Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thực trạng thực hiện luật hôn nhân và gia đình ở xã liên thủy, huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.25 KB, 26 trang )

1

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
Đề tài:
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH Ở XÃ LIÊN THỦY, HUYỆN LỆ THỦY,
TỈNH QUẢNG BÌNH

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Lê Thị Nga

Sinh viên thực hiện:
Trần Thị Hiền
Lớp: Luật B2-K2012
Huế, 4/2015


2

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cám ơn sự dạy dỗ, hướng dẫn tận tình và đầy trách
nhiệm của cô giáo Lê Thị Nga trong suốt quá trình làm bài niên luận này.
Em xin cám ơn UBND xã Liên Thủy và Toà án nhân dân huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thu thập
số liệu để hoàn thành bài niên luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót khi thực hiện bài niên luận này, kính mong cô giáo, bạn bè đóng góp


ý kiến để bài được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn.
Lệ Thủy, tháng 4 năm 2015
Sinh viên

Trần Thị Hiền


3

MỤC LỤC


4

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người,
một thiết chế văn hóa –xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển
trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và
giáo dục... giữa các thành viên. Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển của xã hội, nó là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia
đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có
gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được.
Chính vì vậy muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình
cộng lại thì mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì
xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình”.
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình, không thể có con người
sinh ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng
rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân, quan

tâm đến việc củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình là yêu cầu có tính tất yếu
thường xuyên. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta chuyển sang giai
đoạn mới, thời kỳ cả nước tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chủ động hội nhập kinh tế và khu vực nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Trong những năm qua công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện kinh tế thị trường đã đạt
được những kết quả to lớn: kinh tế ngày một tăng trưởng, chính trị ổn định,
đời sống văn hóa của người dân được nâng lên, an ninh quốc phòng được giữ
vững đã tác động trực tiếp và toàn diện đến gia đình Việt Nam. Gia đình văn
hóa Việt Nam đang có những biến đổi theo chiều hướng tích cực, tình cảm và


5

ý thức xây dựng gia đình của mỗi cá nhân được nâng cao. Đặc biệt là lợi ích
kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần được nâng lên, cải thiện một cách rõ
rệt. Quan hệ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa... của các gia đình với cộng
đồng và thiết chế ngoài xã hội nhiều hơn và cũng mang tinh thần bình đẳng
hơn về nghĩa vụ và quyền lợi. Kết cấu và quy mô gia đình có chiều hướng thu
hẹp để hình thành các gia đình hạt nhân.
Song bên cạnh đó nước ta vẫn còn trong tình trạng là một nước nghèo,
kém phát triển. Mặt trái của nền kinh tế thị trường tác hại không nhỏ đến gia
đình và xã hội, sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng lên. Định hướng giá
trị cuộc sống và quan hệ tình cảm ở một số gia đình bị coi nhẹ làm phát sinh
những vấn đề mới trong quan hệ gia đình, một số yếu tố về gia đình truyền
thống bị phá vỡ; quan hệ tình cảm giữa cha mẹ và con cái, quan hệ giữa vợ
chồng ngày càng ít được chú trọng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các thế hệ,
giữa vợ chồng ngày một tăng lên dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình,ngoại
tình, ly hôn ngày càng tăng... Bên cạnh đó một số cấp ủy, chính quyền địa

phương, đoàn thể còn chưa thật sự chú trọng đến lĩnh vực hôn nhân và gia
đình, nếu có cũng chỉ là hình thức, đó chính là những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng vi phạm các quan hệ về đạo đức và làm cho Luật hôn nhân và gia
đình chưa thật sự đi vào cuốc sống một cách sâu rộng. Đây cũng là lý do em
chọn đề tài Thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình ở xã Liên Thủy,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình làm niên luận.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và
gia đình ở xã Liên Thủy trong những năm gần đây. Kết quả nghiên cứu sẽ là
tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với những người nghiên cứu vấn đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu việc thực hiện Luật hôn nhân và gia
đình tại xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.


6

- Phạm vi nghiên cứu: thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình tại
xã Liên Thủy.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài này
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia
đình ở địa bàn xã Liên Thủy, từ đó đóng góp một số ý kiến cũng như giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện Luật hôn nhân và gia đình
tại địa phương. Thông qua đó, em xác định nhiệm vụ của đề tài bao gồm:
- Hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000.
- Thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tại xã
Liên Thủy.
- Một số ý kiến, giải pháp để đưa Luật hôn nhân và gia đình đi sâuvào
đời sống người dân hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra xã hội:
Thông qua việc trao đổi, phỏng vấn các lãnh đạo trực tiếp, tìm hiểu và
thu thập số liệu từ Tòa án, Hội phụ nữ và cán bộ tư pháp.
- Phương pháp quan sát:
Tìm hiểu cuộc sống sinh hoạt gia đình ở xung quanh địa bàn mình sinh
sống, cụ thể là xã Liên Thủy, từ đó có cái nhìn khách quan giúp cho việc
nghiên cứu đề tài sát với thực tế hơn.
- Phương pháp phân tích quy phạm và phân tích số liệu thứ cấp:
Tuy việc áp dụng những phương pháp chưa được nhuần nhuyễn và
nhanh nhạy nhưng cũng đã giúp em hoàn thành đề tài của mình.
6. Bố cục
Đề tài gồm có 3 phần :
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung: Gồm có 3 chương:


7

Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện Luật hôn nhân và
gia đình
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm thực hiện Pháp luật
1.1.2. Khái niệm Hôn nhân và gia đình
1.1.3. Khái niệm thực hiện Luật hôn nhân và gia đình
1.2. Vai trò của hoạt động thực hiện Luật hôn nhân và gia đình đối với
sự phát triển của xã huyện
Chương 2: Thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình ở địa bàn xã
Liên Thủy, Huyện Lệ Thủy
2.1. Đánh giá thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình ở địa bàn

xã Liên Thủy, Huyện Lệ Thủy
2.1.1. Tình hình kết hôn
2.1.2. Tình hình ly hôn
2.1.3. Các quan hệ khác
2.2. Một số ý kiến, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật hôn
nhân và gia đình tại xã Liên Thủy
C. Phần kết luận
Trên cơ sở những hiểu biết và kiến thức có được từ truyền dạy của thầy
cô, với khả năng và trình độ có hạn cùng với thời gian nghiên cứu còn hạn
chế nên việc thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Kính mong sự chỉ bảo của cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn.


8

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
THỰC HIỆN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
* Định nghĩa pháp luật:
“Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình’’.
* Định nghĩa thực hiện pháp luật:
“Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực
tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”.
Căn cứ vào tính chất cuả hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp
lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:

- Tuân thủ pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.
+ Ví dụ: Người điều khiển phương tiện không vượt đèn đỏ khi tham gia
giao thông đường bộ.
- Thi hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
+ Ví dụ: Công dân nam đủ mười tám tuổi trở lên phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự, hoặc người kinh doanh phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế...
- Sử dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình ( thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép).


9

Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể
thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của
mình chứ không bị bắt buộc phải thực hiện.
+ Ví dụ: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo...
- Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc
tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm
phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
+ Ví dụ: Đăng kí kết hôn phải làm tờ khai có xác nhận của chính quyền
địa phương về nhân thân của người kết hôn.
1.1.2. Khái niệm Hôn nhân và gia đình
Theo khoản 6 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 định nghĩa
khái niệm hôn nhân như sau:
“Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”.

Theo khoản 10 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 định nghĩa
khái niệm gia đình như sau:
“Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình về
thân nhân và về tài sản.
* Một số khái niệm khác liên quan
Theo điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000,các từ ngữ dưới đây
được hiểu nghĩa như sau:
+ Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.


10

+ Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết
hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định.
+ Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ
tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật.
+ Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với
nguyện vọng của họ.
+ Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ
ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.
+ Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng.
+ Cưỡng ép ly hôn là hành vi buộc người khác phải ly hôn trái với
nguyện vọng của họ.
1.1.3. Thực hiện Luật hôn nhân và gia đình

Thực hiện Luật hôn nhân và gia đình là quá trình hoạt động có mục đích
mà các chủ thể pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình bằng hành vi của
mình thực hiện các quy định luật hôn nhân và gia đình trong thực tế đời sống.
1.1.4. Vai trò của hoạt động thực hiện Luật hôn nhân và gia đình đối
với sự phát triển của xã hội
Hôn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển
cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người. Hôn nhân và gia đình biểu hiện mối
quan hệ xã hội giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên
trong gia đình.
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân và gia đình cũng như mọi
quan hệ xã hội khác bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị xã hội, mọi sự
điều chỉnh của pháp luật đều nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp này.Pháp
luật xã hội chủ nghĩa phản ánh ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, nhằm bảo vệ trước hết là quyền lợi của họ.


11

Ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám và ở miền Nam trước ngày giải
phóng, chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến – tư sản bảo vệ lợi ích của phong
kiến, tư sản, duy trì sự bất công, bất bình đẳng trong quan hệ hôn nhân và gia đình
giữa người giàu và người nghèo, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con. Sau
cách mạng tháng Tám và đặc biệt là sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền
Bắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam trở
thành công cụ của Nhà nước Công–Nông thực hiện nhiệm vụ xóa bỏ những tàn
tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân và
gia đình mới xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Sau nhiều năm thi hành, Luật hôn nhân và gia đình đã đạt được một số
thành tựu đáng kể, có tác động tích cực đến việc đề cao vai trò của gia đình,
giữ gìn và phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt

Nam. Luật đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và
gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành
viên trong gia đình, bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của họ nhằm xây dựng gia
đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Trong công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành, phổ biến giáo dục
pháp luật Luật hôn nhân và gia đình cũng đạt được nhiều kết quả tích cực,
đảm bảo Luật thực sự đi vào cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp
hành pháp luật hôn nhân và gia đình của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền và nhân dân. Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình cũng tồn tại
nhiều mặt hạn chế như chưa tạo ra cơ chế pháp lý hiệu quả trong điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân và gia đình vốn có nhiều đặc thù so với các quan hệ dân
sự khác. Một số quy định chưa thực sự phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của
quan hệ dân sự - quan hệ tư. Luật thiếu quy định cho phép xác lập chế độ tài
sản của vợ chồng theo thoả thuận. Một số quan hệ về hôn nhân và gia đình
phát sinh trong thực tiễn chưa được Luật quy định hoặc quy định không cụ
thể, như: nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn; ly
thân; mang thai hộ; kết hôn của người đồng giới…


12

KẾT LUẬN
Như vậy thông qua pháp luật, nhà nước bảo vệ lợi ích của gia đình, của
xã hội đồng thời pháp luật cũng quy định mối quan hệ hôn nhân và gia đình
phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật. Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và
bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho
cách ứng xử, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia
đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam
nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.



13

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở ĐỊA BÀN XÃ LIÊN THỦY,
HUYỆN LỆ THỦY
2.1. Đánh giá thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình ở địa
bàn xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy
Liên Thủy là một xã thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Đây là một
trong những xã phát triển nhất của huyện Lệ Thủy, với dân số có khoảng
8118 người, cơ cấu dân số trẻ, trong đó lực lượng lao động trẻ từ 15 đến 35
tuổi chiếm đa số. Cùng với sự phát triển kinh tế ở xã, đời sống người dân cải
thiện hơn so với trước, họ nhận thức được sâu sắc hơn về vị trí của mình đối
với gia đình và xã hội. Các thành viên trong mỗi gia đình có quan hệ bình
đẳng, thương yêu và có trách nhiệm với nhau. Đối với xã hội thì xây dựng tốt
các quan hệ với cộng đồng và tổ chức bên ngoài gia đình.Trình độ am hiểu
pháp luật của đại đa số bộ phận người dân ở xã ngày càng được nâng lên, từ
đó đã hình thành trong họ ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật nói chung,
trong đó có pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, do kinh tế mới trên đà phát triển,mặt trái của nền kinh tế thị
trường tác động làm cho một số người dân có xu hướng chạy theo lợi ích cá
nhân đã gây mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, xã hội, những quan hệ xã hội
mà Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh không được họ tôn trọng. Tệ nạn xã
hội gia tăng, thêm vào đó trách nhiệm nuôi dạy, giáo dục con cái ở lứa tuổi
thành niên không được coi trọng. Ngoại tình, các mối quan hệ không rõ ràng
bên ngoài phá vỡ hạnh phúc của một gia đình và đang dần phá vỡ các quan hệ
hôn nhân và truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam nói chung. Vì cơ cấu
dân số trẻ, nam nữ kết hôn khi tuổi đời cũng như kinh nghiệm sống và kiến
thức về gia đình, chăm lo con cái còn hạn chế, không có sự chỉ bảo, giúp đỡ



14

của những người lớn tuổi nên khó tránh khỏi những mâu thuẫn trong quan hệ
vợ chồng. Một bộ phận dân cư, nhất là tầng lớp trẻ có lối sống quá hiện đại,
xem nhẹ giá trị tình cảm gia đình, tiêu chí lựa chọn bạn đời còn mang tính
thực dụng,kết hôn không dựa trên cơ sở tình yêu nên khi gặp khó khăn họ dễ
dàng buông xuôi, không nghĩ đến hậu quả của việc ly hôn sẽ ảnh hưởng đến
con cái như thế nào.
Trước thực trạng trên, yêu cầu đặt ra không chỉ cho xã Liên Thủy mà cả
huyện Lệ Thủy cần có sự quan tâm thích đáng, có sự phối hợp chặt chẽ, đồng
bộ, kịp thời giữa các ban ngành trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật, đặc biệt là Luật hôn nhân và gia đình để Luật thực sự đi sâu vào
cuộc sống người dân nơi đây.
2.1.1. Tình hình kết hôn
Theo điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định:
“Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
- Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định điều kiện kết hôn:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được
ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy
định tại Điều 10 của Luật này.
Qua số liệu thống kê của cán bộ tư pháp UBND xã Liên Thủy, huyện Lệ
Thủy từ 01/01/2011 đến 01/01/2015 có tổng cộng 259 cặp đăng ký kết hôn,
cụ thể như sau:



15

Bảng 1: Thống kê số cặp kết hôn
Năm đăng ký kết hôn

Số cặp đăng ký kết hôn

2011

68

2012

57

2013

69

2014
65
(Nguồn: theo số liệu thống kê của cán bộ tư pháp UBND xã Liên Thủy,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ 01/01/2011 đến 01/01/2015).
Bên cạnh đó vẫn còn tình trạng không đăng ký kết hôn, đăng ký kết hôn
trễ. Giải thích lý do cho việc này, cán bộ tư pháp xã Liên Thủy cho rằng do
một số ít người dân trong xã còn chưa am hiểu pháp luật, chưa thấy rõ hậu
quả của việc không đăng ký kết hôn. Mặt khác còn chịu ảnh hưởng của tư
tưởng cũ cho rằng chỉ cần tổ chức lễ cưới long trọng là đủ nên không cần
đăng ký kết hôn.Một bộ phận trẻ chưa đủ tuổi kết hôn có lối sống bừa bãi,
quan hệ trước hôn nhân, có thai buộc phải cưới. Điều này đã nói lên việc

tuyên truyền, giáo dục pháp luật của xã Liên Thủy chưa sâu rộng, nội dung cụ
thể của Luật hôn nhân và gia đình chưa thật sự đến với người dân trong xã.
2.1.2. Tình hình ly hôn
Theo Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội hết sức phức tạp, vì nó ảnh hưởng đến
tình cảm vợ chồng, lợi ích của con cái, của gia đình và xã hội. Theo số liệu
thống kê của Toà án huyện Lệ Thủy, số đơn xin ly hôn vẫn cao và có chiều
hướng gia tăng. Trong đó chiếm phần lớn số đơn gửi tới Toà án là lớp trẻ và
tỷ lệ đứng đơn chiếm đa số là phụ nữ, cụ thể như sau:


16

Bảng 2: Thống kê số vụ ly hôn
Năm

Số đơn Tòa án nhận

Số vụ Toà án thụ lý

2011

163

71

2012


140

97

2013

157

62

2014
173
80
(Nguồn: Theo số liệu thống kê của Toà án huyện Lệ Thủy từ 01/01/2011
đến 01/01/2015)
Qua bảng thống kê số liệu ta thấy số đơn ly hôn gửi tới Toà án huyện
Lệ Thủy ngày một tăng, đây có lẽ là một thực trạng báo động cho các cấp
chính quyền ở huyện.Tổng số đơn Toàn án nhận là 633, tổng số vụ Toàn án
thụ lý là 310.
Để hạn chế việc xin ly hôn khi mâu thuẫn giữa vợ và chồng chưa đến
mức trầm trọng, Toà án đã phân đơn nếu hai vợ chồng cùng địa chỉ thì chuyển
đơn về xã, cụ thể ở xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy như sau :
- Chuyển về xã 27 đơn.
- Xã hoà giải chuyển lại về toàn 16 đơn, số đơn còn lại xã hoà giải
thành, gia đình lại đoàn tụ với nhau.
(Nguồn: Dựa theo báo cáo tổng kết của cán bộ tư pháp UBND xã Liên
Thủy, huyện Lệ Thủy năm 2012).
Qua số liệu ở trên, so với lượng đơn nhận 310/633, chiếm khoảng 48%
ta thấy công tác hoà giải tại xã vô cùng quan trọng, giúp các bên tự giải quyết
các mâu thuẫn chưa tới mức trầm trọng, cứu vãn cuộc hôn nhân bởi có những

nguyên nhân không đáng để người trong cuộc đi đến ly hôn. Có thể quyết
định ly hôn được đưa ra trong cơn nóng giận, bực tức, ức chế của vợ hoặc
chồng, cũng có thể xuất phát từ những nguyên nhân trẻ con của những cặp vợ
chồng chưa tới tuổi trưởng thành…Mặt khác, phía sau mỗi cuộc ly hôn là
những hậu quả, nhiều khi rất nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của


