Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Ảnnh hưởng của hội nhập quốc tế đến tình hình lao động và việc làm ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.02 KB, 21 trang )

A. Mở đầu
1. Đặt vấn đề
Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hòa bình, hợp tác, phát triển.
Hội nhập quốc tế đang trở thành xu hướng tất yếu của thời đại. Các quốc gia
qua đó có thể giải quyết những vấn đề chung để cùng phát triển. Hội nhập quốc
tế mang lại nhiều cơ hội tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nước ta, là một
trong những nhân tố để cơ cấu lại và hiện đại hóa nền kinh tế phát triển nguồn
nhân lực, làm tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động.
Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công
nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp
nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động… được
thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tuy
nhiên trong quá trình hội nhập quốc tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
là đối với vấn đề lao động và việc làm và phát triển nguồn nhân lực nước ta.
Với lực lượng lao động qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ thấp, chất lượng đào tạo
còn bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là các
ngành, lĩnh vực công nghệ cao, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, thu nhập của người
lao động còn thấp. Lao động việt nam còn phải khắc phục những bất cập theo
chuẩn mực lao động của khu vực và quốc tế để có thế tham gia hội nhập quốc
tế. Vì thế trong quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi nước ta cần phải vượt qua
những yếu kém cơ bản và phải chủ động nhiều hơn, do đó nhóm em làm đề tài
“Ảnnh hưởng của hội nhập quốc tế đến tình hình lao động và việc làm ở
Việt Nam”


2. Mục tiêu nghiên cứu:
• Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng tình hình lao động và việc làm trong
thời kì hội nhập hiện nay. Tìm ra giải pháp, định hướng cho sự phát triển
của nguồn nhân lực trong nước trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam.


• Mục tiêu cụ thể:
- Nêu thực trạng về tình hình lao động và việc làm của Việt Nam trong thời kì
hội nhập
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng của hội nhập kinh tế đến tình hình lao động
và việc làm ở nước ta
- Đề xuất các giải pháp để khắc phục và định hướng cho sự phát triển của
nguồn nhân lực nước ta trong thời kì hội nhập
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập số liệu: chủ yếu từ sách, báo, internet,…
- Phương pháp tổng hợp, so sánh: tổng hợp số liệu lao động có việc làm, số
lượng việc làm khi Việt Nam hội nhập quốc tế và so sánh qua các thời kì
- Phương pháp phân tích số liệu

B. Kết quả nghiên cứu.
1. Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Biến động lao động trong khu vực dưới tác động hội nhập quốc tế
Mặc dù các nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn do khủng hoảng, nhưng


giai đoạn 2006-2010, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn
định, hợp tác để cùng phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc
gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Hội nhập quốc tế tạo cơ
hội để Việt Nam đi sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, được đối xử bình đẳng trên
“sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt
là việc làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào
cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh
tế, đối ngoại, lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài.
Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động
theo định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ

thuật cao. Trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được
cắt giảm. Tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng
hơn vào phân công và hợp tác lao động quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc
làm một cách ổn định và bền vững.
1.1. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tăng nhanh
− Việt Nam là nước đông dân, có cơ cấu dân số trẻ. Năm 2012, dân số là 88,77 triệu
người, trong đó dân số từ 15 tuổi trở lên là 68,195 triệu người, chiếm 76,8% dân số
cả nước. Vì dân số đông nên lực lượng lao động của nước ta khá dồi dào, đó là một
lợi thế to lớn để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người
trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực
dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao
động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề


đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh
nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm
chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức
tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài.
Bảng 1. Dân số hoạt động kinh tế ở nước ta thời kì 1989-2012 (triệu người)
Năm

