Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.4 KB, 12 trang )

Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

A – Đặt vấn đề
Vi phạm hành chính diễn ra khá phổ biến trong đời sống xã hội. Vì vậy việc xử lý vi
phạm hành chính cũng như việc ban hành các văn bản trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành
chính cần phải nâng cao hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy việc xác định quyền hạn, nhiệm vụ
của cán bộ, công chức có thẩm quyền xử lý vi phạm rõ ràng khoa học thì việc xử lý vi phạm
có hiệu quả hơn. Đặc biệt là trong xử phạt vi phạm hành chính, vấn đề thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính được coi là vấn đề quan trọng, mấu chốt. Bên cạnh đó thì vấn đề thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính cũng không kém phần quan trọng.

B – Giải quyết vấn đề
I – Một số khái niệm liên quan.
Trước hết vi phạm hành chính có thể hiểu như sau :“ Vi phạm hành chính là hành vi do
cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lí nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành
chính”.
Từ khái niệm trên thì ta thấy những hành vi vi phạm hành chính đều bị xử phạt hành
chính. Vậy có thể hiểu :“ Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế nhà nước do cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành, áp dụng các biện pháp xử phạt đối với cá nhân, tổ
chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính, biểu hiện thông qua việc áp dụng các hình thức
xử phạt hành chính cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm gây
thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho cá nhân, tổ chức vi phạm”.
Việc xử phạt hành chính phải do người có thẩm quyền xử phạt hành chính thực hiện.
Vậy thẩm quyền xử phạt hành chính là quyền hạn và nhiệm vụ xử phạt hành chính của cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành xử phạt hành chính theo thủ tục xử phạt và
trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.

II – Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính.
Những qui định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền và thủ tục XPVPHC chủ yếu


được thể hiện trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008) và các nghị định qui định chi tiết về XPVPHC trong các lĩnh vực khác nhau trong quản
lý nhà nước.
Tính hợp lí về thẩm quyền và thủ tục XPVPHC là những yêu cầu xuất phát từ thực tiễn
của hoạt động quản lí hành chính cũng như trên cơ sở của sự kiểm chứng khoa học. Tuy
nhiên việc đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục XPVPHC là một vấn
Trần Thị Ninh - 341226

1|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

đề khá phức tạp bởi lẽ việc xác định tính hợp lý là một vấn đề không dễ dàng. Có những qui
định của pháp luật luôn thể hiện tính hai mặt của nó. Ví dụ trong trường hợp này thì qui định
này được xem là hợp lý, nhưng đặt trong hoàn cảnh khác lại không hợp lý hoặc trái với các
văn bản có hiệu lực pháp luật cao hơn…

1. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
a, Những điểm hợp lí.
Các qui định về thẩm quyền XPVPHC hợp thành một hệ thống pháp luật tương đối
phức tạp. Chủ yếu tập trung trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm
2007,2008) và các nghị định của Chính phủ cụ thể hóa thẩm quyền xử phạt trên các lĩnh vực
quản lí chuyên ngành. Có thể nói, Pháp lệnh được ban hành đã tháo gỡ được nhiều khó khăn,
vướng mắc trong xử phạt vi phạm hành chính nói chung và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính nói riềng.
- Trước hết có thể thấy rằng thẩm quyền XPVPHC được quy định một cách khá tập
trung và tương đối đầy đủ, rõ ràng trong Pháp lệnh XLVPHC. Đây là căn cứ quan trọng và
điều kiện thuận lợi để qui định cụ thể trong các nghị định về XPVPHC trong các lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước. Các nghị định này về cơ bản đã đảm bảo tính thống nhất và

