Lời Cảm Ơn
Để thực hiện và hoàn thành tốt khóa luận thực tập tốt nghiệp này em đã nhận được
sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy (cô) cùng với sự giúp đỡ củ a các anh (chò)
phòng kinh tế thò xã Hương Thủy.
Trước hết em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn Th.s Nguyễn Thò Hóa đã tận tình dành nhiều thời gian, công sức trực tiếp hướng dẫn em
trong suốt quá trình xây dựng và thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cám ơn thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Chính trò, trường Đại
học Kinh tế - Đại học Huế đã truyền đạt và trang bò cho em những kiến thức quý báu
trong quá trình học tập tại trường.
Em xin chân thành cám ơn đến các anh (chò) phòng kinh tế Thò xã Hương Thủy đã
giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này.
Tuy em đã cố gắng hoàn thiện khóa luận thực tập với nội dung khá đầy đủ, song do
thời gian thực tập và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý, đánh giá của quý thầy (cô) để khóa luận tốt
nghiệp này được hoàn thiện hơn.
Để tỏ lòng biết ơn, em xin gửi lời đến Ban giám hiệu trường Đại học Kinh tế - Đại
học Huế cùng với các thầy (cô) giáo trong khoa Kinh tế Chính trò luôn mạnh khỏe và
hoàn thành tốt sự nghiệp trồng người của mình. Chúc anh (chò) phòng kinh tế TX Hương
Thủy công tác tốt và gặt hái được nhiều thành công trong công việc cũng như cuộc sống.
Em xin chân thành cám ơn!
Huế, tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện
TRƯƠNG HIẾU HẠNH
1
1
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................i
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CN
2
:
Công nghiệp
CN - TTCN :
Công nghiệp - Tiểu, thủ công nghiệp
KTNT
:
Kinh tế nông thôn
KT - XH
:
Kinh tế - xã hội
TTCN
:
Tiểu, thủ công nghiệp
2
DANH MỤC BẢNG
Trang
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
3
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển Tiểu thủ công nghiệp (TTCN) hoàn toàn phù hợp với đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Một mặt, TTCN giúp chúng ta
khôi phục được các làng nghề, nhất là các làng nghề truyền thống. Mặt khác giải quyết
việc làm, thu hút được nguồn lao động dư thừa trong nông thôn, sự dụng được những
lao động già cả, khuyến tật, trẻ em, tăng thu nhập cho người lao động, ổn định về mặt
chính trị - xã hội, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Không những thế,
việc phát triển TTCN còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông
thôn, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo tiền đề quan
trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, từng
bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới
theo tiêu chí của Chính phủ đề ra.
Tuy nhiên, phát triển ngành nghề TTCN vẫn còn gặp không ít khó khăn, nhất là
vấn đề thiếu vốn, công cụ thì lạc hậu, một số ngành nghề phát triển còn cầm chừng,
thậm chí có nguy cơ bị mai một dần. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp phát
triển TTCN là hết sức cần thiết đối với kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay.
Hương Thủy được nâng cấp lên thành thị xã theo nghị quyết 08/NQ-CP ngày
09/02/2012 của Chính phủ với diện tích 45.817,49 ha, bao gồm 5 phường 7 xã.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thị xã tuy đang đi đúng hướng nhưng còn chậm, người
dân thu nhập vẫn thấp, thói quen của người dân vẫn mang tính thụ động nhưng bù lại
họ là những người lao động cần cù chịu khó và có tính sáng tạo trong sản xuất làm
nghề. Ngoài ra, thị xã Hương Thủy lại có vị trí địa lý khá thuận lợi, phía Bắc giáp
thành phố Huế, cách Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô 30 km về phía Đông - Nam,
nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc
-Nam chạy dọc xuyên suốt qua chiều dài của thị xã; có sân bay quốc tế Phú Bài, có
nhiều di tích văn hóa lịch sử, nhiều điểm du lịch sinh thái khá phong phú; là một vùng
4
bán sơn địa rộng lớn và tương đối bằng phẳng, có khu công nghiệp Phú Bài và hai
cụm làng nghề tiểu thủ công nghiệp là Thủy Lương và Thuỷ Phương đã thu hút một số
lượng lớn các doanh nghiệp đến đầu tư kinh doanh, giải quyết việc làm cho hàng ngàn
lao động tại địa phương, trong và ngoải tỉnh. Đó là điều kiện để trao đổi hàng hóa giữa
các vùng trong địa phương, trong huyện và các tỉnh thành trong cả nước.
Đó là lý do tôi đã chọn đề:“Phát triển tiểu thủ công nghiệp gắn với xây dựng
nông thôn mới ở thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp niên khóa 2011 - 2015 của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ
Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng Phát triển Tiểu, thủ công nghiệp và xây dựng
nông thôn mới của thị xã Hương Thủy từ đó tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng và đề
ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển Tiểu, thủ công nghiệp tại thị xã
cho phù hợp.
Nhiệm vụ:
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp,
về vị trí, vai trò, sự cần thiết và những xu hướng phát triển của các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp ở thị xã Hương Thủy.
Đánh giá thực trạng sự phát triển tiểu, thủ công nghiệp tại thị xã Hương Thủy
trong giai đoạn 2010 - 2013, những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng và tìm ra thế mạnh để phát triển các ngành nghề tiểu,
thủ công nghiệp.
Đề xuất phương hướng, các giải pháp nhằm phát triển một số ngành tiểu thủ
công nghiệp tại thị xã Hương Thủy trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu tình hình phát triển, sản xuất và
kinh doanh của các ngành Tiểu, thủ công nghiệp tại thị xã Hương Thủy như nghề
mộc mĩ nghệ, làm chổi đót,… Đối tượng trực tiếp là các chủ thể tham gia sản xuất
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong một số hộ và làng nghề truyền thống ở thị xã
Hương Thủy.
