Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.77 KB, 7 trang )

Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

I. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự.
1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự.
a, Khái niệm.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một
trong những nguyên tắc cơ bản, chi phối quá trình tố tụng dân sự. Hiện nay nguyên
tắc này được quy định tại Điều 50 Hiến pháp năm 1992 và Điều 5 BLTTDS 2004.
Luật tố tụng dân sự quy định các đương sự có quyền tự định đoạt để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Điều 5 BLTTDS quy định : “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện,
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lí giải
quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các
đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách tự nguyện, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội.”
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có thể
hiểu là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam, theo đó đương sự
được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi
tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của mình, quyết định quyền và lợi ích của mình
trong quá trinh giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của tòa án trong việc bảo
đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong tố tụng dân sự.
b, Ý nghĩa
- Việc Nhà nước thể chế hóa quyền tự định đoạt của đương sự là một
nguyên tắc quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự, khẳng định pháp luật đã thực
sự ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện bằng hành vi của mình
quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của họ và việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố


tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.Với quy định tại Điều 5 Luật tố
tụng dân sự, quyền và lợi ích của đương sự sẽ được bảo đảm và phát huy một cách
1|Page


Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

có hiệu quả. Việc ghi nhận nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự đã có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
- Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một
trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự. Ngoài việc bảm đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc xác định
trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự.b
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS thì tòa án có trách nhiệm xem xét, giải quyết
các yêu cầu của đương sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự.
- Hoạt động xét xử có vai trò rất lớn trong việc ổn định trật tự pháp luật, giữ
vững kỉ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân…Hoạt động này phát
huy được tác dụng khi tiến hành trên cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự.
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân
sự.
a, Cơ sở lý luận.
b, Cơ sở thực tiễn.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự.
4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự với các nguyên tắc khác trong luật tố tụng dân sự.
II. Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam.

1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết
vụ việc dân sự.
a, Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu
cầu giải quyết việc dân sự.
- Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự nói
cách khác là việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, khởi kiện hay không
khởi kiện đến tòa án thuộc quyền tự định đoạt của các đương sự. Điều 161
BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua
2|Page


Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện)
tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Như vậy, khi đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì đương sự có thể tự mình khởi
kiện. Trong trường hợp đương sự không đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì
người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ định đoạt thay đương sự.
- Quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các
việc dân sự không có sự tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Trong các việc dân sự
thường là một bên công nhận hay bác bỏ quyền lợi hay thực hiện một trách nhiệm
dân sự nào đó nên không có khái niệm bị đơn hay nguyên đơn dân sự mà được gọi
là người yêu cầu và người bị yêu cầu. Người yêu cầu trong vụ việc dân sự là người
tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Người yêu cầu trong vụ
án dân sự có lợi ích pháp lý độc lập nên được quyền đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải
quyết như nguyên đơn trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Tuy nhiên yêu cầu đó chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công nhận
hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Có thể thấy

quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự là một trong những quyền cơ bản của đương
sự trong tố tụng dân sự.
b, Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi
kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong tố
tụng dân sự, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về
một quan hệ pháp luật khác mà nguyên đơn đã khởi kiện. Điểm c, khoản 1 Điều 60
BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu
có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của
nguyên đơn. Ngoài ra bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Có hai loại
là bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng. Như vậy với
3|Page


Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

việc quy định về quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của
nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với quyền tự định đoạt của
đương sự.
c, Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia
tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác
bỏ yêu cầu của người khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai
loại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị
đơn. Điều 177 BLTTDS quy định trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc bị đơn thì họ có quyền yêu

cầu độc lập khi có các điều kiện sau:
- Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
- Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
- Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho
việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Trong vụ kiện có sự tham gia của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia độc lập thì tòa án có nghĩa vụ phải xem xét và giải quyết luôn yêu cầu của
nguyên đơn chống bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan chống lại cả hai bên đương sự hoặc chống lại một trong hai bên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quant ham gia tố tụng không độc lập là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn
hay bị đơn, lợi ích pháp lý của họ gắn liền với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị
đơn nên việc tham gia tố tụng của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn và bị đơn.
Nhưng họ vẫn có quyền cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thỏa thuận với bên đương sự

4|Page


Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

kia, có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đương sự
kia.
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự.
a, Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu
cầu.
Khi đương sự thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu cầu thì họ hoàn toàn có
quyền quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo của mình. Tùy thuộc vào từng giai
đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu tùy ý. Theo quy định tại Điều 218

BLTTDS thì tại phiên tòa việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không
vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban
đầu. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, BLTTDS không quy định giới hạn phạm vi
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy nguyên đơn có thể
thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu cầu mới đối
với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm,
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không vượt
quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu.
Rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được tòa án chấp
nhận. Theo nguyên tắc chung việc rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là hành vi định
đoạt của nguyên đơn, người yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ
yêu cầu và sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng.
Theo quy định tại Điều 59 BLTTDS thì nguyên đơn có thể rút một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu
nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ
án (quy định tại Điều 192 BLTTDS). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong trường
hợp nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu
đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu
cầu hoặc toàn bộ yêu cầu nguyên đơn đó rút. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ
yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị
5|Page


Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn; nếu nguyên đơn rút
toàn bộ yêu cầu khởi kiện và bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, mà người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
b, Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc

dân sự.
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án.
a, Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
b, Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án.
4. Trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
III. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự.
1. Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Để các quy định của BLTTDS về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự được thi hành tốt trên thực tế cần phải sửa đổi, bổ sung
hoặc hướng dẫn một số quy định của BLTTDS.
- Quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và nghĩa vụ tố
tụng khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau.
- Không nên quy định về trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước
khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tóa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn.
Quy định tại khoản 1 Điều 269 BLTTDS đã vi phạm quyền tự định đoạt của đương
sự vì trong các tranh chấp dân sự các đương sự được quyền tự mình quyết định
tranh chấp hoặc không tranh chấp để yêu cầu tòa án giải quyết và như vậy họ cũng
có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của
mình ở các giai đoạn tố tụng. Việc quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện ở giai
6|Page



Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự

đoạn phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn đã hạn chế quyền tự định đoạt của
mình trong tố tụng dân sự.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
và trình tự giải quyết các vụ việc dân sự. Hiện nay, BLTTDS quy định việc giải
quyết vụ án dân sự và vụ việc dân sự theo các thủ tục khác nhau, nhưng không có
quy định chuyển hóa giữa hai thủ tục nên gây không ít khó khăn cho đương sự
trong việc tham gia tố tụng, trong đó có việc thực hiện quyền tự định đoạt của
đương sự.
- Cần quy định bổ sung thời điểm bị đơn thực hiện quyền phản tố trước
phiên tòa. Đồng thời cần quy định nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện, bị đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình
ở mọi giai đoạn tố tụng. Để tránh trường hợp đương sự lạm dụng việc thực hiện
quyền này gây khó khan cho đương sự phía bên kia và Tòa án trong việc giải quyết
vụ việc.
2. Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán và đẩy mạnh việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật.
- Cần nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán.
- Đẩy mạnh công tác tuyền truyền, phổ biến pháp luật.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong thời gian qua vấn đề quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn những tồn tại và bất cập cả về các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự và việc tổ chức thực hiện. Để đảm bảo cho
đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình một cách triệt để đòi hỏi phải có
các biện pháp đồng bộ về xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự và việc thực hiện chúng trên thực tế.


7|Page



×