đồng bộ của hệ thống pháp luật qui định về thẩm quyền xử phạt.
- Về số lượng các chức danh có thẩm quyền XPVPHC được quy định trong hệ
thống văn bản về xử phạt vi phạm hành chính là tương đối đầy đủ. Ở các cấp, các nghành,
các lĩnh vực quản lý nhà nước đều có các chức danh được trao thẩm quyền tiến hành các hoạt
động này. Đồng thời theo đó không một loại cơ quan nào được thành lập riêng để tiến hành
việc XPVPHC mà thẩm quyền xử phạt chủ yếu thuộc về cơ quan quản lý nhà nước từ trung
ương đến địa phương và được xác định cụ thể cho các chức danh trong từng cơ quan đó.
Ngoài ra một số các chức danh trong cơ quan tư pháp và thi hành án cũng có thẩm quyền xử
phạt như thẩm phán chủ tọa phiên tòa, chấp hành viên, đội trưởng và trưởng phòng thi hành
án dân sự. Đây là một điều kiện quan trọng để đảm bảo phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp
thời mọi trường hợp vi phạm, đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc thứ nhất trong XLVPHC là:
“Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay”. Như vậy
mọi hành vi vi phạm hành chính đều bị xử phạt hành chính bởi những chủ thể có thẩm quyền.
- Việc qui định thêm chức danh có thẩm quyền XPVPHC trên tinh thần ghi nhận các
chức danh này do các luật, pháp lệnh quy định như Cục trưởng cục kiểm tra sau thông quan
của Tổng cục hải quan; người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ
quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước nước ngoài đã
phần nào đáp ứng được đòi hỏi của quản lý nhà nước, kịp thời trao thẩm quyền XPVPHC
Trần Thị Ninh - 341226

2|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

trong một số lĩnh vực chuyên ngành cho các chức danh mà pháp lệnh XLVPHC chưa qui
định. Ngoài ra còn nâng thẩm quyền phạt tiền cho một số chức danh ở cấp cơ sở như Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã từ 500.000 đồng lên 2.000.000 đồng, chiến sĩ cảnh sát nhân dân từ
100.000 đồng lên 200.000 đồng…để việc xử phạt được tiến hành nhanh chóng, khắc phục
tình trạng vụ việc phải chuyển lên cấp trên xử phạt.

- Bên cạnh đó có thể thấy rằng đã có sự phân hóa trong các qui định về thẩm quyền
XPVPHC. Như người có chức vụ cao hơn cũng đã được trao quyền rộng hơn và đương nhiên
trách nhiệm của những người này cũng nặng nề hơn, như thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân được qui định tương đối toàn diện hơn các chức danh hoạt động trong từng ngành
hoặc lĩnh vực quản lý cùng cấp; mức tiền phạt trong các lĩnh vực quản lý khác nhau cũng
được qui định khác nhau cho phù hợp với đặc thù của lĩnh vực quản lý. Việc phân hóa như
vậy là phù hợp bởi lẽ người giữ chức vụ càng cao thì quyền hạn càng rộng.
- Nhìn chung các qui định hiện hành đi theo hướng trao thẩm quyền XPVPHC gắn với
thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra (trừ
những chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ở cấp thấp). Điều này góp phần
quan trọng trong việc giáo dục, răn đe người vi phạm, bảo đảm khắc phục hậu quả của vi
phạm cũng như nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính.
- Để tránh việc chồng chéo, trùng lặp hay lúng túng trong việc XPVPHC thì các qui
định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giải quyết được những vướng mắc và cũng giúp
cấp trên của họ có thể dễ dàng đánh giá kết quả của hoạt động XPVPHC nói chung cũng như
xác định trách nhiệm của cấp dưới trong những vụ việc cụ thể.
- Ngoài các qui định về xác định đúng thẩm quyền thì việc ủy quyền được đặt ra tương
đối hợp lý. Pháp lệnh XLVPHC qui định rõ người có thẩm quyền XPVPHC chỉ có thể được
ủy quyền trong trường hợp vắng mặt. Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 đã đặt ra
những đòi hỏi khắt khe khi tiến hành ủy quyền cho cấp phó trực tiếp của mình, việc ủy quyền
phải được thể hiện bằng văn bản và người được ủy quyền không được ủy quyền tiếp. Việc ủy
quyền được quy định một cách chặt chẽ như vậy nhằm tránh việc lạm dụng quyền hạn,tránh
sự tùy tiện trong XPVPHC.

