Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

NGUYÊN tắc đảm bảo QUYỀN bào CHỮA của bị CAN, bị cáo THỰC TIỄN tại TỈNH hà TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.7 KB, 55 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
KHÓA: 2012 - 2016
Đề tài:

NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO - THỰC TIỄN TẠI TỈNH HÀ TĨNH

Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Xuân
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Quốc Nam

Lớp

: Luật K36B - Dân Sự

Mã số sinh viên

: 1250110217





Trong quá trình thực hiện đề tài này, ngoài sự
nổ lực cố gắng của bản thân, em đã nhận
được nhiều sự giúp đỡ quý báu đến từ phí


nhà trường, thầy cô, bạn bè…
Trước hết, em xin chân thành bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến giảng viên - ThS. Nguyễn
Thò Xuân thuộc bộ môn hình sự, người đã tận
tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài niên luận
này.
Em xin chân thành cám ơn đến Ban giám hiệu
nhà trường, quý thầy cô trường Đại học luật Đại học Huế đã giúp em có những kiến thức
pháp lí cơ bản để hỗ trợ cho công tác nghiên
cứu bài niên luận.
Xin được gửi lời cám ơn đến các cô chú anh chò
trong thư viện trường Đại học Luật - Đại học Huế,
Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tónh.
Lời cuối cùng xin được gửi đến các bạn bè
nhất là những người bạn trong nhóm niên luận
đã giúp đỡ em rất nhiều.


Em xin chaân thaønh caùm ôn!


BẢNG KÝ TỰ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ Luật Hình Sự

HĐXX


:

Hội Đồng Xét Xử

HNGĐ

:

Hôn Nhân Gia Đình

HTND

:

Hội Thẩm Nhân Dân

TAND

:

Tòa Án Nhân Dân

TANDTC :

Tòa Án Nhân Dân Tối Cao

VKS

:


Viện Kiểm Sát

XHCN

:

Xã Hội Chủ Nghĩa


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................7
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................7
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.........................................................................................8
3. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu đề tài......................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................10
6. Kết cấu của niên luận...............................................................................................11
B. PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................12
Chương 1.
LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM..............................12
1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.................................12
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định về quyền bào chữa của bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam..............................................................................13
1.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo...........................................................................................................15
Chương 2.
THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM......................................................18
2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.19

2.2. Những bất cập trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.................24
2.3. Thực tiễn thực hiện về quyền bào chữa ở tỉnh Hà Tĩnh........................................35
2.3.1.Thực trạng thực hiện quyền bào chữa của bị can bị cáo tại địa bàn tỉnh hà tĩnh
(các vụ án hình sự).....................................................................................................36
2.3.2. Những vi phạm trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can,bị cáo ở địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh........................................................................................................39
2.4. Nguyên nhân dẫn đến vi phạm...............................................................................43
2.5. Những kiến ngị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo............................................................................................46
2.5.1. những kiến nghị mang tính định hướng..........................................................46
2.5.2. Những kiến nghị cụ thể...................................................................................48
C. KẾT LUẬN...................................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................55



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của đất nước sau những năm đổi mới theo
đường lối sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị, xã hội, đặc
biệt là những thành tựu đáng trân trọng trong đời sống kinh tế. Song song
với những thành tựu đã đạt được thì trong những năm vừa qua, tình hình tội
phạm, vi phạm pháp luật và các tranh chấp diễn ra ngày càng đa dạng và
phức tạp. Tội phạm không chỉ diễn ra trong lĩnh vực xâm phạm an ninh
quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền sở
hữu tài sản công dân; xâm phạm trật tự an toàn xã hội mà còn diễn ra trong
các lĩnh vực quản lý kinh tế, bảo vệ môi trường, ma túy, tham nhũng.... Bên
cạnh đó công tác xét xử cũng còn nhiều bất cập. Vai trò của Người bào
chữa,các cơ quan công an, hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm VKS nhân
dân và Tòa án nhân dân các cấp các cơ quan này chịu trách nhiệm khởi tố và

