Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Thực hiện điều ước quốc tế_Những vấn đề lý luận và thức tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760 KB, 50 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước xu hướng chung của sự phát triển quốc tế là khu vực hóa, toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như các nước khác đang bước nhanh vào tiến trình
hội nhập. Quan hệ giữa các quốc gia diễn ra trong điều kiện hết sức đa dạng, khác
biệt về bản sắc văn hóa cùng các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội. Hình thành
và phát triển trong điều kiện quan hệ quốc tế đó, Điều ước quốc tế có chức năng
duy trì và ổn định tương đối trật tự pháp lý quốc tế, giữ gìn quan hệ bình đẳng giữa
các quốc gia, bảo đảm hài hòa lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích quốc gia,
đồng thời bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được thực thi và tuân
thủ.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO được hơn
hai năm. Mối quan hệ của Việt Nam với các nước ngày càng được tăng cường, mở
rộng. Một trong những hoạt động của việc mở rộng quan hệ đó là việc ký kết, tham
gia, phê chuẩn nhiều hơn nữa các điều ước quốc tế. Do yêu cầu hội nhập, số lượng
các điều ước quốc tế được tăng lên, nhưng việc thực hiện các điều ước quốc tế
chưa thật sự được quan tâm đúng mức, trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó
khăn, hạn chế. Điều đó dẫn đến tính hiệu lực, hiệu quả của việc ký kết, gia nhập
điều ước quốc tế bị giảm sút, ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ của Việt Nam
đối với thế giới nói chung và với các quốc gia thành viên của các điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập nói riêng. Là một nhà nước trong thời kỳ phát
triển, hội nhập chung với thế giới, Việt Nam cần phải làm gì để tăng cường việc
thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà mình đã ký kết, gia nhập.
Đó là một vấn đề cần được nghiên cứu toàn diện và đầy đủ, trên cơ sở đó đề ra
những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các điều ước


quốc tế, đáp ứng được thực tế của quá trình hội nhập. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc thực hiện các điều ước quốc tế và những tác động của việc thực hiện
điều ước quốc tế lên xã hội Việt Nam nên tác giả xin chọn đề tài: "Thực hiện điều
ước quốc tế_Những vấn đề lý luận và thức tiễn" để nghiên cứu. Đây là đề tài cấp


bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, góp phần trực tiếp vào việc
đổi mới và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện điều ước quốc tế, thúc đẩy quá
trình phát triển của đất nước trong quá trình hội nhập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở nước ta, vấn đề thực hiện các điều ước quốc tế đang được Đảng và nhà nước
quan tâm, đặc biệt là sau khi chúng ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Căn cứ vào các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, và hiến pháp 2013. Nhà
nước ta đã dành một sự quan tâm đối với sự ra đời và phát triển của các văn bản
pháp luật điều chỉnh về những hoạt động liên quan đến việc ký kết, gia nhập và
thực hiện các điều ước quốc tế. Chúng ta cần phải kể đến: Pháp lệnh về ký kết gia
nhập và thực hiện các điều ước quốc tế năm 1989, Pháp lệnh về ký kết và thực hiện
các điều ước quốc tế năm 1998, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước
quốc tế năm 2005 (cùng các nghị định sửa đổi, bổ sung)...
Hiện nay, cũng có một số đề tài nghiên cứu về tình hình thực hiện các điều ước
quốc tế trong từng lĩnh vực cụ thể, có các bài viết bàn về đưa gia những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các điều ước quốc tế ở Việt Nam (ví dụ: Bài viết
Bàn về việc thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam của Tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao
đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3 năm 2005, bài viết của tiến sĩ Lê Văn
Bính về Ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí
Quan hệ - Bộ Ngoại giao, 1999...). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình


chuyên khảo nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề này dưới khía
cạnh là một đề tài khoa học độc lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra
phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiên các điều ước quốc tế,
đảm bảo tính nghiêm minh của những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia
nhập. Từ đó, cũng nhằm mục đích thúc đẩy mối quan hệ của Việt Nam với các