b,Những điểm bất hợp lí.
Bên cạnh những ưu điểm, hệ thống qui định về thẩm quyền XPVPHC còn bộc lộ những
điểm chưa hợp lí như:
-Pháp lệnh XLVPHC đã qui định bằng cách liệt kê các chức danh có thẩm quyền xử
phạt gắn với mức xử phạt, hình thức xử phạt cụ thể, không có quy định “mở” về thẩm quyền,

Trần Thị Ninh - 341226

3|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

theo cách qui định này những chức danh nào được chỉ rõ trong Pháp lệnh mới có thẩm quyền
xử phạt. Do vậy còn bộc lộ hạn chế là chưa thực sự linh hoạt trong xử phạt vi phạm hành
chính để theo kịp những thay đổi về tổ chức trong các cơ quan quản lý và thực tiễn công tác
đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính và chưa phù hợp với tình hình phát triển kinh tếxã hội. Bên cạnh đó trong điều kiện một đất nước đang tiến hành những cải cách sâu rộng,
nền kinh tế đang phát triển rất nhanh kéo theo những thay đổi về kinh tế, xã hội, môi
trường…thì những quy định này bộc lộ những hạn chế. Mỗi khi cơ quan quản lý chuyên
nghành mới được thành lập lại xuất hiện nhu cầu bổ sung chức danh có thẩm quyền xử phạt.
Trong tiến trình cải cách hành chính hiện nay thì nhu cầu này xuất hiện tương đối thường
xuyên mà việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh XLVPHC lại không thể tiến hành thường xuyên.
Ví dụ như PL XLVPHC năm 2002( sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) không quy định thẩm
quyền xử phạt của cá nhân đứng đầu cơ quan thuộc Bộ như Cục trưởng Cục bảo vệ thực vật,
Cục thú y (thuộc Bô nông nghiệp và phát triển nông thôn); Cục vệ sinh an toàn thực phẩm
(thuộc Bộ y tế)…mặc dù các cục và tổng cục được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản lí nhà
nước chuyên ngành.
- Các qui định về thẩm quyền của một số chủ thể xử phạt vi phạm hành chính trong
một số lĩnh vực chưa có sự thống nhất giữa Pháp lệnh XLVPHC với các văn bản pháp luật
quản lý hành chính đơn hành. Chẳng hạn theo qui định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 40
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008) thì Cục trưởng Cục
quản lý cạnh tranh và chủ tịch hội đồng cạnh tranh được quyền xử phạt hành vi vi phạm
hành chính với mức phạt tối đa là 70 triệu đồng. Trong khi đó theo qui định của Luật cạnh
tranh năm 2005 thì cơ quan có thẩm quyền duy nhất được xử phạt hành chính đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh là cơ quan quản lý cạnh tranh (Điều 49). Và cơ quan quản lý
cạnh tranh được phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm pháp

luật về cạnh tranh trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm (khoản 1 Điều
118 Luật cạnh tranh năm 2005). Như vậy vấn đề ở đây là nếu cá nhân hoặc doanh nghiệp
nào vi phạm về luật cạnh tranh mà năm trước đó có tổng doanh thu lên đến 100 tỷ đồng hoặc
nhiều hơn thế nữa thì mức phạt sẽ cao hơn rất nhiều so với mức phạt qui định tại Điều 40
của Pháp lệnh XLVPHC. Theo qui định tại Điều 83 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp
luật năm 2008 thì: “trong trường hợp các văn bản có qui định khác nhau về cùng một vấn đề
thì áp dụng văn bản có hiêu lực pháp lý cao hơn. Như vậy trong trường hợp này chúng ta sẽ
áp dụng theo qui định của Luật cạnh tranh thì thẩm quyền và mức xử phạt tiền của cơ quan
quản lý cạnh tranh thực tế sẽ vượt quá qui định mức phạt tiền tối đa đến 500 triệu đồng theo
qui định tại khoản 1 Điều 14 của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm
2008). Như vậy theo qui định của hai văn bản nêu trên thì phải áp dụng văn bản nào cho
chính xác?