5
6
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Nghiên cứu phát triển tiểu thủ công nghiệp thuộc thị xã Hương
Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thời gian: Nghiên cứu phát triển tiểu thủ công nghiệp thuộc thị xã Hương
Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2010 - 2013 và những giải pháp đến năm 2020.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống Việt Nam đã được các
nhà khoa học, kinh tế quan tâm, nghiên cứu trên nhiều phương diện. Có thể nêu ra một
số đề tài như sau:
Đề tài Nghiên cứu Khoa học do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Bộ
Nông nghiệp phát triển nông thôn (MARD) Việt Nam chủ trì: “Nghiên cứu quy hoạch
phát triển ngành nghề thủ công theo hướng CNH - HĐH nông thôn Việt Nam”, tháng
9/2003.
Đề tài NCKH cấp bộ: “Phát triển thị trường làng nghề Tiểu, thủ công nghiệp
vùng Đồng bằng sông Hồng”, do PGS.TS Trần Văn Chử là Chủ nhiệm đề tài, năm
2004 - 2005
Luận án tiến sĩ: “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH
ở vùng ven thủ đô Hà Nội”, Mai Thế Hởn, năm 2003
Luận văn thạc sĩ: “Phát triển ngành nghề Tiểu thủ công nghiệp nông thôn ở
huyện Lập Trạch - Vĩnh Phúc”, Bùi Văn Dương, năm 2008
Một số bài viết khác như: “Phát triển làng nghề truyền thống với sự nghiệp CNH
- HĐH nông nghiệp nông thôn” của PGS.TS Nguyễn Huy Oánh, “Phát triển các nghề
Tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên” của Đỗ Xuân Luận, “Làng
nghề trong quá trình phát triển nông thôn theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn” của TS. Vũ Thị Hoa,....
Đã có nhiều công trình nghiên cứu và các bài báo, tạp chí khoa học viết về phát
triển TTCN ở nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau. Nhưng ở thị xã Hương Thủy chưa có
dề tài nghiên cứu chuyên sâu về phát triển TTCN gắn với nông thôn mới trong giai
đoạn hiện nay. Vì vậy, khóa luận này, hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào việc giải
quyết vấn đề phát triển Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, góp phần vào việc phát
7
triển kinh tế - xã hội (KT - XH) trên địa bàn Thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế
trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ đối tượng nghiên cứu, đề tài này được trình bày dựa trên cơ sở sự dụng
các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học kinh tế, phép duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp khoa học: Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số
liệu từ sách, báo, tài liệu, niên giám thống kê, báo cáo… từ các phòng, ban liên quan
của thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế; phương pháp thu thập số liệu sơ cấp,
chọn mẫu; phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu; phương pháp diễn dịch, quy nạp
6. Đóng góp của đề tài
Cung cấp tư liệu cho Thị xã Hương Thủy cũng như những địa phương khác xác
định phương hướng, hoạch định các chiến lược, chính sách để đẩy mạnh phát triển
Tiểu thủ công nghiệp gắn liền với việc phát triển nông thôn mới, qua đó góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị
cho những người quan tâm đến vấn đề này, nhất là sinh viên chuyên ngành KTCT.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung đề tài nghiên cứu khoa học này gồm kết cấu thành 3 chương
như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Phát triển tiểu, thủ công nghiệp gắn với
xây dựng nông thôn mới.
Chương 2: Thực trạng phát triển Tiểu, thủ công nghiệp gắn với xây dựng nông
thôn mới tại thị xã Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển tiểu thủ công nghiệp
gắn với xây dựng nông thôn mới ở thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế
8
NỘI DUNG
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
TIỂU, THỦ CÔNG NGHIỆP GẮN VỚI XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
1.1. Lý luận chung về Phát triển tiểu, thủ công nghiệp gắn với xây
dựng nông thôn mới
1.1.1. Một số khái niệm niệm
1.1.1.1. Khái niệm Tiểu, thủ công nghiệp và Tiểu, thủ công nghiệp truyền thống
Tiểu thủ công nghiệp (TTCN) là một lĩnh vực sản xuất có quan hệ với sản xuất
công nghiệp. Xét về trình độ kỹ thuật và hình thức tổ chức sản xuất, thì TTCN chính là
hình thức phát triển sơ khai của công nghiệp. Trong quá trình phát triển lịch, ngành
công nghiệp đã trải qua hình thái tiểu thủ công nghiệp, ở đây tiểu thủ công nghiệp có
thể là: Thủ công nghiệp và Tiểu công nghiệp.
a. Khái niệm thủ công nghiệp:
Thủ công nghiệp hay nghề thủ công được hiểu là hình thức sản xuất công nghiệp
sử dụng công cụ cầm tay, với hình thức sản xuất nguyên thủy, con người làm chức
năng phát lực, truyền lực, điều khiển công cụ; sản xuất mang tính chất gia đình, quy
mô nhỏ lẻ, có rất nhiều hạn chế, nhất là khâu kỹ thuật; cơ cấu sản phẩm đa dạng; tính
chất sản xuất: tự sản tự tiêu, tự cung tự cấp và kết hợp sản xuất hàng hóa.
b. Khái niệm Tiểu công nghiệp:
Thuật ngữ tiểu công nghiệp xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, chỉ một nền sản xuất
công nghiệp có quy mô nhỏ, không dùng máy móc hoặc dùng máy móc có công suất
thấp ở một số công đoạn sản xuất đã có từ trước. Mỗi quốc gia, trong các thời kỳ khác
nhau, có những khái niệm về tiểu thủ khác nhau:
Ở Nhật Bản, luật ban hành năm 1957 quy định: Các xí nghiệp sử dụng dưới 300
công nhân, mức vốn dưới 10 triệu yên, được thừa nhận hợp pháp là “tiểu công
nghiệp”, được hưởng những chính sách tài trợ về tiểu công nghiệp.
9
Ở Ấn Độ trước năm 1960 quy định TCN là những cơ sở có dưới 100 công nhân
nếu không dùng năng lượng, hay dưới 50 công nhân nếu có sử dụng năng lượng. Đến
1960 đã có sự thay đổi và căn cứ vào mức vốn không quá 500.000 Rupi hay 1.000.000
Rupi trong một số trường hợp đặc biệt.
