Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.52 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................................................................2
I. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính....................................................................................................2
II. Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính..................................................3
III. Tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.........................................................7
KẾT LUẬN......................................................................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:...............................................................................................................12

1


LỜI MỞ ĐẦU
Xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) là một dạng hoạt động áp dụng pháp
luật hành chính, là quá trình các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền căn cứ vào
pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ… để ban hành các quyết định xử phạt. Các hoạt động của Nhà nước
đều có đặc tính chung là phải tuân theo đúng thủ tục pháp lí nhất định. XPVPHC
cũng là hoạt động của Nhà nước nên hoạt động này cũng phải tuân theo thủ tục do
pháp luật quy định. Hơn nữa, XPVPHC ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền và lợi
ích của những chủ thể nhất định nên thủ tục XPVPHC không chỉ đảm bảo cho hoạt
động Nhà Nước tiến hành hợp lí mà còn bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá
nhân, tập thể và Nhà Nước.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2002 (sửa đổi, bổ sung
năm 2008), và các văn bản khác về XPVPHC như các Nghị định của Chính phủ,
Thông tư của các Bộ trưởng là cơ sở pháp lý để xác định: cơ quan nào có thẩm
quyền xử phạt; hình thức và biện pháp xử phạt mà cơ quan đó được áp dụng; cơ
quan đó có thẩm quyền phạt đối tượng thực hiện hành vi vi phạm hành chính nào;
mức phạt được áp dụng là bao nhiêu; thủ tục xử phạt theo pháp luật như thế nào…
Tuy nhiên, như là một điều tất yếu, trong các quy định định của pháp luật luôn có


những điểm hợp lí và chưa hợp lí. Đề tài sau đây xin đánh giá về tính hợp lí của
pháp luật về thẩm quyền và thủ tục XPVPHC.

NỘI DUNG
I. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính.
“XPVPHC là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy
định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và
các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết, theo quy định
2


cảu pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính”. (Giáo trình Luật
Hành chính Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2008, trang 313 - 314)
II. Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về XLVPHC
trong đó quan trọng là Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh
XLVPHC năm 1995, Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008),
các Nghị định hướng dẫn thi hành các Pháp lệnh XLVPHC, ngoài ra có thể tìm thấy
các quy định về thẩm quyền XPVPHC trong một số đạo luật… Trong hệ thống pháp
luật nước ta thì thẩm quyền XPVPHC cũng chủ yếu được quy định trong các văn
bản này. Thẩm quyền XPVPHC được thể hiện tập trung và tương đối đầy đủ, rõ
ràng trong Pháp lệnh XLVPHC cùng với các quy định cụ thể trong các Nghị định về
XPVPHC về cơ bản đã đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật quy định về
thẩm quyền XPVPHC. Những quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
là cơ sở để ngăn ngừa sự lạm quyền trong quá trình xử phạt, đảm bảo việc xử phạt
được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, công minh.
Việc quy định thêm chức danh có thẩm quyền XPVPHC, kịp thời trao thẩm
quyền XPVPHC trong một số lĩnh vực quản lí chuyên ngành cho các chức danh mà
Pháp lệnh XLVPHC chưa quy định đã phần nào đáp ứng được đòi hỏi của quản lí

nhà nước.
“Có thể thấy rõ sự phân hóa trong các quy định về thẩm quyền XPVPHC: Người giữ
chức vụ cao hơn được trao thẩm quyền rộng hơn (đương nhiên là trách nhiệm nặng
nề hơn); thẩm quyền của Chủ tịch UBND được quy định toàn diện hơn các chức
danh hoạt động trong từng ngành hoặc lĩnh vực quản lí cùng cấp; mức tiền phạt
trong các lĩnh vực quản lí khác nhau cũng được quy định khác nhau cho phù hợp với
đặc thù của tùng lĩnh vực”(1).
TS. Trần Minh Hương, “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính – Thực trạng quy định, thực
tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Luật học số 8/2008, trang 28.
1