Trần Thị Ninh - 341226

4|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

- Quy định về thẩm quyền xử phạt của lực lượng thanh tra chuyên ngành còn nhiều
điểm bất hợp lí. Thẩm quyền xử phạt của các chức danh thanh tra viên chuyên nghành trong
tất cả các nghành, lĩnh vực đều giống nhau trong khi đó các vi phạm hành chính trên các lĩnh
vực quản lí rất khác nhau; Một nghịch lý khác nữa là trong cùng một Bộ, ví dụ Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, thì một số Cục quản lý chuyên ngành lại được trao thẩm
quyền xử phạt (ví dụ Cục Kiểm lâm) nhưng các Cục khác (ví dụ Cục Bảo vệ thực vật, Cục
bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản) thì lại không được trao thẩm quyền này và phải “chờ” thanh tra
chuyên ngành xuống để xử phạt, trong khi chức năng, phạm vi quản lý gần như tương
đương.Trên thực tiễn, do tính chất quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của các cơ quan quản lý nhà
nước hiện nay chưa thật hợp lý về tổ chức thanh tra chuyên ngành trong Luật Thanh tra, nên

đã có tình trạng “vượt rào” trong quy định về thanh tra chuyên ngành. Ví dụ: Theo Điều 23
Luật thanh tra năm 2004 thì cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành bao gồm
thanh tra bộ và thanh tra sở, Điều 38 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2007, 2008) cũng chỉ qui định thẩm quyền XPVPHC cho thanh tra cấp sở và cấp
bộ nhưng một số văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn lại qui định thẩm quyền cho thanh tra
cấp cục. Ví dụ như Điều 32 Nghị định số 31/2010/NĐ-CP ngày 29/3/2010 về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực thủy sản đã quy định thẩm quyền xử phạt cho Chánh Thanh tra Chi cục
chuyên nhành thủy sản, Chánh Thanh tra Tổng cục thủy sản, Chánh Thanh tra Cục chuyên
ngành thủy sản . Các qui định này có thể đáp ứng của một số đòi hỏi nhất định trong quản lý
hành chính nhà nước trên một số lĩnh vực nhưng đương nhiên là trái với Luật thanh tra và
Pháp lệnh XLVPHC và như vậy dẫn tới sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật
khiến việc xử lí vi phạm hành chính thiếu chính xác.
- Thẩm quyền XPVPHC của các chức danh cấp cơ sở cũng còn những điểm chưa hợp
lý. Các chức danh cấp cơ sở là những người trực tiếp thi hành công vụ, nhiệm vụ và hoạt
động thường xuyên nhất trong lĩnh vực kiểm tra, phát hiện vi phạm nhưng thẩm quyền xử
phạt của họ lại được quy định là chưa hợp lí. Ngoài hai hình thức phạt chính là cảnh cáo và
phạt tiền thì các chức danh trực tiếp thi hành công vụ, nhiệm vụ không có thẩm quyền áp
dụng các hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả trừ thanh tra viên
chuyên ngành đang thi hành công vụ có quyền tịch thu tang vật, phương tiện trị giá đến 2
triệu đồng và áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả (Điều 31, 32, 33, 35, 36, 37 và 38
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đã sửa đổi, bổ sung năm 2008). Vì thế trong nhiều trường hợp
vi phạm hành chính nằm trong phạm vi thẩm quyền của người đang trực tiếp thi hành công
vụ, nhiệm vụ nhưng nếu có tang vật, phương tiện cần tịch thu hoặc cần áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra thì người trực tiếp thi hành công vụ đều
phải chuyển vụ việc đến người khác có thẩm quyền để xử phạt.