1989

1999

2009


2012

37,3
47,7
52,3
Dân số hoạt động 28,4
kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra lao động – việc làm Việt Nam năm
2012, Nxb Thống kê, Hà Nội
Bảng 1 cho thấy dân số hoạt động kinh tế của nước ta giai đoạn 1989-2012 tăng từ
28,4 triệu người lên 52,3 triệu người (tăng 23,9 triệu người), trung bình tăng 1,1
triệu người/năm. Năm 2012, lực lượng lao động nước ta là 52,3 triệu lao động,
chiếm58,9% tổng dân số cả nước, bao gồm 51,4 triệu người có việc làm và 925,6
nghìn người thất nghiệp. Trong tổng số lực lượng lao động của cả nước, nữ giới
chiếm tỉ trọng thấp hơn nam giới (48,6% nữ giới so với 51,4% nam giới).
Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của nguồn lao động nước ta. Cơ cấu dân số hoạt động
kinh tế chia theo nhóm tuổi tập trung nhiều nhất ở nhóm 15 – 34 tuổi, chiếm
44,7%, tiếp theo là nhóm 35 – 54 tuổi.
Bảng 2. Cơ cấu dân số hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi (%)
Năm

Nhóm trẻ (1534 tuổi)

Nhóm trung
niên
(35-54 tuổi)

Nhóm cao tuổi
(≥ 55 tuổi)


1989

52,6

40,3

7,1

2009

47,6

42,1

10,3


2012
44,7
43,8
11,5
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra lao động – việc làm Việt Nam năm
2012, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Nguồn lao động trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp
thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa,
đào tạo nghề, thì họ sẽ phát huy khả năng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng gây áp lực lớn
cho vấn đề giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động. Đặc biệt, với
tốc độ tăng dân số nhanh và cơ cấu dân số trẻ nên mỗi năm nước ta có hơn 1,2

triệu người đến tuổi lao động và được bổ sung vào lực lượng lao động, điều này
càng làm cho vấn đề giải quyết việc làm trở nên khó khăn hơn.
1.2. Chất lượng nguồn lao động
− Về trình độ học vấn của lực lượng lao động: Nhìn chung trong cả nước, trình độ
học vấn của lực lượng lao động ngày càng được nâng cao. Tỉ lệ người chưa biết
chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học không ngừng giảm. Tỉ lệ này năm 1996 là 26,67%,
năm 2009 giảm xuống còn 6,5%. Đồng thời, số người đã tốt nghiệp THCS, THPT
tăng lên liên tục, trong đó tăng nhanh nhất (cả về quy mô và tốc độ) là số người tốt
nghiệp THPT, từ 13,48% năm 1996 lên 26,4% năm 2009. Những chuyển biến tích
cực về trình độ học vấn sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh các hoạt động
đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động
trong thời gian tới. Tuy nhiên, trình độ học vấn còn có sự phân hóa giữa nông thôn
với thành thị và theo các vùng lãnh thổ. Ở nông thôn, tuy trình độ học vấn của lực
lượng lao động đã được cải thiện, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với khu vực
thành thị. Năm 2009, tỉ lệ người chưa tốt nghiệp tiểu học trong lực lượng lao động
ở nông thôn là 15,9% (thành thị là 7,6%), tỉ lệ người tốt nghiệp THPT ở nông thôn
là 17,8% (thành thị là 46,8%).


Trình độ học vấn của lực lượng lao động theo vùng lãnh thổ cũng có chênh lệch. Tỉ
lệ những người chưa từng đi học trong lực lượng lao động cao nhất ở vùng Trung
du và miền núi (TD&MN) phía Bắc (chiếm 11,3% lực lượng lao động
của vùng, 2009), tiếp đến là Tây Nguyên (10,2%) và ĐB sông Cửu Long (5,7%).
Đây cũng là những vùng có tỉ lệ lao động tốt nghiệp THPT trở lên thấp nhất, đặc
biệt là vùng ĐB sông Cửu Long, chỉ có 13,4% trong khi trung bình của cả nước
là 25,6%. Hai vùng có trình độ học vấn của lực lượng lao động cao là ĐB sông
Hồng và Đông Nam Bộ. Tỉ lệ lực lượng lao động chưa từng đi học chỉ có 0,8% và
2,2%, còn tỉ lệ tốt nghiệp THPT trở lên chiếm 35,9% và 32,9%.
− Lao động Việt Nam giàu lực lượng, nghèo kỹ năng, đó là đánh giá của không ít các
doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực ở Việt Nam rất dồi dào nhưng

lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo,
thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được
chuyển giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Trên thị trường lao động
hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn đang là mối quan
tâm của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị kinh
doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản ly trung gian hiểu biết về tài
chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề
cao, ham học hỏi. Tuy nhiên, nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị
trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để
hoàn thành công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý
nước ngoài đã nhận xét: “Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải
quyết công việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều”.
Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt được, cho dù
họ đã tập hợp được đội ngũ nhân công có đẳng cấp cao.
− Về trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động:


Trình độ chuyên môn kĩ thuật là một trong những yếu tố quan trọng cấu
thành chất lượng lao động. Trình độ chuyên môn kĩ thuật của người lao động nước
ta đã có sự thay đổi theo thời gian như sau:
Theo kết quả Điều tra lao động – việc làm năm 2012, trong tổng số 52,3 triệu
người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có gần 9 triệu
người đã được đào tạo, chiếm 16,8% tổng lực lượng lao động. Như vậy, nguồn
nhân lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng đa số là lao động không có tay nghề và
chuyên môn kĩ thuật cho thấy xu hướng giảm dần tỉ lệ lao động không có trình độ
chuyên môn kĩ thuật so với tổng dân số, từ 92,7% năm 1989 xuống còn 83,2% năm
2012, giảm 9,5% qua hơn 20 năm. Nhìn chung, xu hướng này là tiến bộ; tuy nhiên,
mức giảm của tỉ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật còn chậm,
chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Đối với công nhân kĩ thuật, tăng từ 2,2% lên 6,3% giai đoạn 1989-2009, nhưng sau
đó lại giảm xuống còn 4,7% năm 2012. Mức độ tăng này là chậm so với yêu cầu và
không ổn định, điều này đặt ra những nhiệm vụ là cần mở rộng và hoàn thiện hệ
thống dạy nghề trong nền kinh tế quốc dân.
− Tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng
30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát
triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa
qua đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những
“điểm nghẽn” cản trở sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm
2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số
lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ
trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào
tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề


dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động
trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và
có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh
giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc
cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79
điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới
(trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59
điểm... Do vậy, nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và
thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia
và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình
5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc
độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt
Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được
nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm

khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn
trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong
những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm
2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nước được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).
1.3. Cơ cấu lao động của nước ta có sự chuyển biến nhưng còn chậm
− Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Quá trình này dẫn đến làm tăng tỉ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ trọng
lao động trong nông nghiệp.
− Cơ cấu lao động giữa các vùng lãnh thổ


Cơ cấu lao động giữa các khu vực có sự chuyển dịch phù hợp với quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tỉ trọng lao động giữa các
vùng trong khu vực rất khác nhau
+ Lao động trong khu vực I: thấp nhất là Đông Nam Bộ (34,8%), ĐB sông Hồng
(40,7%), các vùng còn lại đều cao hơn mức trung bình của cả nước.
+ Lao động trong khu vực II: cao nhất là Đông Nam Bộ (33,5%), thấp nhất là Tây
Nguyên (8,2%), TD&MN phía Bắc (12,1%), ĐBS Cửu Long (16,6%).
+ Lao động trong khu vực III: cao nhất là Đông Nam Bộ (31,8%), tiếp đến ĐB
sông Cửu Long (31,3%), đến ĐB sông Hồng (29,5%), thấp nhất là TD&MN phía
Bắc (17,9%), Tây Nguyên (20,6%).
− Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế
Phân loại cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối
với nước ta, đặc biệt trong thời kì chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cơ cấu
lao động theo thành phần kinh tế có những thay đổi quan trọng. Nền kinh tế của
nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các số liệu thống kê lao động – việc làm chia