17

những người trong cuộc và con cái họ. Đó là áp lực của việc một mình kiếm
sống, một mình nuôi con, là “chấn thương tinh thần” hậu ly hôn…Với cuộc ly
hôn từ những nguyên nhân chưa đủ “độ” và hơn hết, tình cảm vợ chồng giành
cho nhau chưa hẳn đã nguội lạnh thì những hậu quả ấy là không đáng có. Khi
đó hoà giải ở cơ sở là cần thiết, và công tác hoà giải ở xã Liên Thủy đã góp
phần không nhỏ trong việc rút ngắn tỷ lệ ly hôn của huyện Lệ Thủy như số
liệu thống kê ở trên.
Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng ly hôn gia tăng:
Ông cha ta có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, từ ý
nghĩa của câu nói này mà rất nhiều cặp vợ chồng đã thường xuyên vun đắp
hạnh phúc gia đình, đôi bên nhường nhịn lẫn nhau trong từng lời ăn tiếng nói,
cung cách ứng xử hàng ngày. Tuy nhiên bên cạnh những gia đình ấm êm hoà
thuận, do tác động, ảnh hưởng của cơ chế thị trường, sự thay đổi quan niệm
về giá trị cuộc sống hôn nhân mà hiện nay nhiều gia đình bị rạn nứt, tan vỡ
dẫn đến tình trạng ly hôn không ngừng gia tăng.
Ngoài các tác nhân khách quan đem lại như: cờ bạc, rượu chè, ngoại
tình, bạo lực gia đình… thì nguyên nhân hàng đầu vẫn là do các cặp vợ chồng
bất đồng trong tính cách, quan điểm, suy nghĩ. Thực tế chứng minh, đã không
ít cặp vợ chồng trước kết hôn do không tìm hiểu kỹ về tính tình, sở thích, thói
quen, nghề nghiệp, hoàn cảnh xuất thân của bạn đời…; không lường trước
được hậu quả cũng như định liệu những xung đột có thể xảy ra trong đời sống

vợ chồng nên khi về chung sống đã nảy sinh mâu thuẫn, xích mích.Thêm vào
đó, nhận thức của xã hội về bình đẳng trong gia đình cũng chưa thật đầy đủ.
Nhiều người đàn ông vẫn mang tư tưởng đưa tiền về cho vợ con, đảm bảo cho
vợ con có cuộc sống đầy đủ, sung túc là đã hoàn thành trách nhiệm của người
chồng, người cha. Họ coi việc kiếm tiền là quan trọng hơn cả nên phó mặc
cho vợ ở nhà với nỗi cô đơn, với công việc nội trợ và chăm sóc con cái.
Không chỉ đàn ông, có những người phụ nữ vì mải mê công danh, sự nghiệp,


18

vui chơi, làm đẹp mà quên mất vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình,
dần dần dẫn tới sự mất cân bằng các giá trị trong hôn nhân, làm cho mối quan
hệ gia đình bị lỏng lẻo, tình cảm vợ chồng bị mai một.
Qua báo cáo tổng kết của Toàn án nhân dân huyện Lệ Thủy cũng như
qua cuộc khảo sát, trò chuyện với cán bộ tư pháp xã Liên Thủy có nhiều lý do
dẫn đến ly hôn, trong đó lý do chủ quan chiếm phần lớn của các đương sự.
Cán bộ tư pháp xã kể cho tôi nghe một câu chuyện khiến tôi phải suy ngẫm:
Chị Nguyễn Thị L, thôn Quy Hậu, xã Liên Thủy, 26 tuổi kết hôn với anh Trần
Trung N, thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, 28 tuổi. Hai anh chị yêu nhau bốn
năm mới đi đến kết hôn dưới sự chúc phúc của hai gia đình. Sau hai năm kết
hôn chị L vẫn chưa có con, ở những vùng quê như vậy người ta cho rằng chị
bị hiếm muộn không thể sinh con, anh N lại là con trai một, vợ chồng anh chị
mong con một phần thì bố mẹ anh N lại nôn nóng mười phần vì lo không có
cháu trai nối dõi.Mẹ anh N bảo anh ra ngoài kiếm con riêng, chị L biết được
nên đã xin ly hôn vì chị cũng không thể sống mà áp lực đè nặng lên vai mỗi
ngày như vậy. Thiết nghĩ có những lý do ly hôn khiến con người ta phải suy
ngẫm,hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu, có thời gian tìm hiểu nhau kĩ càng
như vậy, chỉ vì tư tưởng, suy nghĩ lạc hậu của một bộ phận người dân khiến
gia đình tan vỡ trong khi tình cảm của anh chị vẫn chưa nguội lạnh.

Ngoài nguyên nhân như câu chuyện ở trên, số đơn xin ly hôn từ Toàn án
huyện Lệ Thủy chuyển về xã Liên Thủy tập trung vào các nguyên nhân sau:
- Ngoại tình (từ chồng hoặc từ vợ)
- Bạo lực gia đình (xuất phát từ người chồng, cờ bạc, say xỉn, đánh đập
vợ con)
- Mâu thuẫn về kinh tế
- Người vợ không sinh được con
- Cưỡng bức kết hôn
- Một bên bị truy cứu trách nhiệm hình sự
- Các nguyên nhân khác