Do có sự xác định khác nhau, năm 1952, Ủy ban kinh tế của Liên hiệp quốc đã
đưa ra định nghĩa để chuẩn hóa các thuật ngữ được sử dụng. Theo đó, công nghiệp sản
xuất quy mô nhỏ là loại xí nghiệp chủ yếu sử dụng nhân công được trả lương, số lượng
không quá 50 người ở mọi cơ sở sản xuất không dùng động lực hay dùng không quá
20 người trong một xí nghiệp có dùng động lực.
Ở nước ta, theo nghị định số 90/2001/NĐ - CP, tiểu công nghiệp là “doanh
nghiệp vừa và nhỏ, là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo phát luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người, và là doanh nghiệp được xếp hạng III tùy theo
ngành nghề nghề. Điểm xếp hạng, danh giới giữa doanh nghiệp hạng III với các hạng
khác quy định theo đặc điểm của các ngành đó”[4].
Trong Từ điển bách khoa Việt Nam (1995) thì Tiểu công nghiệp được định nghĩa
là: Tiểu công nghiệp, gồm những cơ sở sản xuất nhỏ, có trình độ trang bị kỹ thuật cơ
khí, nữa cơ khí, hoặc kỹ thuật tinh xảo; đa dạng hình thức sở hữu, với đa số quy mô
nhỏ và trình độ khác nhau; xu hướng tồn tại và phát triển lâu dài trong nền kinh tế hiện
đại; đặc điểm của mô hình này là: vốn ít, máy móc thiết bị và mặt bằng sản xuất nhỏ;
cơ cấu sản xuất đa dạng và linh hoạt; khả năng quản lý gọn nhẹ. Có thể kết hợp vừa
sản xuất thủ công vừa cơ giới; cơ cấu sản xuất rất đa dạng, bao gồm các ngành: khai
thác và chế biến tài nguyên, gia công cơ khí, điện tử, may mặc, giày da và một số
ngành truyền thống như gốm, mỹ nghệ, nữ trang, đồ gỗ. Nó hoàn toàn phù hợp với
điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, có thể sử dụng được nguồn lao động
trình độ khác nhau mà vẫn hiệu quả.
Tiểu công nghiệp là những đơn vị sản xuất công nghiệp có trang bị kĩ thuật cao
hơn thủ công nghiệp. Ở một số khâu, hay bộ phận trong dây chuyền sản xuất có thể
trang bị máy móc hiện đại, được chuyên môn hóa trong sản xuất.
10
Vậy điểm khác nhau của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp là trình độ kĩ thuật
của tư liệu sản xuất nhưng chúng có điểm giống nhau đều dựa trên quy mô sản xuất
nhỏ, tồn tại trong nền đại công nghiệp, chúng là một bộ phần của công nghiệp hỗ trợ.
c. Khái niệm Tiểu, thủ công nghiệp
Ở mỗi thời kì khác nhau, quan điểm về TTCN là khác nhau với những cách tiếp
cận khác nhau: Ngành nghề TTCN là ngành sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào đôi bàn
tay khéo léo của con người, các sản phẩm thủ công được sản xuất theo tính chất
phường hội, mang bản sắc truyền thống và có những bí quyết công nghệ riêng của
từng nghề, từng vùng. Quan điểm này mang tính cổ điển vì trong điều kiện ngày này,
do trình độ khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, việc đưa máy móc thiết bị vào
trong sản xuất TTCN là tất yếu, một số công đoạn sản xuất đã được đưa máy móc thiết
bị vào thay cho lao động thủ công để nâng cao năng suất lao động.
PGS. Vũ Huy Phúc trong công trình nghiên cứu “Tiểu, thủ công nghiệp Việt Nam
giai đoạn 1858 - 1945” đã đưa ra khái niệm TTCN như sau: “Tiểu, thủ công nghiệp
thời cận đại bao gồm toàn bộ nền sản xuất các mặt hàng tiêu dùng phi nông nghiệp
truyền thống hoặc mới du nhập do người Việt Nam tiến hành ở nông thôn, ở các làng
nghề và các đô thị, thị trấn, không loại trừ một bộ phận sản xuất của tư sản công
nghiệp nhỏ dân tộc”.[7]
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu khái niệm TTCN là toàn bộ cơ sở sản xuất
có quy mô nhỏ, được tiến hành bằng các kỹ thuật thủ công kết hợp với máy móc cơ
khí, chuyên sản xuất các mặt hàng tiêu dùng phi nông nghiệp truyền thống được tiến
hành sản xuất ở nông thôn, ở làng nghề, thị trấn, thị tứ và đô thị.
d. Khái niệm về Tiểu, thủ công nghiệp truyền thống:
Nghề TTCN ở Việt Nam thường được phát triển trong các thôn, làng xã và được
gọi là làng nghề. Làng nghề ở nông thôn Việt Nam có bề dày lịch sử lâu đời, nhưng
nhìn chung thì quy mô sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu và lực lượng lao
động trông làng nghề thường mang tính chất gia đình, không được đào tạo mà chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm, cha truyền con nối tại quê nhà
Làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Về cơ bản có hoạt
động sản xuất cùng ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở từng hộ gia đình
11
và các cơ sở sản xuất trong làng; có sử dụng lao động trong và ngoài địa phương, phát
triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ yếu của người dân trong
làng; có ít nhất một sản phẩm đặc trưng của làng đó [5]. Đặc trưng cơ bản của nghề
thủ công truyền thống là sử dụng công cụ, kĩ thuật và công nghệ sản xuất truyền thống
độc đáo với đội ngũ nghệ nhân và thợ lành nghề
Nghề TTCN truyền thống: Nghề TTCN truyền thống là những ngành nghề phi
nông nghiệp phát triển tới mức trở thành nguồn thu nhập chính, nuôi sống một bộ phận
dân cư cộng đồng; là những ngành nghề thủ công ra đời trong lịch sử được truyền từ
đời này sang đời khác, tồn tại đến ngày nay, trong đó bao gồm cả những nghề được cải
tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ
những công nghệ truyền thống. Và đặc biệt sản phẩm của nó thể hiện được nét văn hóa
đặc sắc của dân tộc, có giá trị và chất lượng cao, vừa là hàng hóa vừa là sản phẩm văn
hóa nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hóa của dân tộc [3].