cơ cấu này thành 3 khu vựckinh tế lớn: kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc sử dụng lao động phân theo các thành phần kinh tế đã có chuyển biến rõ
nét. Năm 1986 được coi là một mốc trên con đường đổi mới kinh tế. Việc đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức sản xuất đã tạo điều kiện cần thiết
cho sự hình thành, tồn tại và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần. Lao động
trong thành phần kinh tế nhà nước không có nhiều biến động, chiếm 10,4% trong
cơ cấu lao động (2012) và có xu hướng giảm, chuyển sang khu vực kinh tế tập thể,
tư nhân và cá thể, đặc biệt khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ 0,5% năm 1998 lên
3,3% năm 2012. Sự chuyển dịch lao động từ khu vực nhà nước sang khu vực kinh


tế khác đang diễn ra phù hợp với quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Điều này cho thấy thị trường lao động ở nước ta đã phát triển trong thời
gian qua. Tuy vậy, mức tăng lao động khu vực kinh tế tư nhân vàđầu tư nước ngoài
vẫn ở mức thấp và chậm.
 Ta có thể thấy đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng
mức; chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa
được đào tạo đến nơi đến chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
giữa lượng và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng
phối hợp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp
là do công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn
hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu
của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết

tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy
người, dạy nghề…
- Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện
nay còn nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng,
miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp
ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là
người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về
thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy
đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá
được hiện trạng của cung - cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu


nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô hình dự báo thị
trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên
gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.
- Những yếu kém trên đây cũng chính là những thách thức lớn đối với
lao động Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề trong
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
của nền kinh tế trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế và thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến lao động và việc làm của Việt
Nam
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới, cũng đồng thời
là con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại
toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được
quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước.
Quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường cho các sản phẩm Việt Nam và
thúc đẩy thương mại phát triển. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng có những ảnh
hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ
được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.

Tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân người lao
động và các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển giao
công nghệ với các nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là các
chuẩn mực, mô hình hệ thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho
các doanh nghiệp sản xuất…
Tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các
dự án hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam, sẽ tạo


ra các nguồn tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị
của các ngành kinh tế.
Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân
lực cho lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao.
Việt Nam có lực lượng lao động đông đảo nên áp lực tạo việc làm ở nước ta
rất lớn. Hội nhập quốc tế giúp mở rộng thi trường, Việt Nam không chỉ
hướng vào sản xuất nội địa mà sẽ hướng ra thị trường quốc tế, các khối thị
trường chung. Các doanh nghiệp ở Việt Nam sẽ không phải đóng thuế nhập
khẩu đối với các sản phẩm/máy móc, thiết bị từ các nước thành viên, qua
đó, hạ giá thành và có điều kiện để tăng năng lực cạnh tranh. Đây sẽ là cơ
hội để các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường, kim ngạch xuất
khẩu gia tăng: từ đó, mở ra cơ hội tạo thêm nhiều việc làm cho người lao
động. Trong 10 năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
ASEAN tăng gấp 4 lần, từ 9 tỷ USD (năm 2003) lên gần 40 tỷ USD (năm
2013). ASEAN đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam,
sau Hoa Kỳ và EU.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm tới lên khoảng 6,58,5%, đầu tư toàn xã hội năm 2009 ở mức khoảng 40% GDP, đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào nước ta vốn đăng ký khoảng trên 60 tỷ USD và vốn
thực hiện khoảng 9 tỷ USD thì nhu cầu lao động có đào tạo trong nước sẽ
rất lớn. Đối với bên ngoài, việc mở rộng hợp tác của chúng ta ngày một
nhiều thì nhu cầu lao động được đào tạo xuất khẩu sẽ đáng kể.