xét xử theo pháp luật và bảo vệ pháp luật, đảm bảo xét xử đúng người, đúng
tội ngày một gia tăng. Đặc biệt là hoạt động của đội ngũ người bào chữa,
một trong những nhân tố có vai trò vô cùng quan trọng trong công tác xét
xử, áp dụng pháp luật. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng không
được tổ chức thực hiện tốt thì cũng không có ý nghĩa, chính vì vậy hoạt
động xét xử của tòa án nhân dân các cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống và góp phần phát triển đất nước và
để cho công tác xét xử tốt không thể không nhắc đến vai trò của đội ngũ
người bào chữa ở việt nam hiện nay.
Những năm gần đây, tình hình thực hiện pháp luật nói chung và áp
dụng pháp luật vào trong quá trình xét xử nói riêng ở Việt Nam cũng như


trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ngày càng được đổi mới và tăng cường, có nhiều
kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng bước nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
trong thời gian qua chưa cao, bộc lộ những hạn chế, yếu kém, vướng mắc cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Nhất là việc áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử của ngành Tòa án nhân dân cả nước nói chung và Tòa án tỉnh Hà
Tĩnh nói riêng đã và đang đặt ra những yêu cầu và những giải pháp cấp
bách. Nhiều vụ án áp dụng pháp luật trong xét xử không chính xác, không
đầy đủ hoặc không đúng thẩm quyền xét xử. Dẫn đến nhiều bản án oan sai,
gây ra nhiều tác hại rất lớn cho xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của ngành Tư
pháp và lòng tin, sự tín nhiệm của nhân dân vào cơ quan thực thi công lý.
Chính vì ý nghĩa lý luận và thực tiễn như đã nêu trên, tôi đã lựa chọn
đề tài “Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo - thực tiễn tại
tỉnh Hà Tĩnh ” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền có người bào chữa của bị can, bị cáo là đề tài thu hút sự quan

tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Đặc biệt, trong thời kỳ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; phát huy dân chủ
đi đôi với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và thực hiện cải cách
tư pháp thì số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp,
về hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và việc xét xử của Tòa án nhân
dân nói riêng’ tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên vấn đề quyền bào chữa của bị can, bị cáo tại tỉnh Hà Tĩnh
thì ít công trình nghiên cứu vì vậy đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, về vai trò của người bào
chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo ở tỉnh
Hà Tĩnh để từ đó Tòa án góp phần vào công cuộc đấu tranh, phòng chống
8


tội phạm, duy trì trật tự an toàn xã hội một cách có hiệu quả nhất.

9


3. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích của đề tài là nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận về quyền
bào chữa của bị can, bị cáo theo pháp luật việt nam..
- Phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả về quyền bào chữa của bị can, bị cáo tại địa bàn tỉnh Hà Tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định
của pháp luật Việt Nam về vấn đề “quyền bào chữa của bị can, bị cáo”.
Tổng hợp các gốc nhìn nghiên cứu khác nhau. Thực trạng pháp luật - Kiến
nghị hoàn thiện, được nghiên cứu dưới nhiều gốc độ, khoa học, pháp luật
trong xu thế phát triển của đất nước.

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về “Nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo ” trên phương diện lý luận lồng ghép
thực tiễn.
Xem xét phân tích các quy định và đưa ra các giải pháp về “đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo ”.
Thực tiễn “quyền bào chữa của bị can, bị cáo” tại địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để tìm ra mối liên hệ giữa các
hiện tượng để đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học.Sử dụng
các phương pháp phân tích, so sánh, diễn giải, tổng hợp, chứng minh …
cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài. Phương pháp phân
tích được sử dụng ở chương 1, chương 2; phương pháp diễn giải được sử
dụng ở chương 1, chương 2; phương pháp tổng hợp được sử dụng ở
chương 1, chương 2,; phuơng pháp chứng minh được sử dụng ở chương 1,
chương 2.

10


6. Kết cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 2 chương:
Chương 1. Lý luận về bảo đảm quyền có người bào chữa trong tố tụng
hình sự việt nam
Chương 2..Thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự việt nam.