1.1.1.2. Khái niệm Nông thôn, Nông thôn mới, kinh tế nông thôn
a. Nông thôn:
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội.
Nông thôn là một hệ thống xã hội, một cộng đồng xã hội có những đặc trưng
riêng biệt như một xã hội nhỏ, trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề xã hội và các
thiết chế xã hội. Nông thôn được xem xét như một cơ cấu xã hội, trong đó có hàng loạt
các yếu tố, các lĩnh vực nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đến nay, khái niêm nông thôn được thống nhất với quy định tại Theo Thông tư
số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, cụ thể: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã”.
b. Nông thôn mới:
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW ngày5/8/2008 của Ban chấp hành Trung
ương khóa X về nông nghiệp, nông thôn: Nông thôn mới là khu vực nông thôn có kết
cấu hạ tầng KT - XH từng bước hiện đại; có cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
12
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát
triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản
sắc văn hóa dân tộc; đảm bảo môi trường sinh thái; bảo vệ an ninh quốc phòng vững
mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, giảm
dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Củng cố lòng tin của Đảng và nhà nước
đối với nông dân và mang tính quyết định xây dựng thành công của Chủ nghĩa xã hội.
Về xây dựng nông thôn mới: Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và
cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia
đình và quê hương của mình ngày càng khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn
diện trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị và tư tưởng; xây dựng nếp
sống văn minh, môi trường sạch đẹp và an ninh quốc phòng vững mạnh; đời sống vật
chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp
cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không
chỉ là vấn đề KT - XH, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Ngoài ra, xây dựng
nông thôn mới còn giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết
giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
c. Kinh tế nông thôn:
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, kinh tế nông thôn (KTNT) là một
khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. KTNT vừa mang những đặc
trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh
tế... vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn. Vậy KTNT là
một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong nông - lâm - ngư nghiệp cùng với các ngành thủ công nghiệp truyền thống, các
ngành tiểu thủ công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương
nghiệp và dịch vụ… tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ
và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nếu xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành
kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, TTCN, dịch vụ... trong đó nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Nếu xét về mặt KT - XH,
13
kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế cá thể... Xét về không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các
vùng như: vùng trồng lúa, vùng trồng rau, vùng trồng cây ăn quả... [1].
Vậy KTNT là tổng thể các hoạt động diễn ra trên địa bàn nông thôn, có quan hệ
chặt chẽ với nông nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của ngành tiểu, thủ công nghiệp tại Việt Nam
Thứ nhất, sản phẩm làm ra chủ yếu bằng đôi bàn tay và trí óc của các nghệ nhân,
kinh nghiệm làm nghề được truyền từ đời này sang đời khác chủ yếu theo hình thức
cha truyền con nối. Vốn ít, không cần máy móc, trang thiết bị hiện đại hay mặt bằng
sản xuất lớn như các doanh nghiệp trong lĩnh vực khác.
Thứ 2, sản phẩm làm ra chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, đáp ứng được
nhu cầu của xã hội, ở địa phương, trong tỉnh và trong cả nước. Nguyên liệu cung cấp
cho sản xuất TTCN chủ yếu khai thác tại địa phương và các tỉnh trong cả nước, đó là
các sản phẩm của ngành nông nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành khai thác.
Thứ 3, Ngành TTCN có cơ cấu đa dạng và linh hoạt, dễ thích ứng với sự biến
động của thị trường, dễ thay đổi mẫu mã, giá thành sản phẩm cho phù hợp với nhu
cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
1.1.3. Vai trò của phát triển tiểu, thủ công nghiệp
1.1.3.1. Phát triển tiểu thủ công nghiệp là góp phần phát triển công nghiệp nông thôn
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Phát triển TTCN sẽ làm nâng tỷ trọng của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở
nông thôn và tăng tốc độ phát triển kinh tế nông thôn. Đồng thời với thúc đẩy phát
triển công nghiệp, phát triển các làng nghề sẽ kéo theo phát triển nông nghiệp để cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp, thúc đẩy sự
phát triển cở sở hạ tầng kỹ thuật. Việc tạo ra sản phẩm TTCN sẽ kích thích trao đổi
giữa các địa bàn, khu vực trong và ngoài nước, thị trường mở rộng tạo sự phát triển
các nghề dịch vụ, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động,… Do vậy, phát
triển các nghề TTCN sẽ góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy
CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.
14
1.1.3.2. Tiểu thủ công nghiệp góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao
động, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn
Với đặc điểm sản xuất nông nghiệp là theo mùa vụ chỉ tập trung vào một số
tháng trong năm và diện tích đất canh tác bình quân đầu người vào loại thấp, nên đã
dẫn đến tình trạng thất nghiệp thời vụ ở khu vực nông thôn ngày càng cao. Do vậy, vấn
đề giải quyết công ăn việc làm cho lao động ở nông thôn hết sức khó khăn, đòi hỏi sự
hỗ trợ nhiều mặt của các ngành nghề và khu vực. Việc mở mang, đầu tư phát triển
ngành nghề ở các làng nghề TTCN là một trong những biện pháp tốt nhất để huy động
nguồn lao động dư thừa ngày càng tăng ở khu vực nông thôn. Bởi vì, sản xuất TTCN
chủ yếu thực hiện bằng thủ công, không đòi hỏi cao về chuyên môn, kỹ thuật như đối
với các lĩnh vực khác. Người nông dân có thể xen kẽ phát triển TTCN trong thời gian
nhàn rỗi trong sản xuất nông nghiệp quanh năm. Theo kết quả điều tra của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, bình quân một cơ sở sản xuất chuyên ngành nghề tạo
ra việc làm ổn định trên 20 người, mỗi hộ gia đình tạo việc làm ổn định trên 6 người,
nhiều làng nghề tạo việc làm trên 50 lao động và sử dụng phần lớn lao động nông
nhàn. Thu nhập từ TTCN cao gấp 4 lần so với thu nhập bình quân trong nông nghiệp.