Các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội
tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có
vốn đầu tư nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài còn tạo ra những
cơ hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài


mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông
qua các hợp đồng gia công chế biến. Ở Việt Nam FDI đã góp phần tích cực
tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may
mặc, điện tử, chế biến. Theo số liệu thống kê, số lao động làm việc trong
khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ 373,7 nghìn người năm 2000 đến 1674,2
nghìn người năm 2008 và ứng với đó là cơ cấu lao động tăng từ 0,99% đến
3,73%.
Hàng triệu lao động được thu hút vào những ngành nghề sản xuất hàng xuất
khẩu, trong đó có những ngành xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động
như dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thủy sản, thủ công mỹ nghệ,
trồng các loại cây công nghiệp và nông nghiệp như lúa, cà phê, hạt tiêu, cao
su…
Về xuất khẩu lao động, Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết từ đầu
năm 2009 đến nay, cả nước đã đưa được 65.787 người đi xuất khẩu lao
động, đạt 73,1% kế hoạch. Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục ngàn lao
động bằng cách này cách khác đã tìm được cách ra nước ngoài làm ăn sinh
sống, phần lớn ở các nước Đông Âu và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô
cũ, và trong thời gian gần đây là sang Trung Quốc. Trong số này có những
người làm ăn nghiêm túc, có những đóng góp cho kinh tế của nước sở tại và
tạo thu nhập cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, cũng còn những người
có những hoạt động vi phạm pháp luật nước sở tại. Việc di chuyển lao động
quốc tế mang tính tự phát này cũng phản ánh tác động của xu thế hội nhập
quốc tế. Dòng di chuyển này đang ẩn chứa trong nó cả cơ hội và nguy cơ.
Một mặt, nó góp phần giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho một bộ phận dân

cư. Mặt khác nó cũng kèm theo nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, thậm chí
tội phạm.Thu nhập dân cư tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi


trong và ngoài nước đã kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về
lượng lẫn về chất. Đây chính là yếu tố kích thích cầu của thị trường hàng
hoá và dịch vụ trong nước và là tác động gián tiếp của toàn cầu hoá đối với
việc tạo việc làm trong nước. Trong hơn hai năm thực hiện Luật doanh
nghiệp, đã có hơn 42 ngàn doanh nghiệp và hơn 300 ngàn hộ kinh doanh
mới đăng ký, thu hút thêm vốn đầu tư tương đương 4 tỷ đô la Mỹ và tạo
được khoảng 750 ngàn chỗ làm việc mới.
Hội nhập quốc tế càng sâu, các thị trường càng được mở rộng, thương mại
tự do thì sức ép về tính cạnh tranh càng cao đối với mỗi nền kinh tế, mỗi
doanh nghiệp, thậm chí mỗi cá nhân. Bởi vậy, việc không ngừng nâng cao
tính cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc chạy đua giữa các
doanh nghiệp, giữa các nền kinh tế. Có thể nói, hội nhập đang tạo ra yêu
cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và nâng
cao tay nghề chuyên môn kỹ thuật. Đây vừa là điều kiện thuận lợi, vừa là
thách thức lớn đối với Việt Nam trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực
Hội nhập quốc tế đã có một số tác động tích cực đối với việc nâng cao
chât lượng lao động Việt Nam
Thứ nhất, hội nhập kích thích sự phát triển nhanh chóng của Khoa học công
nghệ đòi hỏi người dân nói chung và lực lượng lao động nói riêng phải
không ngừng nâng cao trình độ cho theo kịp sự phát triển của khoa học,
công nghệ và yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Hội nhập cũng tạo điều
kiện cho người lao động nhanh chóng tiếp nhận được thông tin, tri thức
mới, góp phần nâng cao dân trí. Đây là điều kiện và động lực quan trọng đối
với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ hai, đối với số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có phương
pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và ngoài nước,

qua quá trình làm việc họ đã học tập, tiếp thu thêm về tay nghề, năng lực
quản lý và tác phong làm việc.