Trần Thị Ninh - 341226

5|Page



Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

- Nhiều văn bản qui phạm pháp luật về XLVPHC qui định không rõ ràng về thẩm quyền
của chủ thể XPVPHC và thiếu cơ sở thực tiễn. Ví dụ trong khoản 2 Điều 24 của Nghị định số
74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền qui định rất rõ về các
biện pháp XPVPHC về hành vi rửa tiền, nhưng trong toàn bộ nội dung của Nghi định không
có một điều khoản nào qui định về chủ thể có thẩm quyền XPVPHC về từng hành vi qui định
tại khoản 2 Điều 24 của Nghị định này. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng có nhiều ý kiến khác
nhau về việc xác định cơ quan nào có thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực này. Vì lẽ đó mà
cho đến nay vẫn chưa có hành vi nào liên quan đến việc tiếp tay cho hành vi rửa tiền bị
XLVPHC cũng như truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Liên quan tới thẩm quyền quyết định hình thức xử phạt trục xuất còn bất hợp lí.Thẩm
quyền quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất thuộc về Bộ trưởng Bộ công an. Trong
trường hợp XPVPHC với người nước ngoài mà biện pháp cưỡng chế duy nhất cần áp dụng là
trục xuất (trường hợp này trục xuất là hình thức xử phạt chính) thì các cơ quan có liên quan
chỉ cần tiến hành các thủ tục cần thiết để đề nghị Bộ trưởng Bộ công an quyết định theo quy
định của pháp luật. Với những vụ việc trục xuất là hình thức xử phạt bổ sung đi kèm với hính
thức phạt chính hoặc trong trường hợp cần áp dụng hình thức xử phạt bổ sung khác hoặc cần
áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra thì không thể xác định
được những biện pháp cưỡng chế này sẽ do ai có thẩm quyền quyết định.
- Việc thực hiện các qui định về ủy quyền cũng không thống nhất, rõ ràng. Pháp lệnh
XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007,2008) đã bổ sung yêu cầu ủy quyền bằng
văn bản nhưng vẫn không quy định theo vụ việc hay theo thời gian dẫn đến sự không thống
nhất trong cách hiểu và lúng túng trong thực hiện hoặc qui định cho người có thẩm quyền xử
phạt có thể ủy quyền cho cấp phó trực tiếp của mình chỉ trong trường hợp vắng mặt. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp người tiến hành xử phạt là cấp phó ngay cả trong khi cấp
trưởng vẫn đang có mặt ở nhiệm sở.

c,Phương hướng hoàn thiện

- Cần phải có kế hoạch xây dựng một cách thống nhất, tập trung các qui định về thẩm
quyền XPVPHC trong cùng một văn bản Luật hoặc bộ luật, có sự phối kết hợp giữa các cơ
quan chuyên ngành trong quá trình dự thảo luật để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn
giữa các qui định về thẩm quyền XPVPHC trong các văn bản luật với nhau.
- Nên quy định cho tất cả các chức danh có thẩm quyền xử phạt hành chính đều có
quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
- Khi qui định về các biện pháp XPVPHC cần phải qui định về thẩm quyền XPVPHC
để tránh tình trạng xác định thẩm quyền XPVPHC không thống nhất cũng như tránh tình
trạng xử phạt không đúng thẩm quyền.
Trần Thị Ninh - 341226

6|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cần được phân cấp mạnh hơn cho cấp cơ sở
cũng như tăng thẩm quyền về mức phạt cho các chức danh này
- Trong việc quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính nên quy định có tính chất
“mở” về thẩm quyền.
- Xác định rõ thẩm quyền xử phạt của thanh tra chuyên ngành trong các cơ quan đã có
chức danh có thẩm quyền xử phạt đồng thời cũng trao thẩm quyền xử phạt cho thanh tra
chuyên ngành tại một số Cục thuộc Bộ.
-Cần phải có sự quan tâm đúng mức đối với việc giải thích thuật ngữ để đảm bảo tính
thống nhất trong nhận thức và thực hiện. Ví dụ như cần giải thích các thuật ngữ liên quan
như: thẩm quyền XPVPHC (có bao gồm thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
hay không?), phân định thẩm quyền xử phạt, tranh chấp về thẩm quyền xử phạt..

2. Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
a, Những điểm hợp lý.