Điều này khẳng định vai trò rất lớn của các ngành TTCN trong việc cải thiện đời sống
ngày càng cao cho dân chúng.
Mặc khác, sự phát triển của các làng nghề đóng vai trò tích cực trong việc hạn
chế di dân tự do từ nông thôn ra thành thị. Người dân nông thôn khi có việc làm và thu
nhập ổn định, mà nguồn thu nhập này lại cao hơn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thì
họ sẽ không muốn đi tìm việc làm nơi khác. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất thủ công
trong làng nghè còn là nơi thu hút được một lực lượng đông đảo, già trẻ, người tàn tật
tham gia sản xuất ở những công đoạn đơn giản. Qua đó, góp phần tạo công ăn việc làm
cho người lao động, tăng thu thập, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ nghèo, góp
phần ổn định về chính trị vã xã hội. Đây cũng là một trong những chính sách của Đảng
và Nhà nước ta trong vấn đề quốc kế dân sinh. Vì vậy, việc phát triển TTCN là hết sức
cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
15
1.1.3.3. Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp sẽ góp phần phát triển kinh tế địa
phương.
TTCN góp phần quan trọng và bền vững vào tích lũy của nền kinh tế trên các
mặt: vốn, khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực và những nhân tố cơ bản khác. Công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là nghành có năng suất lao động và giá trị gia tăng cao
cho nên TTCN phát triển sẽ góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng
tích lũy cho các doanh nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện tăng
đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Mặt khác sự phát triển TTCN tác
động tích cực đối với nông nghiệp, như trong chế biến sản phẩm, điều đó cho thấy sự
phát triển TTCN nông thôn sẽ tạo ra tác động kép trong sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế cho địa phương, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Tạo thị trường
nông thôn rộng và sâu, cung cấp hàng hóa cho thị trường nông thôn, tạo nên cầu về
hàng hóa ở làng nghề, khu công nghiệp ở nông thôn.
1.1.3.4. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nghề TTCN góp phần làm tăng giá trị tổng
sản phẩm hành hóa cho nền kinh tế, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương
Phát triển TTCN có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế, xã hội nông thôn.
Hàng năm, các làng nghề ở khắp các vùng nông thôn luôn sản xuất ra một khối lượng
sản phẩm hàng hóa khá lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, đóng
góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng.
Năng lực sản xuất, kinh doanh của các làng nghề là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát
triển sản xuất hàng hóa nông thôn. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào có nhiều làng
nghề thì ở đó kinh tế hàng hóa phát triển. Mặc khác, các nghề thủ công còn khai thác
triệt để hơn các nguồn lực địa phương về sức lao động, nguyên vật liêu, vốn. Một khi
các nghề TTCN phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao
cùng với những kỹ thuật và công nghệ tiến bộ được áp dụng vào sản xuất, làm cho sản
phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như
vậy nghề TTCN càng phát triển mạnh, càng tạo ra điều kiện để góp phần phát huy tiềm
năng, lợi thế của địa phương.
16
1.1.3.5. Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp sẽ góp phần bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc của địa phương
Làng nghề là một môi trường kinh tế, xã hội và văn hóa thu nhỏ. Lịch sử phát
triển kinh tế cũng như phát triển nền văn hóa Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát
triển của các làng nghề truyền thống. Làng nghề là nơi bảo lưu những tinh hoa nghệ
thuật và kỹ năng từ đời này sang đời khác, được hun đúc từ bàn tay các thế hệ nghệ
nhân tài ba và những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng. Bởi vậy, các làng nghề
truyền thống cần được coi trọng, bảo tồn và phát triển. Bảo tồn và phát triển các làng
nghề là tăng thêm sức mạng nguồn cội, gieo vào lòng mỗi người Việt Nam tình cảm
dân tộc, yêu quý, giữ gìn di sản và bản sắc dân tộc.
1.1.4. Nhân tố tác động đến sự phát triển tiểu, thủ công nghiệp
Quá trình hình thành và phát triển các ngành nghề TTCN chịu ảnh hưởng của
nhiền nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát
triển gồm có:
1.1.4.1. Cơ chế chính sách về phát triển các nghề TTCN
Để phát triển các nghề TTCN thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Cơ
chế và chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng đến sự phát triển nghề TTCN. Nhà
nước phải tạo ra hành lang phát lý và môi trường kinh doanh thuận lợi, hệ thống chính
sách phải đồng bộ và phù hợp với thực trạng nền kinh tế trong từng thời kỳ, là động
lực thúc đẩy, kích thích ngành nghề TTCN phát triển, góp phần khai thác một cách tốt
nhất các tiềm năng của địa phương, bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống văn
hóa của dân tộc. Nếu chính sách đề ra tốt, phù hợp sẽ thúc đẩy TTCN và ngược lại nếu
chính sách không sát thực, không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của các ngành
nghề TTCN nông thôn.
1.1.4.2. Vốn cho phát triển kinh doanh
Vốn có vai trò quan trong trong việc thay đổi trang thiết bị máy móc, công nghệ
hiện đại, thuê mặt bằng để sản xuất, thuê nhân công có tay nghề cao để nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn
còn thiếu, đa phần là vốn tự có hoặc vốn vay mượn của anh em, họ hàng thân thích
trong nhà, một số cơ sở còn vay phải đi vay vốn bên ngoài với lãi suất rất cao. Tỷ lệ
17
được vay vốn của các cơ sở sản xuất ngành nghề còn chưa cao. Theo Hiệp hội Doanh
nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, hiện nay chỉ có 32,38% doanh nghiệp có khả năng tiếp
cận và được vay vốn Nhà nước thường xuyên, 35,24% doanh nghiệp khó tiếp cận, số
còn lại không thể tiếp cận vốn.