11



B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Từ trước tới nay quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một quyền tố
tụng cơ bản được bảo đảm trong hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới,
bảo đảm quyền bào chữa đồng ngĩa với việc tôn trọng và bảo đảm xét xử
công bằng. Đây được coi là một trong những nguyên tắc chi phối các hoạt
động tố tụng giải quyết vụ án hình sự .
Ở việt nam quyền bào chữa đã được quy định và bảo đảm nhưng cũng
còn nhiều điểm bất cập do những quy định của pháp luật còn chưa được thật
sự hoàn thiện.hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự việt nam hiện hành về
quyền bào chữa là đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, đặc biệt
là hiện nay việt nam đã và đang thực hiện cải cách tư pháp.
1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Quyền bào chữa là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận ở điều 11 bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 “ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát,tòa
án có ngĩa vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền
bào chữa của họ theo quy định của bộ luật này “.
Quyền bào chữa là một quyền tố tụng cơ bản của bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự. Ngày nay quyền này được ghi nhận trong hầu hết các văn
bản pháp lí quốc tế về quyền con người và trong pháp luật của từng quốc
gia.Mặc dù vậy câu hỏi quyền bào chữa được ghi nhận và bảo đảm như thế
nào trong lịch sử pháp luật vẫn chưa được đề cập một cách toàn diện.Nội
dung chương 1 sẽ hệ thống và kết nối những kiến thức nền tảng ở cả khía

12



cạnh lí luận lẫn thực tiễn xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa,
nhằm làm sáng tỏ 2 vấn đề cơ bản: Bảo đảm quyền bào chữa hình thành trên
cơ sỡ lí luận nào? Quyền bào chữa được bảo đảm như thế nào trong các văn
bản pháp lý?
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định về quyền bào
chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
Trong pháp luật tố tụng hình sự việt nam, những bảo đảm pháp lý về
quyền bào chữa luôn gắn liền với những quy định pháp luật liên quan đến
chế định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Chính vì vậy tìm hiểu sự
hình thành và phát triển của quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự
việt nam không thể tách rời quá trình hình thành và phát triển chế định về
quyền bào chữa nói chung.
a. giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954:
Mặc dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, vừa kiện toàn đất nước, vừa
phải đương đầu với chiến tranh song nhà nước ta vẫn kịp thời ban hành một
số văn bản pháp luật quan trọng tạo cơ sỡ pháp lí vững chắc cho hoạt đọng
bào chữa. Điều này la tiền đề pháp lí vững chắc cho việc hình thành và phát
triển nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa- một nguyên tắc chủ đạo trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.đầu tiên đó là sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945
ghi nhận “bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho họ”.
Tiếp theo đó trong bản hiến pháp năm 1946 ghi nhận tại điều thứ 67 như sau:
“ Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
b. giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1988 (trước khi Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988 có hiệu lực):
Đây là giai đoạn nhà nước ta tiến lên xây dựng chủ ngĩa xã hội ở miền
bắc và tiến hành cách mạng dân tộc ở miền nam.cùng với quá trình thay đổi
của lịch sử hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và chế định quyền bào chữa
cũng phát triển phù hợp với bản chất dân chủ của pháp luật xã hội chủ
13



ngĩa,bảo đảm tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.trong
giai đoạn này ngành tư pháp đã thông qua một văn bản quan trọng là “Đề án
quyền bào chữa của bị cáo” tại hội nghị tư pháp toàn quốc ngày 20/6/1956 là
văn bản pháp lý đầu tiên đề cập cụ thể quyền của người bào chữa.Hiến pháp
năm 1959 ra đời một lần nữa đã ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị
cáo.điều 101 hiến pháp 1959 quy định: “quyền bào chữa của người bị cáo
được bảo đảm”.Nhiều văn bản pháp luật khác cụ thể hóa nhằm khẳng định
trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền tố tụng của người bị
buộc tội.quyền bào chữa đã được cụ thể hóa trong điều 7 luật tổ chức tòa án
năm 1960 với nội dung: “ quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.ngoài
việc tự bào chữa ra bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình”.Nhìn
chung giai đoạn này việc quy định và áp dụng chế định về quyền bào chữa
vẫn còn nhiều hạn chế do điều kiện lịch sử nước ta vừa thoát khỏi hai cuộc
chiến tranh, còn nhiều khó khăn và thách thức.
c. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay:
Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
việt nam được quốc hội thông qua ngày 28/6/1988 và có hiệu lực từ ngày
1/1/1989 đã quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự.Theo đó
điều 12 bộ luật đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản với tên gọi “ Bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo”.Hiến pháp năm 1992 ra đời là hiến pháp
của thời kì đổi mới và mở rộng dân chủ đã khẳng định tại điều 132: “ quyền
bào chữa của bị cáo được bảo đảm.bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo.....”
Bên cạnh đó điều 9 luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 cũng quy định cụ
thể: “tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo....”.Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 một lần nữa khẳng định việc bảo đảm quyền bào chữa là một
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự đồng thời mở rộng đối tượng được
hưởng quyền bào chữa là người bị tạm giữ chứ không chỉ bị can,bị cáo như
14