3


“Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giúp cho người có thẩm quyền
xử phạt đỡ lúng túng trong việc xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình hay không và giúp cấp trên của họ dễ dàng hơn trong đánh giá kết quả hoạt
động XPVPHC nói chung cũng như xác định trách nhiệm của cấp dưới trong những
vụ việc cụ thể.
Các quy định về ủy quyền được đặt ra tương đối hợp lí. Pháp lệnh XLVPHC
quy định rất rõ người có thẩm quyền xử phạt chỉ ủy quyền trong trường hợp vắng
mặt; Nghị định số 134/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ đã những
đòi hỏi khá khắt khe khi tiến hành ủy quyền, đó là người có thẩm quyền xử phạt chỉ
được ủy quyền cho cấp phó trực tiếp của mình, việc ủy quyền được thể hiện thành
văn bản và người được ủy quyền không được ủy quyền tiếp”(2).
Theo các quy định của pháp luật, không có một hoặc một loại cơ quan riêng
nào được thành lập để thực hiện việc XPVPHC mà thẩm quyền xử phạt chủ yếu
thuộc về các cơ quan quản lí hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền XPVPHC thuộc về các cơ quan sau
đây:

- UBND các cấp;
- Cơ quan công an nhân dân;
- Bộ đội biên phòng;
- Cơ quan cảnh sát biển;
- Cơ quan hải quan;
- Cơ quan kiểm lâm;
- Cơ quan thuế;
- Cơ quan quản lí thị trường;
- Cơ quan thanh tra chuyên ngành;
- Giám đốc cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thủy nội địa, giám đốc cảng
vụ hàng không;
2

Sđd, trang 29.
4


- Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự.
Khắc phục tồn tại của những Pháp lệnh XLVPHC trước đây, đồng thời thực
hiện xu hướng nâng cao trách nhiệm cá nhân, Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa
đổi, bổ sung năm 2008) đã quy định cụ thể thẩm quyền XPVPHC đến những chức
danh cụ thể trong các cơ quan này. Mặt khác, một số chức danh trong các cơ quan tư
pháp và thi hành án cũng có thẩm quyền xử phạt như thẩm phán chủ tọa phiên tòa,
chấp hành viên, đội trưởng và trưởng phòng thi hành án dân sự. Với các chủ thể
trong cơ quan quản lí hành chính nhà nước, thẩm quyền xử phạt được xác định dựa
trên nguyên tắc: “Chủ tịch UBND là người có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh
vực quản lí nhà nước ở địa phương” (Khoản 1 Điều 42 Pháp lệnh XLVPHC năm
2002 - sửa đổi, bổ sung năm 2008); Người có thẩm quyền trong các cơ quan chuyên
môn như hải quan, kiểm lâm, thuế vụ, thanh tra chuyên ngành, lực lượng cảnh sát…
có thẩm quyền xử phạt với những hành vi thuộc lĩnh vực, ngành mà mình quản lí.

Pháp luật đã quy định tương đối đầy đủ các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong
các cơ quan quản lí khác nhau, đảm bảo không một vi phạm hành chính nào xảy ra
lại không bị xử phạt bởi chủ thể có thẩm quyền.
Vi phạm hành chính là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không cao, mức
phạt tiền là một trong những dấu hiệu phản ánh sự đánh giá của Nhà nước về tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Xét cả về lí luận và thực tiễn, mức phạt
tiền đới với người vi phạm hành chính chỉ có ý nghĩa khi được giới hạn ở một mức
độ nào đó, nhìn rộng hơn thì không chỉ đối với mức phạt tiền mà với các hình thức
xử phạt khác cũng vậy. Chính vì thế, pháp luật về XPVPHC đã quy định thẩm quyền
XPVPHC cụ thể cho mỗi cá nhân có thẩm quyền. Ví dụ: theo quy định tại khoản 3
Điều 32 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008): “3. Trưởng
Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên
phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 10.000.000 đồng;
5


c) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và d
khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh này.”
Trong các Pháp lệnh XLVPHC trước (năm 1989 và 1995) đều quy định theo
kiểu “…có quyền phạt đến…”, chính quy định này đã làm cho hoạt động XLVPHC
trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn vì có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Đặc
biệt là trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, mỗi vi
phạm đều phải chịu mức phạt trong giới hạn thẩm quyền của một chủ thể nhưng
cộng lại thì mức phạt chung lại lớn hơn mức cao nhất mà chủ thể đó có quyền áp
dụng. Pháp luật hiện hành về XPVPHC đã khắc phục được sự thiếu rõ ràng này,
Điều 42 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 quy định các nguyên tắc xác định thẩm
quyền XPVPHC, cụ thể là:

“1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các điều từ
Điều 31 đến Điều 40d của Pháp lệnh này có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý.
Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều
người, thì việc xử phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện.
2. Thẩm quyền xử phạt của những người được quy định tại các điều từ Điều
28 đến Điều 40d của Pháp lệnh này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi
phạm hành chính. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định
căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ
thể.
3. Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính thì thẩm quyền xử phạt được xác định theo nguyên tắc sau đây:
a) Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc
thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó;
6


b) Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi
vượt quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến
cấp có thẩm quyền xử phạt;
c) Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các
ngành khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm
quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.”
III. Tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Thủ tục XPVPHC có vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật về
XPVPHC. Thủ tục xử phạm vi phạm Hành Chính không chỉ đảm bảo cho hoạt động
Nhà Nước tiến hành hợp lí mà còn bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân,
tập thể và Nhà Nước.

+ Về thủ tục ra quyết định XPVPHC, pháp luật quy định việc ra quyết định xử
phạt được tiến hành theo thủ tục dưới đây:
Khi phát hiện vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức thì người có thẩm
quyền xử phạt phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức.
Theo Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sử đổi, bổ sung năm 2008), nếu
hành vi vi phạm đó chỉ bị phạt ở mức cảnh cáo hoặc phạt tiền đến từ 10.000 đồng
đến 200.000 đồng thì sẽ xử phạt theo “thủ tục đơn giản”. Gọi là thủ tục đơn giản vì
theo thủ tục này, khi phát hiện hành vi vi phạm Hành Chính, người có thẩm quyền
xử phạt ra quyết định xử phạt ngay. Điều kiện để áp dụng áp dụng thủ tục này là
hành vi vi phạm thì người có thẩm quyền đã được xác định được đó là hành vi vi
phạm nào, tính chất, mức độ vi phạm đồng thời người phát hiện vi phạm phải có đủ
thẩm quyền quyết định xử phạt tại chỗ. Điều 54 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính
năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định về “thủ tục đơn giản” như sau:
“Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến
200.000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt quyết định xử phạt tại chỗ. Việc xử

7


phạt tại chỗ không phải lập biên bản, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát
hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ.
Quyết định xử phạt phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa
chỉ của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa
điểm xảy ra vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; điều, khoản của văn
bản pháp luật được áp dụng. Quyết định này phải được giao cho cá nhân, tổ chức bị
xử phạt một bản. Trong trường hợp người chưa thành niên bị phạt cảnh cáo thì
quyết định xử phạt cảnh cáo còn được gửi cho cha mẹ, người giám hộ của người đó
hoặc nhà trường nơi người chưa thành niên vi phạm đang học tập.
Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Cá
nhân, tổ chức vi phạm có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử

phạt. Người có thẩm quyền xử phạt phải giao biên lai thu tiền phạt cho người bị xử
phạt.”
Việc pháp luật quy định thủ tục đơn giản cho những vi phạm hành chính nhất
định giúp cho việc xử phạt hành chính trở nên linh hoạt, nhanh gọn trong những vi
phạm phù hợp, tránh được những phức tạp không cần thiết trong XPVPHC.
Bên cạnh thủ tục đơn giản, pháp luật còn quy định thủ tục xử phạt có lập biên
bản. Thủ tục này khác thủ tục đơn giản ở chỗ, khi phát hiện hành vi vi phạm, người
có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định ngay mà phải lập biên bản xử phạt vi
phạm hành chính. Thủ tục xử phạt có cập biên bản được quy định tại Điều 55 Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) như sau:
“Điều 55. Lập biên bản về vi phạm hành chính
1. Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người
có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử
phạt theo thủ tục đơn giản. Trong trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm
quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản đó phải được chuyển ngay đến
người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt.

8


Trong trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến
hành ngay sau khi xác định được người có hành vi vi phạm.
Vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển thì người chỉ huy tàu bay,
tàu biển có trách nhiệm lập biên bản để chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt
khi tàu bay, tàu biển về đến sân bay, bến cảng.
2. Trong biên bản về vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa
điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề
nghiệp người vi phạm hoặc tên, địa chỉ tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa
điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành

chính và bảo đảm việc xử phạt (nếu có); tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ
(nếu có); lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người
chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ,
tên, địa chỉ, lời khai của họ.
Trong trường hợp người vi phạm hành chính cố tình trốn tránh hoặc vì lý do
khách quan mà không có mặt tại địa điểm xảy ra vi phạm thì biên bản được lập
xong phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của
hai người chứng kiến.
3. Biên bản phải được lập thành ít nhất hai bản; phải được người lập biên
bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; nếu có người chứng kiến,
người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên
bản; trong trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người được quy định tại
khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi
phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối
ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.
4. Biên bản lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm một bản;
nếu vụ vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người đó
phải gửi biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt.”
9