19

2.1.3. Các quan hệ khác
a. Về quan hệ giữa vợ và chồng
Quan hệ giữa vợ và chồng đó là quyền và nghĩa vụ về nhân thân, là
quyền và nghĩa vụ về tài sản được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000.Quan hệ vợ và chồng được xác lập từ khi hai bên nam và nữ được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận kết hôn. Mục đích kết hôn là
nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững, song không phải gia đình nào
cũng đạt được. Ở địa bàn xã Liên Thủy, đa phần các gia đình có ý thức trong
việc xây dựng, gìn giữ hạnh phúc thì vẫn còn một số gia đình không biết vun
vén hạnh phúc hoặc tự huỷ hoại sự bình yên, hoà thuận của chính gia đình
mình vì những nguyên nhân không đáng có. Mặc dù Đảng và nhà nước ta đã
có nhiều chính sách và biện pháp tạo điều kiện cho người phụ nữ được bình
đẳng với nam giới nhưng vẫn có những người chồng mang trong mình tư
tưởng cũ, lạc hậu, họ coi thường vợ, coi mọi trách nhiệm chăm sóc con cái là
trách nhiệm của người phụ nữ và phải có nghĩa vụ phục tùng chồng. Vẫn còn
tư tưởng vợ lẽ, vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng… Đó là những nguyên

nhân khiến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, gia đình tan vỡ.
b. Về quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Nếu quan hệ giữa vợ và chồng là quan hệ pháp lý hôn nhân thì quan hệ
giữa cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương, đi đôi với
trách nhiệm là nghĩa vụ. Quan hệ cha, mẹ và con cái xác lập sẽ được pháp luật
và cộng đồng thừa nhận, là cơ sở để thực hiện tốt những quy định về nghĩa
vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con cái, nghĩa vụ về tài sản…Việc tồn
tại quan hệ tình cảm ngoài quan hệ hôn nhân hoặc ngoài thời kỳ hôn nhân là
một thực tế của xã hội từ xưa cho đến nay. Chính vì vậy mà pháp luật Hôn
nhân và gia đình đã dự liệu bằng việc đưa ra khung pháp lý trong việc xác
định cha, mẹ và con cái. Qua thực tế cuộc sống và trên cơ sở các luận cứ khoa
học, Luật hôn nhân và gia đình cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy


20

định khá chặt chẽ và cụ thể về vấn đề xác định cha, mẹ cho con. Tuy nhiên
trên thực tế việc nhận thức và áp dụng vẫn thiếu thống nhất. Thực trạng xác
định cha, mẹ và con cái ở xã Liên Thủy như sau:
Bảng 3: Thực trạng xác định cha, mẹ và con cái theo thủ tục hành chính
Năm

2011

2012

2013

2014


Cha, mẹ nhận con

01

0

02

03

Con nhận cha mẹ

02

02

02

0

Tổng số trường hợp yêu cầu công nhận
03
02
04
03
quan hệ cha, mẹ, con
(Nguồn: Dựa theo báo cáo tổng kết của cán bộ tư pháp UBND xã Liên
Thủy, huyện Lệ Thủy từ 01/01/2011 đến 01/01/2015)
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
Tổng số trường hợp yêu cầu công nhận quan hệ cha, mẹ, con của xã Liên

Thủy trong bốn năm chỉ có 12 trường hợp, theo cán bộ tư pháp xã nguyên
nhân thực trạng trên là do:
- Do ảnh hưởng của chế độ phong kiến lạc hậu đó là sinh con trai để nối
dõi, những gia đình không sinh được con trai thì chồng ra ngoài kiếm con
trai riêng.
- Sau chiến tranh kết thúc, có người trở lại xác lập quan hệ ruột thịt với
con cái.
- Do sai lầm từ việc ngoại tình.
Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái trong xã hội ngày nay luôn được
đề cao và chú trọng, bậc làm cha làm mẹ ai cũng mong muốn những điều tốt
đẹp nhất đến với con cái mình. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương,
nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con cái, tạo cho
con môi trường sống và học tập tốt nhất. Song có những trường hợp cha mẹ
lại vô trách nhiệm với con cái, họ luôn chối bỏ nhiệm vụ của mình, đó là
những đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ. Trách nhiệm của cha mẹ đâu khi con đang


21

ở ngoài đường thay cho trường học, ngủ ở ghế đá thay cho phòng ngủ, bị mất
quyền học tập, chăm sóc là những quyền cơ bản mà một đứa trẻ cần có.
Ở xã Liên Thủy tuy không có trường hợp trẻ em bị gia đình chối bỏ trách
nhiệm nhưng cũng có những bậc cha mẹ vì lo làm giàu mà không quan tâm
đến con cái, hoặc có gia đình quá khó khăn nên đã cho con nghỉ học để phụ
giúp gia đình.
Ngoài ra con cái cũng cần phải xác định rõ và thực hiện tốt trách nhiệm
của mình đối với cha mẹ, làm tròn chữ hiếu để không phụ lòng cha mẹ, có
nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ như Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 đã quy định.
* Về quan hệ giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em, giữa các thành