quy định trước đó.
1.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Cơ quan tiến hành tố tụng có ngĩa vụ bảo đảm quyền bào chữa nói
chung cho bị can, bị cáoi là một nội dung quan trọng được ghi nhận tại điều
11 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về “Nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
a. Trách nhiệm của cơ quan điều tra:
Với nhiệm vụ điều tra vụ án, cơ quan đóng vai trò rất quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án.Có thể nói một nữa kết quả của việc giải quyết vụ
án nằm ở giai đoạn điều tra, do đó bất cứ một sai sót nào từ hoạt động của
cơ quan điều tra cũng làm ảnh đến số phận pháp lý của bị can, bị cáo.Hơn
nữa kết quả từ hoạt động của cơ quan điều tra sẽ là cơ sỡ để Viện Kiểm Sát
quyết định truy tố hay không truy tố bị can ra trước tòa án và là cơ sỡ để tòa
án xem xét làm căn cứ khi xét xử đối với bị cáo.Chính vì vậy hơn lúc nào
hết quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo phải được đảm bảo ngay ở
giai đoạn này.
Trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra chủ yếu
thuộc về cơ quan điều tra, để đảm bảo quyền bào chữa, cơ quan điều tra phải
tạo những điều kiện cho người bị tạm giữ,bị can tự mình hoặc nhờ người
khác thực hiện quyền bào chữa.Để bảo đảm quyền bào chữa cơ quan điều
tra phải cấp giấy chứng nhận quyền bào chữa một cách kịp thời.Việc cấp
giấy chứng nhận người bào chữa trong trường hợp tham gia bào chữa cho bị
can la 3 ngày, đối với trường hợp bào chữa cho người bị tạm giữ là trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo
giấy tờ liên quan đến việc bào chữa.Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì
phải nêu rõ lí do.Trong các hoạt động điều tra như khám ngiệm hiện trường,
lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can....Cơ quan điều tra có nhiệm

15


vụ phải bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi để các
chủ thể thực hiện tốt quyền của mình.
b. Trách nhiệm của Viện Kiểm Sát:
Viện Kiểm Sát bảo đảm cho người bị tạm giam, tạm giữ, bị can bị cáo
thực hiện quyền bào chữa là một bộ phận hợp thành nội dung nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa của bị can bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ.
Viện Kiểm Sát phải ngăn ngừa, hạn chế và xử lí kịp thời các hành vi gây cản
trở hoặc xâm hại đến quyền bào chữa của người bị tạm giam, tạm giữ, bị can
bị cáo. Viện Kiểm sát vừa là người buộc tội, người kiểm sát việc tuân thủ
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong hoạt động đảm bảo
quyền bào chữa của bị can bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ của Viện
Kiểm Sát thể hiện trong những hoạt đông như:
Kiểm sát việc khởi tố điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong hoạt động này VKS có nhiệm vụ
tiến hành kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT và một số
cơ quan khác như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển.
Trong phạm vi thẩm quyền cảu mình VKS có quyền hủy bỏ các quyết định
không có căn cứ, trái pháp luật của cơ quan điều tra ví dụ như quyết định
khởi tố vụ án hình sự, khởi bị can...
Đảm bảo quyền bào chữa của bị can bị cáo trong giái đoạn hồ sơ được
chuyển qua Viện Kiểm Sát và giai đoạn xét xử. Khi hồ sơ được chuyển sang
VKS theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành VKS có nhiệm vụ
áp dụng mọi biện pháp do luật định để nhằm không bỏ lọt tội phạm và
không truy tố oan người vô tội. Khi vụ án được đưa ra xét xử VKS tham gia
tố tụng với tư cách là chủ thể tiến hành tố tụng. Kiểm sát viên thay mặt
VKS tiến hành kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật của Tòa Án và nếu như
khi bản án được đưa ra nếu vi phạm quyền lợi của bị cáo nói riêng thì VKS