Quá trình hội nhập quốc tế cũng đã làm bộc lộ những hạn chế của lực lượng
lao động của Việt Nam. Cả nước đang chứng kiến một nghịch lý là trong
khi chúng ta thừa lao động trên thị trường lao động thì vẫn thiếu cục bộ đối
với một số ngành nghề đang có nhu cầu tại một số khu chế xuất, khu công
nghiệp và đặc biệt là đối với thị trường lao động ngoài nước. Sức cạnh tranh
chưa cao của lao động nước ta không chỉ thể hiện ở trìnhđộ chuyên môn,
tay nghề chưa cao , thiếu ngoại ngữ, mà còn ở tinh thần chấp hành kỷ luật,
hiểu biết pháp luật còn hạn chế, văn hoá ứng sử trong công việc chưa phù
hợp với tác phong làm việc hiện đại. Tính cạnh tranh chưa cao của lực
lượng lao động là những thách thức lớn đối với Việt Nam đòi hỏi chúng ta
phải có những cố gắng lớn hơn trong chiến lược giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.

Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao
động theo định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao. Trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật
phải được cắt giảm. Tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham
gia sâu rộng hơn vào phân công và hợp tác lao động quốc tế. Đặt nền móng
cho việc tạo việc làm một cách ổn định và bền vững.
Chính sách tiền lương đã cơ bản khắc phục được phân phối bình quân, xóa
bỏ bao cấp; tách tiền lương khu vực sản xuất, kinh doanh với khu vực hành
chính sự nghiệp; từng bước tính đúng, tính đủ tiền lương theo thị trường;
tăng quyền chủ động cho doanh nghiệp trong trả lương gắn với năng suất,
chất lượng hiệu quả, gắn lợi ích của người lao động với lợi ích của doanh
nghiệp, lợi ích của Nhà nước; quan hệ tiền lương, mức lương tối thiểu
chung đã từng bước được điều chỉnh hợp lý, thực hiện thống nhất mức



lương tối thiểu giữa doanh nghiệp các thành phần kinh tế trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo vùng. Tiền lương, thu nhập
của người lao động tăng trên 2 lần, bình quân từ 1,8 triệu đồng/người/tháng
năm 2006 lên 3,84 triệu đồng/người/tháng (năm 2011), đời sống người lao
động được cải thiện, giảm tranh chấp lao động, góp phần giữ vững an ninh,
trật tự xã hội và cải thiện môi trường đầu tư.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức trong giải quyết việc
làm, các doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém, quy mô nhỏ có nguy cơ phá
sản; mất việc làm, thiếu việc làm lớn trong khu vực phi chính thức; chất
lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH… Đặc biệt trong tình
hình hiện nay, khi nền kinh tế thị trường có sự cạch tranh mạnh mẽ, do vậy
việc xúc tiến việc làm của chúng ta ra nước ngoài sẽ khó khăn hơn.
Trong quá trình hội nhập, do cơ cấu lại nguồn nhân lực cộng với lao động
dôi dư từ các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, sẽ tạo ra các áp lực
lớn về việc làm cho người lao động. Một bộ phận người lao động trong các
doanh nghiệp sẽ mất việc làm do trình độ chuyên môn không đáp ứng được
yêu cầu mới đặt ra. Điều này gây tác động xấu về mặt xã hội, làm cho tỷ lệ
thất nghiệp tăng lên, người lao động mất việc làm, giảm thu nhập…
Cạnh tranh về lao động trình độ cao sẽ ngày càng gay gắt. Hội nhập, toàn
cầu hoá trở thành xu thế chung, lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động
có kỹ thuật, trình độ quản lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam
nhiều hơn, đồng thời lao động của Việt Nam cũng di chuyển ra nước ngoài
nhiều hơn. Cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, nhiều doanh nghiệp bị phá sản,
nhiều người lao động bị mất việc làm; tốc độ đô thị hoá nhanh, người nông
dân bị thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thiếu đất canh tác…


Ngoài việc phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề

thì các yêu cầu khác về chất lượng nguồn nhân lực đang được đặt ra như
những thách thức mới. Đó là yêu cầu về ngoại ngữ, tin học, tác phong và
văn hoá ứng xử công nghiệp, hiểu biết về luật pháp và thông lệ quốc tế…
Điều này đòi hỏi lao động phải nhanh chóng học tập những cái mới, cái ưu
việt, nhưng cũng cần phải loại bỏ những yếu tố không phù hợp và đi ngược
lại với đạo đức và văn hoá Việt.
Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động và di chuyển lao động quốc tế, lao động
tự do tới các vùng đô thị đang là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của
các cơ quan chức năng, nhiều địa phương và các nhà nghiên cứu hoạch định
chính sách.
-