viên trong gia đình
Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Cháu có
nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia
đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau”.
Thực trạng tại xã Liên Thủy, bên cạnh các gia đình mà cháu biết yêu
thương, quan tâm tới ông bà thì cũng có những gia đình con cháu thờ ơ với
ông bà, tuổi già của họ cô quạnh một mình, nhận thấy rằng những gia đình mà
bố mẹ không quan tâm tới con cái thì cháu cũng ít quan tâm tới ông bà, có
những đứa cháu thậm chí vô lễ, coi thường ông bà vì nghĩ họ đã già yếu
không biết gì.
Quan hệ giữa anh chị em cũng như giữa các thành viên trong gia đình
cũng có sự khác biệt, do công việc làm ăn hoặc do điều kiện cuộc sống mà
các anh chị em có xu hướng tách ra ở riêng, chỉ chăm lo cuộc sống bản thân
mà không quan tâm đến những người trong gia đình, khiến cho tình cảm anh
em ngày càng phai nhạt. Có những gia đình anh em vì tranh chấp nhau lợi ích
ích kính tế mà không nhìn mặt nhau, coi nhau như kẻ thù. Đây là thực trạng
không chỉ xảy ra ở xã Liên Thủy mà còn ở nhiều nơi khác.


22

2.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
Luật hôn nhân và gia đình tại xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy
a. Giải pháp
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật hôn nhân và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình là cơ sở pháp lý toàn diện hướng vào xây
dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng
chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, kế
thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm
xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ.Để việc tuyên truyền

có hiệu quả phải có chương trình, kế hoạch cụ thể với nội dung, hình thức và
biện pháp hữu hiệu. Đội ngũ làm công tác tuyên truyền cần được đào tạo bài
bản bởi một số cán bộ ở cơ sở còn coi nhẹ vấn đề hôn nhân và gia đình, xem
đó là việc nội bộ gia đình không phải của xã hội, để làm sao công tác tuyên
truyền không còn mang tính hình thức mà thực sự đến được với từng người
dân, với từng gia đình.
- Vai trò của gia đình, cộng đồng xã hội
Đầu tiên phải kể đến vai trò của gia đình, bạn bè, cộng đồng xã hội. Nhận
thấy rằng nhiều cặp vợ chồng dù kết hôn không bao lâu đã đưa nhau ra Toà bởi
chưa kịp tìm hiểu bạn đời đã vội đi đến kết hôn, không có người lớn giúp đỡ, tư
vấn trong việc chọn vợ, chọn chồng, để cho con cái đi đến những quyết định
sai lầm. Vai trò của cha mẹ, của gia đình khi con cái đến tuổi kết hôn là rất
quan trọng, cần cung cấp cho con cái những kiến thức cơ bản về hôn nhân và
gia đình, những định hướng về cuộc sống sau hôn nhân để con cái khỏi bỡ ngỡ.
Bên cạnh gia đình, cộng đồng và xã hội cũng có vai trò lớn trong việc
hạn chế sự gia tăng của ly hôn, của bạo lực gia đình…Xây dựng gia đình văn
hoá gắn liền với các phong trào khác như làng xã văn hoá, đây là việc cần sự
phối hợp của nhiều lực lượng, sự quan tâm của các ngành, các cấp và cơ quan
đoàn thể.


23

Các thành viên của Uỷ ban Mặt trận nhất là Hội phụ nữ, Chi đoàn thanh
niên, bên cạnh việc phối hợp với cac ban ngành tổ chức tuyên truyền pháp
luật trong nhân dân còn phải thành lập các câu lạc bộ tư vấn về lĩnh vực hôn
nhân và gia đình, nâng cao kiến thức pháp luật cho những người sắp lập gia
đình và giúp họ giải quyết những vướng mắc trong đời sống hôn nhân.
- Chăm lo phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội
nhằm xây dựng gia đình Việt Nam

Để chăm lo phát triển kinh tế cho nhân dân, nhà nước phải hoạch định
chính sách kinh tế phù hợp với từng vùng,miền nhằm giúp cho từng gia đình có
định hướng xây dựng kinh tế gia đình tạo việc làm cho các thành viên trong gia
đình. Đây là vấn đề quan trọng bởi nó tạo thu nhập cho mỗi người, góp phần
xây dựng kinh tế gia đình. Mất việc hay không có việc làm dẫn đến nhiều hệ
luỵ: rượu chè, bài bạc, tâm trạng bực bội,nóng nảy, bạo lực gia đình, ly hôn…
Ngoài giải quyết việc làm cần chú ý tới các chính sách xã hội khác như: xoá
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội, từ thiện…Đây là giải pháp
chiến lược làm cho gia đình và cộng đồng phát triển ổn định, bền vững.
- Cần giải quyết ly hôn một cách tích cực và có tính nhân văn
Ly hôn đang có chiều hướng gia tăng, đó là một báo động đối với các gia
đình và các cấp chính quyền. Có nhiều cuộc ly hôn mà nguyên nhân chưa tới
mức trầm trọng, vì vậy vai trò của việc hoà giải ở cơ sở là vô cùng quan
trọng. Khi nguyên nhân ly hôn là chính đáng thì cần thực hiện đúng pháp luật,
giảm thiểu những đổ vỡ không cần thiết, quan tâm tới quyền lợi của phụ nữ
và trẻ nhỏ giúp họ vượt qua khó khăn hậu ly hôn.
- Giải pháp từ mỗi cá nhân:
Gia đình là một trong những phạm trù của xã hội mà ở đó các thành viên
là hạt nhân cơ bản trong việc tạo lập cuộc sống gia đình. Trong thực tế, sự cố
gắng của cộng động, của bạn bè cũng không có kết quả nếu như các thành
viên trong gia đình không tự cố gắng hoàn thiện mình, sửa chữa những sai