có quyền kháng nghị đối với bản án đó.
16


c. Trách nhiệm của Tòa án
- Bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa của họ trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn xét xử đầu tiên trong quá trình
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Do đó khi xét xử Tòa Án cần phai tuân thủ
tuyệt đối những quy định của pháp luật về đảm bảo cho bị can bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của mình ở tất cả các bước xét xử. Trong quá trình
thẩm tra lại chứng cứ, nghe tranh tụng và đưa ra phán quyết đối với bị cáo
để đảm bảo việc xét xử tại phiên tòa luôn có hai bên tham gia ben buộc tội
và bên bào chữa vì vậy Tòa án phải đảm bảo cho bị cáo và người bào chữa
của họ được tham gia phiên tòa. Việc bị cáo tham gia phiên tòa là điều kiện
bắt buộc để Tòa án tiến hành xét xử và Tòa án phải đảm bảo sự có mặt cảu
bị cáo tại phiên tòa, tạo điều kiện để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của
mình dựa trên những nội dung sau:
Tòa án phải giải thích cho bị cáo các quyền và nghĩa vụ của họ, đây là
nhiệm vụ bắt buộc đối với chủ tọa phiên tòa đươc quy định tại điều 201 bộ
luật tố tụng hình sự 2003 "sau khi nghe Thư kí Tòa án báo cáo danh sách
những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước
của những người đó và giải thích cho họ biết các quyền và nghĩa vụ của họ tại
phiên tòa" đây là yếu tố để việc thực hiện quyền bào chữa có hiệu quả hơn.
Tòa án đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa và nhờ người
khác bào chữa. Theo khoản 2 điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì
"bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bão chữa tì người này
bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến cho người bào chữa".
Tại điều 218 cũng có quy đinh '' bị cáo, người bào chữa... Có quyền trình
bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình''.

Tòa án phải đảm bảo cho bị cáo đưa ra chứng cứ và yêu cầu : tại phiên
tòa bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu, Tòa án phải đảm bảo cho bị
17


cáo và người bào chữa đưa ra chứng cứ và yêu cầu. Tại điều 19 Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 quy định nguyên tắc " đảm bảo bình đẳng trước Tòa án
". Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có cả Tòa án
phải tôn trọng các quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khac
trong việc đưa ra chứng cứ và tranh luận trước tòa.
Tòa án phải đảm bảo cho bị cáo nói lời sau cùng, tại điều 220 Bộ luật
tố tụng hình sự 2003 quy định " Tòa án không được hạn chế thời gian đối
với bị cáo", đồng thời " nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm
tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải
quyết định trở lại xết hỏi ". Như vậy khi đảm bảo cho bị cáo thực hiện
quuyền bào chữa của mình, sau khi tuyên án thì Hội đồng xét xử phải tạo
những điều kiện cần thiết cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo điều này
giúp cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa ở cấp phúc thẩm.
- Tòa án phải bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm. Theo quy định tại điều 236 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 , khi có kháng
cáo hoặc kháng nghị, Tòa án phải thông báo cho bị cáo và người bào chữa
của họ. Việc thông báo này nhằm đảm bảo cho bị cáo có điều kiện chuẩn bị
những điều kiện cần thiết cho việc bào chữa khi tham gia phiên tòa phúc
thẩm. Sự có mặt của bị cáo là một yêu cầu bắt buộc tại phiên toà phúc thẩm.
Tóm lại: Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cơ quan tiến
hành tố tụng phải chú trọng thực hiện tốt hai nhiệm vụ: bảo vệ sự thật, bảo
vệ pháp luật ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, tạm
giữ, bị can, bị cáo. Chính những biện pháp bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo sẽ tạo điều kiện cho người tiến hành tố tụng, người tụng thực sự
là một quá trình đi tìm sự công bằng trên cơ sở tôn trọng quyền cơ bản của

con người.

Chương 2.
THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,
18


BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo
a. Những thành tựu về mặt lập pháp
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng và nhà nức Việt Nam đã
ban hành nhiều ngị quyết và văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện
nhà nước và pháp luật.Trước hết phải kể đền bộ chính trị ban hành ngị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 nhằm đề ra mục tiêu cải cách tư pháp nâng
cao chất lượng của công tác tư pháp và ngị quyết số 49/NQ/TW ngày
02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.Một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp mà 2 văn bản trên đề cập
đó là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó
nhấn mạnh hơn nữa đến việc mở rộng quyền của luật sư bào chữa và bị can,
bị cáo.Các thủ tục tố tụng tại phiên tòa phải mở rộng theo hướng tranh tụng,
không chỉ thuần túy xét hỏi như trước đây. Việc phán quyết của tòa án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sỡ xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa và
các bên có liên quan.Đây thực sự là một định hướng đúng đắn của Đảng về
công tác tư pháp.
Việc ban hành bộ luật tố tụng hình sự(sửa đổi) vào năm 2003 đã tạo cơ
sỡ pháp lý vững chắc trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nói chung
và bảo đảm quyền bào chữa nói riêng.Nhiều điều luật liên quan đến bảo đảm
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được sữa đổi, bổ sung tương đối hoàn

