tranh giành quyền lực, xâm chiếm lãnh thổ lẫn nhau
diễn ra liên miên. Xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ luôn ở trong tình trạng mất
ổn định. Nó đòi hỏi phải có những học thuyết chính trị thích ứng để cai trị xã
hội. Vì vậy mà quan niệm về chính trị thời kì này cũng xuất hiện khá phong
phú. Và cũng giống như những nhà tư tưởng cùng thời, Lão Tử sinh trưởng
trong giai đoạn chiến tranh triền miên cho nên rất ưu tư về vấn đề quốc trị. Do
đó, trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử cũng góp một tiếng nói bày tỏ quan điểm
của mình về đường lối trị quốc, tư cách của một ông vua cũng như hình mẫu
của một xã hội lí tưởng mà con người cần phải hướng tới để đạt tới thái bình,
thịnh trị.


17
Từ học thuyết vô vi, Lão Tử không chỉ trình bày tư tưởng về các vấn đề
đạo đức nhân sinh như đã trình bày ở phần trên, mà cũng từ học thuyết này,
Lão Tử còn đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội. Ông thấy là “dân đói
vì người trên lấy thuế nhiều cho nên dân đói, dân khó trị vì người trên theo
hữu vi cho nên dân khó trị,”, “thiên hạ nhiều kiêng kỵ thì dân càng nghèo; dân
nhiều lợi khí thì quốc gia thêm mờ tối, người càng nhiều xảo thuật thì vật kỳ
lạ càng xuất hiện, pháp luật càng sáng tỏ thì trộm cướp càng nhiều.” Và vì
nhận xét như vậy cho nên Lão Tử chủ trương rằng người lãnh đạo quốc gia
phải áp dụng sách lược vô vi để trở về (phản phục) với đạo hay cái gốc tự
nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế thế.

Lão Tử chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ
trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi đó
là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người.
Lão Tử kêu gọi trị nước bằng đạo “vô vi’ tức là đưa xã hội và cuộc sống con
người trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên thủy, chất phác, không ham muốn
không dục vọng, không thể chế, không pháp luật, không bị ràng buộc bởi
truyền thống đạo đức, không cần tri thức, trí xảo, văn hóa kĩ thuật mà theo
bản tính, khả năng, sở thích tự nhiên, mọi người tự làm những việc cần phải
làm một cách tự nhiên. Nói về đường lối trị nước, Lão Tử so sánh: “trị nước
lớn như nấu nướng cá nhỏ”. Nếu ít can thiệp vào việc của dân, để cho dân tự
nhiên mà sống, thì dân sẽ tự hóa, sẽ vui vẻ mà yên ổn phát triển theo bản năng
của họ.
Bước đầu của vô vi là giảm thiểu : ‘theo đạo thì mỗi ngày một giảm.
Giảm rồi lại giảm cho tới mức vô vi”. Chỉ cân thỏa mãn những nhu cầu tự
nhiên của con người, còn những cái khác đều có hại phải bỏ hết. Nếu Khổng
Mặc đều coi dạy dân là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà cầm quyền mà dạy
dân thì dùng lễ nhạc và giảng cho dân đạo nhân nghĩa, hiếu trung. Lão Tử thì


18
lại bảo: “thánh nhân xử sự theo thái độ vô vi, dùng thuật không nói mà dạy
dỗ” (chương 2). Dạy dỗ bằng cách không nói là để cho vạn vật sinh trưởng
mà không can thiệp vào. Lão Tử cho rằng không thể chỉ đặt ra luật lệ và đợi
dân làm sai rồi hành hạ, giam cầm, xử trảm. Vua quan không có quyền can
thiệp vào đời sống của dân, chỉ có mỗi một nhiệm vụ là giữ sao cho dân thuần
hậu, chất phác.
Về kinh tế, Lão Tử chủ trương chính sách tự do, thuế đánh rất nhẹ.
Chính trị của thánh nhân là chỉ cần làm cho dân lòng hư tĩnh, no bụng, ấm
thân, ở yên cho nên ngoài việc trồng trọt và nuôi tằm, chỉ chế tạo vài đồ dùng
thật cần thiết. Chương 65 Lão Tử viết “không cho dân sáng, mà làm cho dân