Thủ tục XPVPHC được qui định chủ yếu tại Chương VI cảu pháp lệnh XLVPHC năm
2002 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008). So với Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 và
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 thì Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007, 2008 đã
có nhiều qui định mới để đáp ứng những nhu cầu của thực tế như: Điều 65 qui định thủ tục về
hoãn chấp hành quyết định phạt tiền; Điều 68 qui định về chuyển quyết định XPVPHC để thi
hành. Nói cách khác, những qui định về thủ tục XPVPHC của Pháp lệnh XLVPHC đã thể
hiện rõ hơn tính minh bạch của pháp luật, thể hiện quan điểm của nhà nước về cải cách thủ
tục hành chính. Cho đến nay Pháp lệnh XLVPHC vẫn duy trì 2 loại thủ tục xử phạt: thủ tục
đơn giản và thủ tục có lập biên bản.
- Về thủ tục đơn giản
Về điều kiện áp dụng thủ tục đơn giản là vi phạm phải đơn giản, rõ ràng để ngay khi
phát hiện vi hành vi vi phạm, đối với những trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt có
thể ra quyết định xử phạt ngay cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc
được giải quyết nhanh chóng, trật tự quản lý cũng được nhanh chóng khôi phục. Do vậy, vẫn
cần duy trì thủ tục đơn giản khi xây dựng Luật XLVPHC vì tính hiệu quả của nó trong việc
xử phạt đối với những vi phạm nhỏ, đơn giản trong một số lĩnh vực như trật tự, an toàn giao
thông đô thị, vệ sinh đường phố.
Ngoài ra, tuy pháp luật không chỉ định rõ nhưng có thể hiểu việc áp dụng thủ tục đơn
giản là người xử phạt phải đang thi hành công vụ và hành vi vi phạm đó phải thuộc lĩnh vực
quản lí của người xử phạt. Bởi vì, nếu không phải đang thi hành công vụ và hành vi không
Trần Thị Ninh - 341226

7|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

thuộc lĩnh vực quản lí của mình thì người xử phạt không thể ra quyết định xử phạt tại chỗ
được. Điều kiện người xử phạt đang thi hành công vụ là cần thiết bởi lẽ hoạt động ra quyết
định xử phạt là hoạt động mang tính quyền lực rõ rệt và trực tiếp gây nên những hậu quả

pháp lí nhất định. Do vậy, chỉ người đang thi hành công vụ mới được ra quyết định xử phạt.
Mức phạt tiền phạt theo thủ tục đơn giản đã được nâng lên từ 20.000 đồng (Pháp lệnh
XLVPHC năm 1995) lên 200.000 đồng (Pháp lệnh XLVPHC năm 2008). Việc nâng mức
phạt tiền theo thủ tục đơn giản này là hết sức cần thiết và hợp lý trong điều kiện phát triển
của nền kinnh tế nước ta hiện nay cũng như để khắc phục tình trạng vụ việc vi phạm phải dồn
lên cấp trên giải quyết.
- Về thủ tục xử phạt có lập biên bản:
Được áp dụng đối với những vi phạm tương đối nghiêm trọng mà hành vi vi phạm được
qui định mức phạt tiền từ 200.000 đồng trở lên.
- Về người có thẩm quyền lập biên bản:
Được qui định tại Điều 55 Pháp lệnh XLVPHC (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
Theo qui định này người có thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính bao gồm
người có thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực quản lí chuyên nghành và những người có
thẩm quyền XPVPHC về mọi lĩnh vực (Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, huyện, tỉnh và người
được những người này ủy quyền). Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối kết hợp
giữa các cơ quan có liên quan trong XPVPHC tức là người lập biên bản và người xử phạt có
quan hệ tương đối chặt chẽ. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2007,2008 cũng bổ sung trường
hợp người vi phạm cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không có mặt tại địa điểm
xảy ra vi phạm thì biên bản được lập xong phải có chữ kí của đại diện chính quyền cơ sở nơi
xảy ra vi phạm hoặc của hai người làm chứng. Đây là một qui định rất hợp lý để mọi vi phạm
hành chính đều được xử lý triệt để.
- Về nội dung của biên bản: Được qui định tại khoản 2 Điều 55 Pháp lệnh XLVPHC.
Điều 55 qui định nội dung của biên bản đã thể hiện rõ tính khoa học, chặt chẽ và phù hợp với
thực tế của nó.
- Quyết định xử phạt và nội dung của quyết định xử phạt: quy định tại Điều 56 của Pháp
lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã tạo điều kiện cho cơ quan, người
có thẩm quyền xử phạt trong quyết định xử phạt nhưng cũng phải đảm bảo quyền lợi của cá
nhân, tổ chức (vụ việc vi phạm dù phức tạp cũng không thể quá kéo dài, gây ảnh hưởng
không tốt đến sinh hoạt, đời sống, kinh doanh của cá nhân, tổ chức..). Pháp lệnh qui định
trong trường hợp vụ việc phức tạp cần thời gian xác minh thêm thì người có thẩm quyền