chỉnh và đầy đủ, tạo cơ sỡ vững chắc cho các chủ thể tham gia tố tụng thực
hiện đầy đủ các quyền và ngĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Cụ
thể là các quy định về người bào chữa và các quyền của người bào chữa

19


được quy định rõ ràng hơn, ví dụ như quy định mở rộng thời điểm người
bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, người bào
chữa được quyền thu thập các đồ vật, tài liệu liên quan đến việc bào
chữa....các quy định này đã tạo thuận lợi cho người bào chữa tham gia tố
tụng thực hiện nhiệm vụ bào chữa có hiệu quả.Luật luật sư ra đời năm 2006
đã ghi một dấu mốc quan trọng về vai trò của đội ngũ luật sư trong hoạt
đọng tố tụng nói chung và hoạt động bào chữa nói riêng và điều đó tiếp tục
được khẳng định tại luật luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012.Trên
cơ sỡ đó, ngày 12/5/2009, tổ chức luật sư toàn quốc được thành lập với tên
gọi Liên đoàn luật sư Việt Nam, là đại diện của tất cả đoàn luật sư địa
phương trên toàn quốc.Một văn bản được coi là có ý ngĩa nhân bản cao đó là
luật trợ giúp pháp lý năm 2006. Đạo luật này là văn bản duy nhất quy định
về quyền trợ giúp pháp lý miễn phí đối với người ngèo, người già neo đơn,
người tàn tật, trẻ mồ côi.Theo đó người bị buộc tội nếu thuộc một trong các
trường hợp trên sẽ được hưởng chính sách được bào chữa miễn phí bởi trợ
giúp viên pháp lý của các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.Ngoài ra,
cùng với sự ra đời của ngị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-32003 của ủy ban thường vụ Quốc Hội về bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoaat động tố tụng hình sự gây ra đã thực
sự có ý ngĩa trong việc bảo đảm trọn vẹn hơn quyền lợi cuản người bị buộc
tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng.Bên cạnh đó còn có thông tư liên
tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC.hướng
dẫn thi hành một số quy định của ngị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11
tiếp tục là bước hoàn thiện rất quan trọng về mặt pháp luật trong lĩnh vực

này.Tóm lại với hệ thống các văn bản pháp lý vững chắc các quyền tố tụng
của người bị buộc tội nói chung và quyền có người bào chữa nói riêng ngày
càng được cũng cố và bảo đảm.
b. Những kết quả đạt được từ hoạt động áp dụng pháp luật:
20


b.1. Trong công tác điều tra, truy tố, xét xử:
Thời gian qua, các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương và địa
phương đã đánh giá, nhìn nhận đúng đắn và tạo điều kiện cho các luật sư
bào chữa thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Sự tham gia của luật sư trong nhiều vụ án không những bảo
đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo mà giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng phát hiện, sữa chữa những thiếu sót, làm rõ sự khách quan, góp
phần đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, từ sau khi việc xét xử được thực hiện theo
nguyên tắc xét hỏi kết hỏi với tranh tụng theo tinh thần của Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định
quyết tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động của luật sư là hoàn thiện
cơ chế để bảo đảm luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, nhận
thuwac về chức năng tố tụng của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án và đội gũ luật sư đã có những bước chuyển biến tích cực. Thực tiễn thời
gian qua cho thấy, trong các vụ án có sự tham gia của luật sư, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án thường cẩn trọng hơn trong việc thực hiện
nhiệm vụ. Trình tự, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử được tuân thủ nghiêm
chỉnh, góp phần hạn chế được nhiều sai sót, phòng ngừa các vi phạm như
mớm cung, bức cung, dùng nhục hình...Khi được tham gia tranh tụng dân
chủ, bình đẳng tại phiên tòa, các luật sư bằng các biện pháp được pháp luật
quy định, tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư

cẩn trọng và có trách nhiệm hơn trong việc chuẩn bị quan điểm, luận cứ báo
chữa và tranh luận với Kiểm sát viên, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh
tụng tại phiên tòa, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng
tâm của cải cách tư pháp.
Hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị
21


can, bị cáo đã phần nào được phản ánh qua thực tiễn công tác xét xử các vụ
án hình sự trong thời gian vừa qua, cụ thể là:
- Tiếp tục triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của
Bộ chính trị, các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp đã thực hiện
việc đổi mới một bước thủ tuch xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và theo tinh thần cải
cách tư pháp. Tòa án đã tạo điều kiện, bảo đảm cho những người tiến hành
tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ; luật sư và
những người tham gia tố tụng được trình bày hết ý kiến của mình; những
câu hỏi của hội đồng xét xử và của Kiểm sát viên thể hienj khách quan hơn;
việc phán quyết cảu Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa và các chứng cứ có trong hồ sơ.Trong công tác xét xử, hình phạt mà các
Tòa án đã tuyên phạt đối với các bị cáo đã thể hiện được chính sách khoan
hồng đối với người tự thú,thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, ăn năn
hối cải đã đề cao được tính giáo dục và phòng ngừa chung, đáp ứng được
yêu cầu trong tình hình hiện nay.
- Bên cạnh đó, hiệu quả công tác bào chữa thể hiện rõ qua phán quyết
của Tòa án so với đề xuất của người bào chữa. Trong năm 2008, tủ lệ các vụ
án bị kháng cáo, kháng nghị đã giảm 6% so với năm 2007. Trong năm 2008,
các Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố không phạm tội đối với 53 trường hợp,
15 trường hợp miễn trách nhiệm hính sự, 378 trường hợp cho hưởng án treo,
và nhiều trường hợp Tòa án cho đổi tội danh nhẹ hơn. Trong các trường hợp

trên hầu hết đều có sự tahm gia của người bào chữa.

22


b.2. Trong hoạt động bào chữa:
Hoạt động của luật sư bào chữa gắn liền với việc mở rộng dân chủ, đã
trở thành một nếp sinh hoạt mới, một nhân tố tích cực của quá trình lành
mạnh hóa xã hội, đổi mới cơ chế quản lý kiinh tế, thực hiện quản lý xã hội
bắng pháp luật, trên cơ sở tôn trọng quyền con người, quyền công dân.
Trình độ pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
ngày cáng phát triển. Đội ngũ người bào chữa, đặc biệt là lực lượngluật sư ở
nước ta đã và đang từng bước được nâng cao, bước đầu đáp ứng yêu cầu
chuyên nghiệp hóa hoạt động luật sư. Số luật sư có trình độ cử nhân luật trở
lên được nâng từ 59%(năm 1989) lên 96,95%(năm 2008). Số luật sư đã qua
đào tạo nghề luật sư chiếm 65,8% tổng số luật sư của cả nước. Lực lượng
này đã góp không nhỏ trong hoạt động bảo vệ sự công bằng của pháp luật,
cũng như bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân khi tham gia
vụ án hình sự.
Về phía bị can, bị cáo đã nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của bản
thân và của người bào chữa. Điều này cho phép họ tự mình hoặc nhờ người
khác bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích lợp pháp của mình.
Thực tế cho thấy, số vụ án hình sự có sự tham gia của người báo chữa
ngáy càng tăng và đạt hiệu quả nhất đinh. Kết quả khảo sát của Bộ tư pháp
cho kết quả: lĩnh vực có luật sư tham gia thường xuyên nhiều nhất là lĩnh
vực hình sự, chiếm trên 43,9% so với các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự,
kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình. Số liệu này cho thấy, nhận thức của các
cơ quan tiếm hành tố tụng về tầm quan trọng của hoạt động bào chữa ngày
càng rõ nét. Chỉ tính riêng trong hoạt động xét xử cũng cho thấy, tỷ lệ vụ án
hình sự có sự tham gia của luật sư bào chữa trong tổng số vụ án được thụ lý

và giải quyết là ngày càng tăng.
Hoạt động bào chữa cũng có những tính hiệu khởi sắc; đặc biệt là trong
hoạt động luật sư. Tính đến đầu năm 2010, số lượng luật sư có chứng chỉ
23