1.1.4.3. Nguồn nguyên vật liệu
Nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất TTCN. Khối lượng,
chất lượng của nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm
của các đơn vị sản xuất. Cho nên, phải chú ý nhiều đến yếu tố nguyên vật liệu. Trước
đây, phần lớn các làng nghề được hình thành do có nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, có
sẵn tại địa phương. Ngày nay, nguồn nguyên liệu tại chỗ của nhiều làng nghề đang dần
bị cạn kiệt, phải vận chuyển từ những nơi khác về. Điều kiện khai thác, vận chuyển,
bảo quản có ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nguyên liệu cho các làng nghề. Trong
điều kiện khoa học và công nghệ phát triển như hiện nay, nguyên vật liệu cho các làng
nghề đã có sự phong phú và đa dạng. Vấn đề chọn lựa và sử dụng nguyên vật liệu hợp
lý theo hướng đa dạng hóa, giá rẻ, bảo đảm quy trình sản xuất, đảm bảo sản phẩm có
chất lượng cao, giá thành ổn định là điều cần được quan tâm.
1.1.4.4. Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao
động, chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
hàng hóa trên thị trường. Hiện nay, phần lớn các cơ sở sản xuất TTCN vẫn sử dụng lao
động thủ công, bán cơ khí là chủ yếu nên sản phẩm làm ra chất lượng sản phẩm còn
thấp, không đồng bộ, giá thành còn cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn kém.
Vì vậy, để có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm cần phải đổi mới trang thiết bị, khoa học công nghệ
vào các lĩnh vực sản xuất.
1.1.4.5. Nhu cầu người tiêu dùng
Tất cả các sản phẩm khi mang ra thị trường đều phải tuân thủ theo quy luật cung
cầu của thị trường. Sản phẩm phải đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
thì mới có thể tiêu thụ được như chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đa dạng. Tuy nhiên,
sản phẩm của ngành TTCN của Việt Nam nhìn chung còn đơn điệu, chất lượng chưa
18
cao, kiểu dáng, mẫu mã chưa phong phú, chưa đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của
người tiêu nên đa số chỉ tiêu thụ trong nước, chỉ có một số ít mặt hàng được xuất khẩu
ra bên ngoài. Vì vậy, việc nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng và đáp ứng được
những thay đổi thị hiếu đó sẽ là vấn đề hết sức cần thiết cho quá trình tiêu thụ sản phẩm.
1.1.4.6. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là nhân tố có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sản xuất
phát triển. Giao thông vận tải là yếu tố quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa từ
nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, vận chuyển các đầu vào cho quá trình sản xuất. Do vậy,
hệ thống đường xá và các phương tiện giao thông vận tải phát triển sẽ bảo đảm cho
quá trình lưu thông hàng hóa được thông suốt, kịp thời.
Sự phát triển của các nghề TTCN cũng chịu ảnh hưởng bởi hệ thống cung cấp
điện, nước, và thoát nước. Vì chúng ảnh hưởng trực tiếp tới việc đưa thiết bị, công
nghệ, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền, làm tăng năng suất lao động,
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và làm giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó, hệ thống cửa hàng, nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm, cũng là
nhân tố tích cực giúp cho việc quảng cáo, tiêu thụ sản phẩm. Trường học, bệnh viện là
nơi giúp phát triển trình độ, tri thức, sức khỏe cũng như kỹ thuật tay nghề của người
lao động được phát triển cao.
1.1.5.Phát triển tiểu thủ công nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới là yêu
cầu trong giai đoạn hiện nay
Phát triển TTCN góp phần tăng thu nhập của người dân, đồng thời tạo ra nguồn
vốn tích lũy khá lớn và ổn định cho các hộ gia đình cũng nhu cho ngân sách địa
phương. Đó là nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Ở những địa
phương có TTCN phát triển, cơ sở hạ tầng được đầu tư, nâng cấp, đường làng, ngõ
xóm gần như 100% được bê tông hóa, phục vụ cho giao thông đi lại. Hệ thống điện
nước được cải tạo và nâng cấp để phục vụ cho đời sống người dân cũng như phục vụ
cho việc sản xuất, kinh doanh. Đời sống văn hóa và tinh thần của người dân được từng
bước cải thiện và nâng cao. Các trường dạy nghề, đào tạo văn hóa được quan tâm đầu
tư, cải tạo cơ sơ khang trang đảm bảo cho người dân được học tập, nâng cao trình độ
văn hóa, tay nghề.
19
Nhìn một cách tổng thể vào kinh tế, TTCN có vai trò không kém phần quan trọng
trong việc xóa đói giảm ngèo thông qua việc tăng năng xuất, sản lượng trong ngành
mình cũng như các ngành liên quan. Qua đó, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giữa
thành thị và nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ nông nghiệp, nông thôn theo hướng
hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Vì vậy, việc phát triển TTCN gắn với xây dựng nông
thôn mới là yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Kinh nghiệm một số nước trên thế giới
1.2.1.1.
Nhật Bản
Nhật Bản rất quan tâm, chú trọng trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề
TTCN truyền thống. Qua thống kê, Nhật Bản có 867 nghề thủ công truyền thống như
đan lát, dệt chiếu, chế biến lương thực, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, dệt lụa, rèn
công cụ. Nhũng năm 70 của thế kỉ XX, ở tỉnh OITA có phong trào “Mỗi nông thôn
một sản phẩm” nhằm phát triển nghề cổ truyền trong nông thôn, và ngay những năm
đầu tiên của phong trào họ đã có được 143 loại sản phẩm với doanh thu 1,2 tỷ USD.
Phong trào này đã nhanh chóng lan rộng khắp nước Nhật.
Biện pháp hàng đầu mà Nhật Bản áp dụng để hiện đại hóa ngành TTCN là đầu tư
để đào tạo các nhà cố vấn dưới sự hỗ trợ của trên 300 viện đào tạo nghề. Biện pháp tiếp
theo là chú trọng tài trợ vốn cho phát triển TTCN thông qua việc thành lập nhiều ngân
hàng phục vụ TTCN phát triển. Năm 1974, “Luật nghề truyền thống” đã được ra đời.