được xin gia hạn thêm 30 ngày nữa. Qúa thời hạn này người có thẩm quyền xử phạt không

Trần Thị Ninh - 341226

8|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử phạt trục xuất. Qúa trình thực hiện pháp luật
XPVPHC đã cho thấy qui định này là phù hợp với thực tế.
- Về xử lý tang vật, phương tiện bị tịch thu: Điều 61 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa
đổi,bổ sung năm 2008) đã qui định theo hướng: đối với tang vật, phương tiện có trị giá dưới
10 triệu đồng thì người quyết định tịch thu phải chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện tổ
chức bán đấu giá; tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên thì người
quyết định tịch thu phải giao cho trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh để bán đấu giá theo
qui định của pháp luật. Qui định này đã đảm bảo tính công khai, khách quan và chính xác
trong khi xử lý tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu tránh tình trạng tài sản bị thất thoát.
- Cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC: việc đưa ra các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính là cần thiết trong thủ tục hành chính bởi để đảm bảo cho quyết
định hành chính được thực thi trong trường hợp đối tượng vi phạm không chấp hành quyết
định XPVPHC.

b, Những điểm chưa hợp lý.
- Về điều kiện về thủ tục đơn giản, trong trường hợp nếu phát hiện hành vi vi phạm
hành chính thuộc trường hợp áp dụng thủ tục đơn giản nhưng không thuộc lĩnh vực quản lí
thì người có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt mà chỉ có thể đình chỉ hành vi vi
phạm. Do vậy trong nhiều trường hợp đã bỏ lọt vi phạm.
- Về mức phạt tiền trong thủ tục đơn giản tuy mức tiền được xử phạt là 10.000 đến
200.000 đồng nhưng vẫn còn thấp, nhiều vụ vi phạm hành chính vẫn chưa thể xử phạt theo

thủ tục này.
- Trong trường hợp lập biên bản, nếu một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính thuộc các lĩnh vực quản lí khác nhau thì người có thẩm quyền xử phạt chỉ ra một quy
định trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi rồi tổng hợp thành mức
phạt chung. Như vậy một quyết định xử phạt lúc này phải dựa trên nhiều biên bản XPHC,
điều đó không làm cho việc XPVPHC chính xác hơn mà chỉ phức tạp hóa hoạt động xử phạt.
- Trong thủ tục có lập biên bản quy định người có thẩm quyền xử phạt phát hiện hành vi
vi phạm thuộc lĩnh vực của mình trong thời gian không thi hành công vụ thì không có quyền
lập biên bản. Trên thực tế với quy định này là chưa hợp lí và có thể coi đây là sự lãng phí
nhân lực và làm giảm hiệu đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật.
- Về nội dung của biên bản: có một số mẫu biên bản xử phạt quá dài, mất nhiều thời
gian ảnh hưởng đến kết quả xử lý vi phạm.
- Có ý kiến cho rằng thời hạn 30 ngày để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
phức tạp cũng như được phép xin gia hạn thêm 30 ngày là quá ít vì nhiều vụ việc cần có thời
gian để xác minh, thu thập tài liệu liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa bàn hoặc một số
Trần Thị Ninh - 341226