hành nghề trên phạm vi cả nước là 5.978 luật sư, tăng gần gấp đôi số lượng
luật sư của cả nước vào thời điểm năm 2004 là 3.149 luật sư. Kết quả khảo
sát cho thấy hiện nay, một tỉ lệ rất lớn các luật sư là có bằng cử nhân, chiếm
92.23%. Ỉ lệ luật sư có bắng thạc sĩ, tiến sĩ còn rất thấp. Trong tổng số hơn
5.000 luật sư thì số luạt sư đã qua đào tạo nghề cũng chiếm tỷ lệ khá lớn
65,8% tổng số luật sư của cả nước. Theo đánh giá của Bộ tư pháp, hoạt động
của các đoàn luật sư cả đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp
lý nói chung và nhu cầu bào chữa của người bị buộc tội trong vụ án hình sự
nói riêng; đóng góp đáng kể cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo và các đương sự khác; đồng thời góp phần giúp Tòa án và các
cơ quan tiến hành tố tụng khác giải quyết vụ án khách quan, chính xác và
đúng pháp luật, góp phần giữ vững và tăng cường pháp chế.
2.2. Những bất cập trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo
a. Những bất cập về mặt quy phạm:
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những ghi nhận và bổ
sung tiến bộ về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, tuy nhiên vẫn
còn tồn tại những vướng mắc nhất định. Điều này dẫn đến việc quyền bào
chữa của bị can, bị cáo chưa được đảm bảo trọn vẹn đồng thời ảnh hưởng
đến hậu quả trong việc thực thi nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự qua
nghiên cứu và tìm hiểu người viết nhận thấy những khiếm khuyết trong quy
định của bộ luật tố tụng hình sự và một số văn bản pháp luật có liên quan tập
trung hầu hết trong việc quy định về các quyền tố tụng của người bào chữa
khi tham gia vụ án hình sự.

Một là: Việc pháp luật tố tụng hình sự chưa ghi tranh tụng là một
nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong tố tụng hình sự dẫn đến việc chưa
phân định rõ chức năng buộc tội bào chữa và xét xử giữa chủ thể thuộc các
bên và tòa án đồng thời dẫn đến tình trạng chưa đúng đắn vai trò của người
24


bào chữa trong tố tụng hình sự gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi
ích chính đáng của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Hai là: Các quy định pháp luật chưa thống nhất và toàn diện nên chưa
hình thành được cơ chế pháp lý đủ mạnh để có thể đảm bảo cho luật sư
được tham gia các giai đoạn tố tụng một cách thuận lợi đảm bảo thuận tiện
biện pháp thực tế để luật sư thực hiện có hiệu quả quyền và nghĩa vụ của
mình. Cụ thể luật sư còn gặp khó khăn trở ngại khi tham gia tố tụng từ giai
đoạn điều tra như việc cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận tham
gia tố tụng chậm đòi hỏi nhiều giấy tờ thủ tục việc luật sư tự thu thập các
chứng cứ, đồ vật, tài liệu liên quan đến việc bào chữa chữa thực hiện được
trên thực tế mà chủ yếu vẫn phải phụ thuộc vào hồ sơ vụ án do cơ quan điều
tra lập.
Ba là: Quy định về việc từ chối người bào chữa trong trường hợp bào
chữa bắt buộc theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 còn chưa
rõ ràng. Trường hợp bị can, bị cáo bị khởi tố về tội theo khung hình phạt cao
nhất là tử hình họ là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất tinh thần thì ngay cả khi họ khong lựa chọn người bào
chữa thì các cơ quan tố tụng vẫn phải cử người bào chữa cho họ. Nếu họ từ
chối bào chữa thì hội đồng xét xử có trách nhiệm giải thích cho họ biết
người bào chữa sẽ giúp gì cho họ và chi phí cho người bào chữa sẽ do Tòa
án thanh toán.
Bốn là: Quy định về lựa chọn thay đổi về lựa chọn người bào chữa
trong trường hợp bào chữa bắt buộc còn gây nhiều tranh luận theo quy định

tại khoản 2 Điều 57 bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 trong trường hợp bào
chữa bắt buộc theo quy định tại điểm a,b khoản 2 điều này thì: “ Bị can, bị
cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa’’ Việc quy định trên đã dẫn đến xuất hiện nhiều qua
điểm khác nhau. Hầu hết các quan điểm đều cho rằng việc quy định trên là
25


×