Như vậy cho dù là một đất nước công nghiệp hiện đại và phát triển rất mạnh như
ở Nhật Bản thì ngành nghề TTCN vẫn được quan tâm, phát triển. Hiện nay, Nhật Bản
vẫn đang có nhiều mặt hàng dân dụng được sản xuất bằng phương pháp kỹ thuật
truyền thống, góp phần làm phong phú sản phẩm hàng hóa và phát triển kinh tế của đất
nước, của khu vực [2].
1.2.1.2.
Thái Lan
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, Thái Lan vẫn còn là nước lạc hậu, yếu kém về
nông nghiệp và công nghiệp nên họ đã lựa chọn con đường công nghiệp hóa - hiện đại
hoá, để nâng cao mức sống của người dân nông thôn, đi đôi với việc khuyến khích phát
triển nông nghiệp theo hướng xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan chủ động phát triển các làng
20
nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa.
Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc, đá quý, đồ
trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hàng hóa xuất khẩu, xếp vào hàng thứ
hai trên thế giới, do kết hợp được tay nghề của các nghệ nhân lành nghề với công
nghệ, kỹ thuật, thiết bị hiện đại. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ vàng bạc đá
quý năm 1990 đạt 2 tỷ USD.
Nghề gốm sứ cổ truyền ở Thái Lan trước đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu
trong nước. Gần đây ngành này phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa
và trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ lớn thứ hai sau gạo. Cho đến nay 95%
hàng gốm xuất khẩu của Thái Lan là đồ trang trí nội thất và lưu niệm. Nhưng khủng
hoảng tài chính năm 1997 đã đẩy Thái Lan vào tình trạng nợ nước ngoài lớn, người bị
tác động nhiều nhất là những người nghèo, những cư dân sống ở nông thôn. Vậy để
giải quyết khó khăn và vực dậy nền kinh tế, Thái Lan đã thực hiện dự án quốc gia
“mỗi làng một sản phẩm” (mô hình tổ chức này bắt nguồn từ phong trào mỗi làng một
sản phẩm của Nhật Bản như đã trình bày ở mục 1.2.1.1 và được Thái Lan vận dụng có
kết quả).
Dự án này có sáu mục tiêu cụ thể: Thứ nhất, tạo ra những đặc điểm riêng biệt cho
sản phẩm của địa phương để tăng doanh số bán; thứ hai, phục hồi những kiến thức của
địa phương để nâng cao hiệu quả kinh doanh; thứ ba, phát huy những tri thức truyền
thống để tạo ra sản phẩm có tính đặc thù; thứ tư, kết hợp giữa phát triển du lịch sinh
thái với du lịch thăm quan các làng nghề để tăng thu nhập; thứ năm, xây dựng lòng tự
hào dân tộc của nhân dân với các sản phẩm làng nghề; thứ sáu, hỗ trợ các doanh nghiệp
địa phương phát triển và cạnh tranh trên thị trường quốc tế [2].
1.2.2. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước
1.2.2.1.
Kinh nghiệm tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh được cả nước biết đến không chỉ bởi những làn điệu quan họ
mượt mà, mà còn là địa phương có nhiều nghề tiểu thủ công nghiệp cổ truyền. Bắc
Ninh có một hệ thống với 64 làng nghề, sự tồn tại và phát triển của các làng nghề đã
góp phần quan trọng vào phát triển KT - XH của Tỉnh, tính từ năm 1997 - 2011, giá trị
21
sản xuất của khu vực làng nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm 75 - 80% giá trị sản xuất
công nghiệp ngoài quốc doanh và trên 30% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh; giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn, tăng thu nhập, nâng cao mức sống và bảo đảm
an sinh xã hội. Trong những năm gần đây, với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, các làng nghề và ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển mạnh
mẽ.
Để có được kết quả như trên, tỉnh Bắc Ninh đã và đang thực hiện nhiều giải pháp
quan trọng như xây dựng và quản lý các cụm công nghiệp làng nghề, đa dạnh hóa các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng và phát triển đồng bộ thị trường, nâng
cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,... Trong đó, nổi bật
nhất là chủ trương xây dựng các khu và cụm làng nghề tiểu thủ công nghiệp với các
chính sách ưu đãi để khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia. Tỉnh Bắc Ninh đã
chủ trương phát triển làng nghề theo hướng đa dạng hóa hình thức sở hữ, mô hình tổ
chức sản xuất, ưu tiên áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, kết hợp với công nghệ cổ
truyền trong các làng nghề. Song song với phát triển làng nghề tiểu, thủ công nghiệp,
còn đặc biệt quan tâm tới vấn đề môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững
như quy hoạch hạ tầng cho các làng nghề, di dời các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp gây ô nhiễm nằm xen kẽ trong khu dân cư đến các khu sản xuất tập trung [5].
1.2.2.2.
Kinh nghiệm tỉnh Lào Cai
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, sản
xuất TTCN tỉnh Lào Cai đã có bước phát triển vượt bậc và đúng hướng, khai thác tốt
các tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn về vùng nguyên liệu, nguồn lao động, và nghề
truyền thống..., tốc độ tăng trưởng bình quân tăng cao. Đầu tư cho sản xuất TTCN tăng
mạnh, số cơ sở sản xuất TTCN tăng nhanh, quy mô được mở rộng, chất lượng hiệu
quả được nâng cao. Đến nay trên địa bàn toàn tỉnh có 6.810 cơ sở sản xuất TTCN, tạo
việc làm cho 15.380 lao động, với thu nhập bình quân trên 20 triệu đồng/người/năm.
Giá trị sản xuất TTCN năm 2010 đạt 281 tỷ đồng, bằng 2,83 lần so với năm 2005, tốc
độ tăng trưởng bình quân đạt 23%.