ngu”. Dân ngu ở đây không hàm nghĩa là ngu dốt , tối tăm mà là sự chất phác,
trong sáng.
Lão Tử chủ trương bất tranh và tư tưởng phản chiến “thiên hạ có đạo
thì ngựa tốt không dùng vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy, thiên hạ
vô đạo thì ngựa dùng vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường”.
Và ông khuyên vua chúa các nước lớn cũng như nhỏ phải khiêm nhu để tránh
chiến tranh cho thiên hạ
Trong Đạo đức kinh, Lão Tử còn bàn về tư cách của vua. Theo ông,
vua phải biết theo đạo mà trị dân, phải thương dân, phải phục vụ dân, hi sinh
cho dân. Cuối chương 13 ông viết “người nào coi trọng sự hi sinh mình cho
tiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào vui vẻ đem thân
mình phục vụ thiên hạ thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được”. Thánh
nhân thì không thành kiến, coi ai cũng như ai; dùng người thì không bỏ ai, cả
những người không thiện. Sau cùng, vua chúa phải có đức khiêm hạ và Lão
Tử nhấn mạnh nhất vào đức này. Công của thánh nhân rất lớn nhưng không
được khoe tài, cậy công, “công thành rồi thì nên lui về, đó là đạo trời”. Ông
vua nào khiêm hạ, né mình đến mức không biết có vua nữa, quên hẳn công


19
của vua đi, nhờ vua hưởng an lạc mà cứ tưởng là tự nhiên mình được vậy, đó
chính là ông vua lí tưởng của đạo Lão.
Cũng theo đạo “vô vi”, Lão Tử phản đối những hiện tượng bất bình
đẳng trong xã hội do sự áp bức bóc lột của bọn quý tộc cũng như sự pháp
triển của kinh tế hàng hóa gây nên. Quốc gia lý tưởng trong nhãn quan của
Lão Tử là “nước nhỏ, dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm lần cũng không dùng đến.
Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền xe mà
không ngồi, có binh khí mà không bày, bỏ hết văn tự bắt dân dùng lại lối thắt
dây thời thượng cổ để ghi những việc cần phải nhớ. Thức ăn đạm bạc mà
thấy ngon, quần áo giản phác mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục

giản phác mà lấy làm vui. Các nước láng giềng gần gũi, có thể trông thấy
nhau, nước này nghe được tiếng gà, tiếng chó của nước kia, mà nhân dân của
các nước ấy đến già chết cũng không qua lại với nhau” (chương 80). Xã hội lí
tưởng như thế của Lão Tử là trở về chế độ bộ lạc, dân chủ tự túc, tự lập thời
thượng cổ, mọi người sống theo tự nhiên. Áp dụng đúng thuyết phản phác vô
vi của Lão Tử thì tất phải đưa đến một xã hội như vậy.


20

C. KẾT LUẬN
Những điều đã trình bày ở trên giúp chúng ta phần nào lí giải được,
tại sao tư tưởng của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh lại có vị trí quan trọng và
ảnh hưởng to lớn tới nhiều lĩnh vực đời sống xã hội ở Trung Hoa như vậy.
Đạo Đức Kinh, được đánh giá là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú
ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc, chứa đựng những tư tưởng đã trở
thành những tư tưởng văn hóa truyền thống của Trung Hoa trong suốt hơn hai
ngàn năm và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực ở nhiều nước châu Á.
Tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia về nhận thức luận và nhân
sinh quan, chính trị quan không tránh khỏi có những hạn chế. Vẫn còn những
lời chê trách học thuyết của Lão Tử về điểm này, điểm kia. Người ta trách
Lão Tử quá sùng thượng tự nhiên, loài người chỉ phải tuân theo không được
làm trái lại. Lão Tử lại mạt sát nhân vi, chấm dứt cải tạo tự nhiên và cải tạo xã
hội, mà quay về sống như thời nguyên thủy, như vậy là phủ nhận sự tiến bộ,
văn minh của nhân loại. Về mặt nhận thức luận, Lão Tử coi thường trí tuệ, coi
thường nhận cảm giác kinh nghiệm và có xu hướng thần bí hóa nhận thức.
Phép biện chứng của ông mang tính máy móc, lặp đi lặp lại, có tính chất tuần
hoàn buồn tẻ. Và con nhiều điểm khác nữa mà nhiều học giả đã đưa ra để phê
phán tư tưởng của Lão Tử. Nhưng Lão Tử đã sống cách chung ta hơn hai
ngàn năm, vậy những tư tưởng triết học của ông sao có thể tránh khỏi những

hạn chế mang tính chất thời đại. Nhưng không vì thế mà chúng ta có thể chê
trách Lão Tử, bởi bất kì triết gia nào cũng có quyền đặt ra các tiền đề, giả
thiết; hễ nó đúng được một phần, dù nhỏ nhưng phần đúng ấy lại có ích cho
nhân loại trong một thời nào đó, sửa được một vài sai lầm nào đó là đủ cho
triết thuyết ấy có giá trị rồi. Huống chi, tư tưởng của Lão Tử lại đem đến cho
con người những giá trị to lớn đến tận ngày nay. Vì vậy, trong bối cảnh toàn
cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ đương đại, với tinh thần cầu thị và