Pháp luật quy định “thời hạn ra quyết định xử phạt là mười ngày kể từ ngày
lập biên bản về vi phạm hành chính, đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình
tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là ba mươi ngày. Trong trường hợp
xét thấy cần thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền
phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản; việc gia hạn phải bằng văn
bản, thời hạn gia hạn không được quá ba mươi ngày” (trích khoản 1 Điều 56 Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) .
Trong quá trình XPVPHC, khi xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm,
người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan xử lí hình sự có thẩm

quyền giải quyết. Pháp luật nghiêm cấm việc giữu lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội
phạm để xử lí hàh chính.
Như vậy, nếu thủ tục đơn giản tạo điều kiện xử lí vi phạm Hành Chính nhanh
gọn thì thủ tục có biên bản đảm bảo xử phạt có cơ sở. Mặt khác, biên bản vi phạm
Hành Chính cũng là cơ sở để người bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện cơ quan Nhà
Nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc khiếu nại và xét xử vụ kiện đối với quyết
định xử phạm vi phạm Hành Chính. Việc quy định hai hình thủ tục xử phạt vi phạm
Hành Chính tạo sự linh hoạt trong xử phạt, vừa nhanh chóng vừa chính xác trong
những khả năng và điều kiện cho phép. Đây là điểm rất hợp lí trong quy định của
pháp luật về XPVPHC.
+ Đối với thủ tục thi hành quyết định XPVPHC: Quyết định xử phạt có hiệu
lực kể từ ngày kí trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác.
Quyết định này phải được gửi cho tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính và cơ quan
thu tiền phạt trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ra quyết định. Tổ chức, cá nhân bị xử
phạt phải tự nguyện thi hành quyết định xử phạt trong thời hạn mười ngày kể từ
ngày được giao quyết định xử phạt trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cá
nhân, tổ chức bị phạt tiền có thể nộp tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt hoặc
nộp tại kho bạc nhà nước. Hết thời hạn tự nguyện thi hành quyết định xử phạt mà tổ
chức, cá nhân không thi hành quyết định xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp
10


dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt buộc cá nhân, tổ chức đó
phải thi hành. Quy định này đã giúp tránh được những khó khăn, phiền hà cho tổ
chức, cá nhân bị xử phạt và cả người có thẩm quyền xử phạt đồng thời nó cũng giúp
hạn chế được những tiêu cực có thể xảy ra trong XPVPHC.
KẾT LUẬN
Pháp Luật Việt Nam đã có những quy định khá cụ thể, chi tiết và hợp lí về xử
phạt vi phạm hành chính nói chung và thủ tục, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính nói riêng. Các quy định về XPVPHC phải được thực thi nghiêm chỉnh từ phía

các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC, trong đó việc xác định thẩm quyền và thủ tục
xử phạt có ý nghĩa rất quan trọng. Đề tài trên đã đánh giá sơ bộ về tính hợp lí của
pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Trong điều kiện hiện tại, chắc chắn những quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính sẽ còn phải thay đổi để bắt kịp với những thay đổi của xã hội.
Hi vọng rằng trong sự thay đổi ấy, các quy định của pháp luật sẽ phát huy được sự
hợp lí đồng thời khắc phục được những hạn chế của mình để pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính ngày càng được hoàn thiện.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Văn bản quy phạm pháp luật:
1. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
2. Nghị định của Chính phủ số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002.
3. Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008.
Sách, tài liệu, giáo trình:
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2008.
5. Học viện hành chính quốc gia, Giáo trình thủ tục hành chính, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2005.
6. Viện khoa học pháp lí, Bộ tư pháp, Bình luận khoa học Pháp lệnh xử lí vi phạm
hành chính 2002, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
Tạp chí:
7. Đặc san về xử lí vi phạm hành chính, Tạp chí luật học, tháng 9/2003.
8. Số chuyên đề về Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, Tạp chí dân chủ

và pháp luật, số tháng 9/2002.
Website:
9. />10.
11. />12.
12


13



×