9|Page


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

đối tượng sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đã bỏ đi khỏi địa phương trong thời gian
dài, gây khó khăn cho việc xử lý.
- Vấn đề cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC cũng gặp nhiều vướng mắc trong qua
trình thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do chưa có sự phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế ví dụ như biện pháp khấu trừ tiền
từ tài khoản ngân hàng. Đây là một vấn đề khó khăn thì việc này rất khó khăn bởi vì các ngân
hàng vì mục đích kinh doanh, để bảo vệ khách hàng nên thường không muốn phối hợp. Mặt
khác cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một công việc khó khăn,

phức tạp, trong khi đó trình tự thủ tục cưỡng chế chưa được ban hành cũng là vấn đề gây khó
khăn, lúng túng cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt.

c, Phương hướng hoàn thiện
- Về thủ tục đơn giản: Nên nâng thêm mức xử phạt tiền vì các khung tiền phạt được qui
định trong thủ tục đơn giản là rất ít hoặc không có. Nếu không nâng mức tiền phạt thì nhiều
vụ vi phạm sẽ bị xử phạt theo thủ tục lập biên bản và như vậy thủ tục đơn giản có cũng như
không, không đảm bảo được yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính. Quyết định xử phạt
theo thủ tục đơn giản cần lược bớt một số nội dung không cần thiết để đảm bảo tính đơn giản,
ngắn gọn mà chặt chẽ.
- Về thủ tục xử phạt có lập biên bản: không nên tiếp tục ban hành các loại mẫu biên bản
mà nên giao cho các Bộ, ngành căn cứ vào qui định của pháp luật để ban hành các loại mẫu
cho phù hợp với lĩnh vực, ngành của mình quản lý vừa đảm bảo yêu cầu thực tiễn, vừa đúng
pháp luật.
- Vấn đề cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC cần phải có chính sách miễn, giảm
tiền phạt đối với đối tượng nghèo không có điều kiện nộp phạt.
- Cần có sự phối kết hợp giữa các cơ quan trong việc xử phạt vi phạm hành chính để
nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính.

C – Kết thúc vấn đề
Việc xác định một cách chính xác thẩm quyền cũng như thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính sẽ đảm bảo xử phạt vi phạm hành chính một cách nhanh chóng, kịp thời, không bỏ lọt
vi phạm cũng như tránh tình trạng tùy tiện trong xử phạt vi phạm hành chính. Muốn làm
được điều này việc nhìn nhận cũng như đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền và
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trần Thị Ninh - 341226

10 | P a g e



Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2007,2008).
3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính – thực trạng qui định, thực tiễn áp dụng
và hướng hoàn thiện – TS. Trần Minh Hương, Tạp chí luật học số 8/2008.
4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những bất cặp trong qui định của pháp
luật hiện hành – ThS. Nguyễn Ngọc Bích, Tạp chí luật học tháng 8/2007.
5. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính - ThS.Bùi Thị Đào.
6. Một số bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính - TS.
Nguyễn Minh Đức, Trịnh Thị Thùy Dung – Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử.
7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính – thực trạng và hướng hoàn thiện.

Mục lục
A – Đặt vấn đề...................................................................................................................................................1
B – Giải quyết vấn đề.........................................................................................................................................1
I – Một số khái niệm liên quan..........................................................................................................................1
II – Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.. 1
1.Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính..................................................................................................2
Trần Thị Ninh - 341226

11 | P a g e


Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
a, Những điểm hợp lí.........................................................................................................................................2

b,Những điểm bất hợp lí...................................................................................................................................3
c,Phương hướng hoàn thiện..............................................................................................................................6
2. Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:.................................................7
a, Những điểm hợp lý........................................................................................................................................7
b, Những điểm chưa hợp lý...............................................................................................................................9
c, Phương hướng hoàn thiện...........................................................................................................................10
C – Kết thúc vấn đề..........................................................................................................................................10

Trần Thị Ninh - 341226

12 | P a g e



×