Để có được sự tăng trưởng như trên, tỉnh Lào Cai đã đề ra các giải pháp quan
trọng về cơ chế, chính sách: điều chỉnh, bổ sung các chính sách khuyến khích phát
22
triển TTCN, bổ sung các cơ chế chính sách, quy đinh hiện hành theo hướng mở rộng
thêm các nội dung và hình thức hỗ trợ, tăng thêm mức hỗ trợ và đơn giản hóa thủ tục
cho các đối tượng được thụ hưởng; tạo điều kiện vay vốn cho các cơ sở làm nghề
TTCN, hình thành và phát triển Quỹ bảo lãnh tính dụng đối với các dự án sản xuất
TTCN; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, có chính sách thỏa
đánh để thu hút nhân tài, người có tay nghề cao, nghệ nhân tham gia hoạt động trong
lĩnh vực TTCN; phối hợp với các trường đại học, học viện nghiên cứu xây dựng
chương trình đào tạo nghề, nâng cao kiến thức về quản lý, quản trị kinh doanh đối với
công nghiệp nông thôn, nhất là làng nghề, nghề thủ công đáp ứng được nhu cầu trong
thời kỳ hội nhập kinh tế, có chính sách quan tâm đến đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi trong
lĩnh vực sản xuât TTCN; tăng cường công tác tư vấn, hỗ trợ việc xúc tiến thương mại
cho các đơn vị sản xuất TTCN, làng nghề thông qua quảng cáo, tham gia hội chợ, cung
cấp thông tin về thị trường [5].
1.2.3. Bài học rút ra cho thị xã Hương Thủy
Từ thực tiễn phát triển các nghề TTCN ở một số nước trên thế giới và ở Việt
Nam, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho thị xã Hương Thủy như sau:
Một là, muốn phát triển các nghề TTCN thực sự có hiệu quả trước hết cần phải
có sự quan tâm hỗ trợ một cách toàn diện của Chính quyền địa phương, Đảng và Nhà
nước, như: ban hành những quy định, pháp chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho
việc sản xuất kinh doanh; hỗ trợ giúp đỡ cho người lao động, làm nghề tiếp cận được
nguồn vốn (vay vốn không cần thế chấp hoặc vay vốn với lãi suất thấp); tạo nền tảng
và động lực cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình trong ngành TTCN phát
triển. Chính quyền địa phương phải đảm bảo nguồn nguyên liệu, nâng cấp cơ sở hạ
tầng, tăng cường mở thêm các trung tâm, trường dạy nghề để đào tạo lao động, quảng
bá sản phẩm của thị xã ra thị trường,...
Hai là, việc sản xuất các loại hàng hóa phải xuất phát từ nhu cầu thị trường. Các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cần phải nghiên cứu, tìm tòi cải tiến mẫu mã; áp dụng
các công nghệ kỹ thuật mới, hiện đại nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm
đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của thị trường và hạn chế ô nhiễm môi trường. Qua
đó, mới có thể cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại trong và ngoài tỉnh.
23
Ba là, tăng cường việc đào tạo nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
cho người lao động thông qua việc mở ra các trung tâm đào tạo, trường dạy nghề, viện
nghiên cứu trên địa bàn thị xã. Việc dạy nghề cho người lao động phải phù hợp với
định hướng phát triển các ngành nhề của địa phương, đảm bảo sau khi học xong người
lao động có việc làm ngay. Bên cạnh đó, cần tôn vinh những nghệ nhân, người trực
tiếp làm nên các sản phẩm thủ công độc đáo; quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để họ có
thể vững tâm tiếp tục làm nghề.
Bốn là, thành lập các tổ chức, hiệp hội, liên doanh hợp tác xã ngành nghề TTCN
và phát huy vai trò của nó trong việc hỗ trợ các vấn đề về vốn, thị trường tiêu thụ, đào
tạo, nguồn nguyên liệu,...
Năm là, phát triển các nghề TTCN, đặc biệt là các làng nghề phải xuất phát từ
những chính sách bảo tồn và phát triển truyền thống. Những làng nghề mang những
nét đặc sắc riêng biệt, tạo nên một quần thể văn hóa đặc trưng riêng của từng vùng
thường là nơi thu hút nhiều sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Vì vậy, cần
phát triển làng nghề truyền thống với phát triển du lịch làng nghề.
24
Chương 2.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TIỂU, THỦ CÔNG NGHIỆP
GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THỊ XÃ
HƯƠNG THỦY, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của thị xã Hương
Thủy
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1.
Vị trí địa lý
Hương Thủy là thị xã nằm ở khu vực trung tâm tỉnh Thừa Thiên Huế, là cửa ngõ
phía Nam của thành phố Huế. Toàn thị xã có 12 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm
5 phường và 7 xã với tổng diện tích đất tự nhiên là 45.602,07 ha. Phía Bắc giáp thành
phố Huế và huyện Phú Vang, phía Đông giáp huyện Phú Lộc, phía Nam giáp huyện
Nam Đông và phía Tây giáp thị xã Hương Trà và huyện A Lưới.
Thị xã Hương Thủy có vị trí tự nhiên thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các
huyện trong và ngoài tỉnh. Hệ thống giao thông với các tuyến giao thông chính là quốc
lộ 1A, đường chánh phía Tây và tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua suốt chiều dài của
thị xã, nối liền thành phố Huế với các tỉnh phía Bắc và đường Hồ Chí Minh. Đặc biệt,
có cảng hàng không Phú Bài, khu công nghiệp Phú Bài, góp phần trong việc mở rộng
và trao đổi hàng hóa giữa các vùng của địa phương, trong và ngoại tỉnh.
2.1.1.2.
Khí hậu, thời tiết
Thị xã Hương Thủy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nhiệt độ quanh
năm ở mức cao và có lượng mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25 0C đến
270C, nhiệt độ trung bình năm cao nhất vào tháng 7 khoảng 29,9 0C, nhiệt độ trung bình
năm thấp nhất vào tháng 1 khoảng 19,90C. Lượng mưa trung bình là 2844mm/năm và
phân bố không đồng đều. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, chiếm khoảng 60%
lượng mưa cả năm. Độ ẩm trung bình là 85% - 90%. Thời kì khô từ tháng 5 đến tháng 9,
thời kì ẩm từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Thị xã Hương Thủy có 2 mùa gió chính là
25