Việc di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc tạo điều kiện để Việt
Nam toàn dụng nguồn nhân lực làm tăng thu nhập quốc gia. Di chuyển lao động
ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao động thất nghiệp vào việc sản xuất
ra hàng hóa dịch vụ tại nước khác, mạng lại thu nhập cho người lao động. Góp
phần trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; khi người lao động được
làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến, thì trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp ngày càng được nâng cao.

-

Việc lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc cung cấp nguồn nhân lực chất
lượng cao góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
mạnh. Tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động nước
ngoài, trong điều kiện đó, lao động trong nước buộc phải tự mình nâng cao trình
độ, kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ để thích nghi được với nền kinh
tế thị trường mới này; Kết quả là làm cho chất lượng nguồn nhân lực được nâng
cao.



Hiện đang có một thực tế là, tuy tiền lương và thu nhập của người lao động
có xu hướng tăng lên nhưng từ đầu năm 2008 đến nay, đời sống của người
làm công ăn lương đang bị ảnh hưởng khá nhiều bởi lạm phát. Khoảng cách
tiền lương giữa lao động làm việc có trình độ kỹ thuật và lao động giản đơn
gia tăng mạnh. Khoảng cách thu nhập giữa thành thị vào nông thôn ngày
càng gia tăng. Tác động của hội nhập đến tiền lương có sự khác nhau giữa
các ngành nhập khẩu và xuất khẩu. Lao động làm việc trong các ngành xuất
khẩu có mức tiền lương thấp hơn so với các ngành không xuất khẩu. Các
ngành có tỷ lệ nhập khẩu cao song mức lương thấp…
Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập quốc tế đã tạo ra những thuận lợi nhất
định trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói. Thực tế cho thấy, Việt Nam có
tốc độ giảm nghèo nhanh trong những năm qua. Tuy nhiên, Việt Nam cũng
đang đối diện với khoảng cách giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất
gia tăng; phân hóa giàu nghèo có khả năng còn diễn ra mạnh hơn; gia tăng
sự chênh lệch về cơ hội và thu nhập của các nhóm người nghèo khác nhau.
Đa số người nghèo có trình độ thấp, làm việc trong điều kiện lao động
nghèo nàn với các mức tiền lương thấp và thiếu khả năng tiếp cận đến các
dịch vụ xã hội công. Và trong bối cảnh hội nhập, người nghèo càng trở nên
bị bất lợi vì khả năng thích nghi với công nghệ mới còn yếu, nhất là những
nhóm nghèo mới sẽ xuất hiện do những cú sốc kinh tế.
3. Giải pháp
Để đẩy mạnh hội nhập quốc tế, trong thời gian tới, cần phối hợp nhiều nhóm giải
pháp nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng, đồng thời khai thác tối đa
những lợi ích mà hội nhập quốc tế đem lại. Các giải pháp chính là:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về lao động – việc làm:
Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Lao động, nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Luật
Tiền lương tối thiểu; xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Người lao động Việt



Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; kịp thời ban hành những chính sách
liên quan tới giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động để khuyến khích
các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, tạo
thêm nhiều việc làm, đẩy mạnh mở rộng thị trường nhận lao động Việt Nam; Phê
chuẩn các công ước và khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về lao
động, việc làm và thị trường lao động; các thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế liên
quan của Việt Nam trong hội nhập…
Thứ hai, hoàn thiện quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm và
cấp giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm cho các doanh nghiệp giới thiệu việc
làm; đầu tư nâng cao năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm.
Thứ ba, có chính sách hỗ trợ người lao động trong quá trình đào tạo và đi
xuất khẩu, cũng như nên có chính sách bảo vệ người lao động ở nước ngoài khi họ
gặp khó khăn hay bị người quản lý lao động có những hành động không đúng pháp
luật.
Thứ tư, xây dựng quỹ bảo vệ và hỗ trợ người lao động ở nước ngoài trên cơ
sở đóng góp của các công ty xuất khẩu lao động và người đi lao động nước ngoài
theo một tỷ lệ phù hợp. Thành lập hiệp hội bảo vệ quyền lợi người lao động đi xuất
khẩu, hoặc nâng cao vai trò của công đoàn trong lĩnh vực này nhằm không để bất
cứ người lao động đi xuất khẩu bị thiệt thòi hay bị ngược đãi.
Thứ năm, thành lập Trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao
động nhằm hình thành một hệ thống đồng bộ từ thu thập, xử lý tới phân tích, dự
báo, quản lý và cung cấp thông tin thị trường lao động theo các cấp trình độ, các
ngành nghề, lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu về đào tạo và phát triển kinh tế của các
vùng, ngành, các khu công nghiệp.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý các dự án, hoạt động trong
Chương trình trong việc cho vay giải quyết việc làm, đầu tư nâng cao năng lực các
Trung tâm giới thiệu việc làm… Phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ bảy, tập trung bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác
lao động việc làm. Tiếp tục mở nhiều các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật tiến

bộ và đào tạo kỹ năng nghe và kỹ năng giao tiếp thực hành cho người lao động để
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động nước ngoài.


Tám là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động thế giới và các
nước để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp cho việc xuất khẩu lao động sang các
nước, tránh để tình trạng phân tán như hiện nay.
Chín là, kiểm soát và giám sát chặt chẽ thị trường xuất khẩu lao động để hạn
chế tình trạng lừa đảo hoặc đẩy chi phí xuất khẩu lao động lên quá cao gây thiệt hại
và khó khăn cho người có nhu cầu xuất khẩu lao động.
C.

Kết luận

-

Quá trình hội nhập quốc tế có hai mặt, vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra những thách
thức đối với Việt Nam. Những cơ hội mà toàn cầu hóa tạo ra cho Việt Nam là
khách quan và rất tiềm năng. Song, đó mới chỉ là khả năng. Khả năng này có
biến thành hiện thực hay không, hoặc được thực hóa tới mức nào, điều đó còn
phụ thuộc vào nhân tố chủ quan về năng lực nhận thức thực tiễn. Những thách
thức thực tiễn mà hội nhập quốc tế đặt ra cho phát triển hay khoanh tay chấp
nhận tụt hậu điều đó tùy thuộc vào nghị lực phấn đấu của mỗi quốc gia.

-

Lao động Việt Nam có trở thành nguồn lực quyết định sự thành công trong
tham gia hội nhập quốc tế hay trở thành rào cản trong tiến trình “ đuổi kịp” các
nước tiên tiến, điều này tùy thuộc ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam, của
từng doanh nghiệp và từng người Việt Nam. Nếu có chính sách hợp lý, môi

trường thông thoáng, doanh nghiệp tìm tòi đổi mới công nghệ và huy động mọi
nguồn lực để tăng sức cạnh tranh, con người Việt Nam ngày một phát huy khả
năng sáng tạo, bản chất hiếu học, tiếp thu được tinh hoa lao động trên thế giới
nhất định chúng ta sẽ thành công. Còn không chúng ta sẽ ngày một tụt xa hơn
với việc chứng kiến các chỉ số đói nghèo cao, thất nghiệp lớn, năng suất lao
động và thu nhập từ lao động thấp, hậy quả là “ nền kinh tế bị gạt ra bên lề” của
quá trình toàn cầu hóa.

-

Cái giá mà mỗi doanh nghiệp và người lao động phải trả tùy thuộc vào việc xác
định mục tiêu, lộ trình, bước đi của từng cấp độ. Nếu tỉnh táo chủ động hội
nhập và đối phó có hiệu quả những thách thức thì nhất định cái giá phải trả cho
việc tham gia hội nhập quốc tế sẽ thu được vô vàn cái lợi.




×