24

lầm trong quan hệ gia đình. Sự nhường nhịn, giúp đỡ, phối hợp với nhau giữa
các thành viên là nghệ thuật ứng xử cần thiết để một gia đình luôn bền vững,
hạnh phúc.
Tóm lại: Trên đây là một số giải pháp cơ bản góp phần tăng cường thực
hiện Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các chính sách của Nhà nước

nhằm xây dựng gia đình Văn hoá, ấm no, bền vững, hạnh phúc.
b. Kiến nghị
Nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện Luật hôn nhân và gia đình ở
xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, em có một số kiến nghị sau:
- Nhận thấy công tác tuyên truyền là vô cùng quan trọng nên cần tiếp tục
và phát huy để Luật đến với người dân một cách thực sự, không mang tính
hình thức.
- Tăng cường công tác hoà giả ở cơ sở vì hoà giải là một trong những
biện pháp tuyên truyền, giáo dục trực tiếp tới người dân.
- Chính quyền địa phương cần có kế hoạch xây dựng những gia đình văn
hoá kiểu mẫu, đồng thời nhân rộng điển hình.
- Cán bộ tư pháp xã, phường không ngừng nâng cao kiến thức pháp luật
để linh hoạt hơn trong khi giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của mình,
không gây khó khăn cho người dân khi có những tranh chấp, mâu thuẫn về
lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
- Mỗi gia đình, mỗi người dân nên có ý thức chấp hành pháp luật hôn
nhân và gia đình. Cha mẹ nên giáo dục con cái những truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam đó là kính trọng ông bà, vâng lời bố mẹ, anh em trong
gia đình thì thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi gia đình cùng chung tay làm
được điều đó thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn, phát triển bền vững hơn.


25

PHẦN KẾT LUẬN
Hôn nhân và gia đình là một hiện tượng xã hội. Hôn nhân là cơ sở của gia
đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Sự phát triển mọi mặt của xã hội quyết
định đến sự phát triển của gia đình, song gia đình có vai trò quyết định đối với sự
phát triển của xã hội bởi lẽ gia đình thực hiện các chức năng xã hội của mình
góp phần giữ vững bình ổn chính trị, trật tự an toàn xã hội, tác động đến sự vận

động của xã hội, nếu không có gia đình thì xã hội không thể phát triển, thậm chí
không tồn tại được. Từ đó để thấy vị trí to lớn của gia đình đối với xã hội, vì vậy
việc xây dựng gia đình là vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Qua tìm hiểu thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình tại xã Liên
Thủy, huyện Lệ Thủy, tuy trong điều kiện còn khó khăn nhưng đa phần các gia
đình đã thực hiện tốt Luật hôn nhân và gia đình cũng như các chính sách pháp
luật khác của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Luật đã từng
bước đi vào cuộc sống người dân, nhận thức và hiểu biết của người dân về hôn
nhân và gia đình đã từng bước được nâng lên. Song bên cạnh cũng tồn tại một số
hạn chế nhất định cần phải khắc phục, đó là một bộ phận trong nhân dân ý thức
chấp hành pháp luật còn kém, còn vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Sự
phối hợp giữa các cơ quan ban ngành trong việc tuyên truyền pháp luật chưa
thường xuyên, còn mang tính hình thức, việc thực hiện còn nhiều bất cập, một số
cán bộ tư pháp xã chưa linh động trong việc giải quyết các vấn đề liên quan tới
Luật hôn nhân và gia đình. Do vậy các cấp chính quyền phải tăng cường hơn
nữa việc tổ chức thực hiện Luật hôn nhân và gia đình trong nhân dân, tạo sự bình
ổn về chính trị, xã hội, góp phần tạo đà cho kinh tế không chỉ riêng địa bàn xã
Liên Thủy, huyện Lệ Thủy mà còn ở những nơi khác phát triển.
Trên cơ sở những kiến thức có được từ sự truyền dạy của thầy cô, với
khả năng và trình độ có hạn, cùng với thời gian nghiên cứu còn hạn chế cho
nên trong việc thực hiện đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của cô giáo.


×