21
tôn trọng lịch sử, chúng ta vẫn có thể rút ra rất nhiều bài học có giá trị cả
trong nhận thức lẫn trong thực tiễn từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Quan niệm
của ông về nguồn gốc của vũ trụ, quy luật phát triên của vạn vật, giúp người
đọc có cái nhìn duy vật và biện chứng trong nhìn nhận thế giới, mặc dù,
những tư tưởng ấy còn chất phác, sơ khai. Tư tưởng “vô vi” của Lão Tử giúp
con người hướng đến tự nhiên, dung hòa với tự nhiên, không làm gì trái với
quy luật của tự nhiên. Điều này giúp con người nhận thức được rằng cần phải
tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật tự
nhiên vào cuộc sống, không được cải tạo tự nhiên theo những toan tính, lợi
ích tầm thường nếu không sẽ phải trả giá và chuốc lấy hậu quả khôn lường.
Trong học thuyết của Lão Tử, chúng ta còn bắt gặp những tư tưởng
giàu giá trị nhân văn: đó là tư tưởng bình đẳng, tự do, tấm lòng khoan dung,
yêu thương con người, trọng hòa bình Đó là những giá trị nhân bản rất cao
đẹp, không một triết gia chân chính nào không muốn hướng tới. Những tư
tưởng tốt đẹp, vì con người, khiến cho tâm hồn ta luôn hướng thiện, cao đẹp
và trong sạch hơn. Đó chính là giá trị không thể phủ nhận của tư tưởng Lão
Tử. Bên cạnh đó, Đạo Đức Kinh còn cung cấp cho chúng ta những phương
châm xử thể và nghệ thuật sống vô cùng tinh tế, phong phú và đáng vận dụng.
Đó là, con người cần tránh ham muốn đua chen của dục vọng, biết bằng lòng
và hạnh phúc với những cái hiện có. Lão Tử còn dạy con người phải biết sống

khiêm tốn, giản dị mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sơ, đau buồn trước mọi
biến động xảy ra trong đời, không tham lam, vụ lợi, giả dối, không đua tranh,
giành giật, không bon chen, đố kì mà cần sống hòa nhã, ngay thẳng, tự nhiên,
thuần phác…
Hiện nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc,
song những tư tưởng triết học của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng
kể đối với đời sống con người, đặc biệt ở những nước vốn chịu sự ảnh hưởng


22
truyền thống của nó. Bởi một hệ tư tưởng triết học giàu ý nghĩa nhân văn, mọi
quan điểm đưa ra đều đứng trên lập trường vì nhân dân, thì hệ tư tưởng ấy sẽ
có còn cần thiết và có giá trị với loài người. Không chỉ ở Châu Á, mà ở Châu
Âu hiện nay, Đạo Đức Kinh cũng trở thành tác phẩm của Trung Hoa được
phổ biến nhất bỏ xa Tứ thư, Ngũ kinh, cả thơ Lí Bạch nữa. Gần đây họ hiểu
Lão Tử hơn và muốn tìm trong Đạo Đức Kinh một phương thuốc trừ cái tật
hăm hở hưởng thụ, quá ham tiến bộ, sống trái tự nhiên của họ. Điều đó chứng
tỏ, Đạo Đức Kinh của Lão Tử chính là “túi khôn” của dân tộc Trung Hoa nói
riêng, của nhân loại nói chung. Đến nay, chưa ai dám chắc đã hiểu hết, hiểu
đúng tư tưởng của Lão Tử, có lẽ vì thế Đạo Đức Kinh thực là “vô tiền khoáng
hậu”, sẽ còn khơi mở cho con người biết bao triết lí mà tiền nhân muốn gửi
gắm cho nhân loại . Con người sẽ vẫn nghiền ngẫm tác phẩm bất hủ ấy của
Lão Tử để hiểu ông, một con người đáng quý, cao thượng và để tìm cho mình
những bài học bổ ích cho bản thân trong cuộc sống hôm nay.


×