nước trên thế giới và với các nước là thành viên của các điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia, rút ngắn khoảng cách về nhiều mặt giữa Việt Nam đối với các
nước trên thế giới.
* Nhiệm vụ:
Với mục đích nghiên cứu trên, có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý của Việt Nam và công ước Viên trong việc quy định
việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập;
- Đánh giá vai trò của việc thực hiện các điều ước quốc tế đối với xã hội Việt Nam.
Phân tích thực trạng thực hiện các điều ước quốc tế nói chung và một số điều ước
quốc tế của từng lĩnh vực cụ thể trong xã hội Việt Nam. Từ đó tổng kết, đánh giá
thực trạng thực hiện các điều ước quốc tế ở Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực hiện các điều ước quốc tế, cùng với việc
học hỏi kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong cùng lĩnh vực, tác giả có
đưa ra một số đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu


quả thực hiện các điều ước quốc tế trong xã hội Việt Nam đáp ứng được những
thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Là một đề tài thuộc chuyên ngành Luật quốc tế, những vấn đề được nêu ra trong
luận văn được khái quát thông qua việc phân tích, tổng hợp những nội dung liên
quan đến việc quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia có liên quan đến việc thực hiện các điều ước quốc tế. Đề tài cũng
tìm hiểu, đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam trong việc khẳng định
vai trò của các cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức của Việt Nam trong việc thực
hiện các điều ước quốc tế (thông qua các quy định của pháp luật Việt Nam và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia). Bên cạnh đó, tác giả phân tích, tổng
hợp thực trạng việc thực hiện các điều ước quốc tế nói chung và một số điều ước
quốc tế trong một số lĩnh vực cụ thể nói riêng. Những hạn chế, khó khăn của việc
thực hiện các điều ước quốc tế đó ra sao? Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đưa

ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các điều ước quốc tế ở Việt
Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật, thì đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Tổng hợp, phân tích các thông tin, tư liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- So sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với thực tiễn liên quan đến hoạt
động thực hiện các điều ước quốc tế ở Việt Nam với các nước trên thế giới trong
việc thực hiện các điều ước quốc tế để đưa ra những bài học kinh nghiệm nâng cao
hiệu quả thực hiện điều ước quốc tế trong quá trình hội nhập thế giới.


6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung gồm 2
chương:
Chương 1: Vấn đề thực hiện điều ước quốc tế trong Công ước Viên 1969 về Luật
Điều ước quốc tế
Chương 2: Thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG CÔNG
ƯỚC VIÊN 1969 VỀ LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ.
1.1 Một số vấn đề cơ bản về công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế
1.1.1 Khái niệm điều ước quốc tế
1.1.1.1 Khái niệm điều ước quốc tế theo công ước Viên 1969 về Luật Điều ước
quốc tế
Để điều chỉnh và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc tế của mình với các
nước và các tổ chức quốc tế, nước ta ký kết rất nhiều điều ước quốc tế song
phương, tham gia nhiều điều ước quốc tế đa phương về nhiều lĩnh vực khác nhau.
Và tất nhiên nước ta phải có trách nhiệm thực hiện các cam kết quốc tế quy định
trong các điều ước quốc tế này.

Theo luật quốc tế, cụ thể là Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969
(Công ước Viên 1969). Theo quy định tại Khoản 1, Điều 1 Công ước Viên 1969:
“Điều ước quốc tế là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các
quốc gia và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó


được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc hai hay nhiều văn kiện có quan
hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi của các văn kiện đó”.
Công ước Viên năm 1969 có hiệu lực vào ngày 27/01/1980 và hiện có 114 thành
viên.
1.1.1.2 Khái niệm điều ước quốc tế theo pháp luật một số nước trên thế giới
Nhiều nước không có định nghĩa điều ước quốc tế hoặc không có cả luật quy định
riêng về việc ký kết, thực hiện điều ước quốc tế. Như vậy có thể hiểu là họ sử dụng
định nghĩa điều ước quốc tế của luật quốc tế. Một số nước chuyển hóa định nghĩa
của Công ước Viên vào nội luật, tiêu biểu như:
+ Luật pháp của Anh quy định điều ước quốc tế là một thỏa thuận bằng văn bản,
qua đó hai hay nhiều quốc gia hoặc tổ chức quốc tế xác lập, hoặc có ý định xác lập
mối quan hệ giữa họ với nhau trên cơ sở luật pháp quốc tế. Các nước từng là thuộc
địa của Anh như Ma-lai-xi-a, Băng-la-đét chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật
Anh và vì vậy cũng sử dụng định nghĩa điều ước này.
+ Luật số 45 năm 2012 về Ký kết và Phê chuẩn điều ước quốc tế của Kê-ny-a định
nghĩa điều ước quốc tế hoàn toàn giống với định nghĩa của Công ước Viên năm
1969.
+ Điều 1 Luật số 1188-XII về điều ước quốc tế của Cộng hòa Bê–la-rút ngày
23/10/1991 định nghĩa điều ước quốc tế gần như hoàn toàn giống với quy định của
Công ước Viên 1969 và Công ước Viên 1986.
+ Đối với Lào, điều ước quốc tế được hiểu là thỏa thuận giữa các quốc gia được
ký kết bằng văn bản giữa Nhà nước này với Nhà nước kia hoặc với Nhà nước với
Tổ chức quốc tế/khu vực hoặc chủ thể khác theo quy định của luật pháp quốc tế,
được lập thành một bản hoặc nhiều bản và được gọi bằng nhiều tên khác nhau như:



Hiệp ước, Hiệp định, Thỏa thuận, Nghị định thư, Biên bản ghi nhớ, Thư trao đổi
hoặc các văn bản có tên gọi khác.
+ Mông Cổ quy định điều ước quốc tế là thỏa thuận song phương hoặc đa phương
được lập thành văn bản có liên quan đến luật pháp quốc tế, trong đó xác định
quyền và nghĩa vụ của Mông Cổ, Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan hành chính
của Mông Cổ cũng như của các tổ chức quốc tế…
Có thể thấy, các tiêu chuẩn xác định điều ước quốc tế của Công ước Viên 1969
như thỏa thuận bằng văn bản - giữa quốc gia với nhau hoặc với tổ chức quốc tế đa
phần được giữ nguyên khi chuyển hóa vào nội luật, trong khi các tiêu chuẩn được
điều chỉnh bởi luật pháp quốc tế có sự điều chỉnh nhất định. Khái niệm được điều
chỉnh bởi luật pháp quốc tế có thể chưa đủ rõ để áp dụng nên các quốc gia thường
sử dụng cụm từ như xác lập/làm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo luật pháp quốc
tế, có giá trị ràng buộc theo luật pháp quốc tế… Những định nghĩa điều ước như
thế này có thể được tìm thấy trong hệ thống pháp luật Anh, Ốt-xtơ-rây-lia, Ru-mani, Mông Cổ, In-đô-nê-xia…
1.1.1.3 Đặc điểm của Điều ước quốc tế
Từ quy định khái niệm Điều ước quốc tế theo công ước Viên 1969, có thể rút ra
một số đặc điểm của điều ước quốc tế:
- Điều ước quốc tế phải là một thỏa thuận quốc tế.
- Điều ước quốc tế phải được ký kết giữa các quốc gia.
- Điều ước quốc tế phải được thỏa mãn bằng văn bản.
- Điều ước quốc tế phải do luật pháp quốc tế điều hành
- Điều ước quốc tế có thể được cấu thành bởi một văn bản hoặc nhiều văn bản


-Tên gọi của điều ước quốc tế Tên gọi của điều ước quốc tế rất đa dạng: Điều ước
quốc tế song phương và đa phương bao gồm: Hiệp ước, Hiệp định, Nghị định thư,
Công ước, Công hàm trao đổi, v.v..
1.1.2 Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với pháp luật quốc gia

1.1.2.1. Vấn đề chuyển hóa điều ước quốc tế thành pháp luật quốc gia
Để có cơ sở áp dụng điều ước quốc tế, yêu cầu quan trọng nhất là xác định vị trí
pháp lý của điều ước quốc tế đối với pháp luật quốc gia. Có hai luận thuyết cơ bản
là nhất nguyên luận và nhị nguyên luận.
* Chủ nghĩa nhất nguyên (hay còn gọi là chủ nghĩa nhất hệ - Moniste): Quan niệm
pháp luật là một hệ thống thống nhất, đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ
giữa luật quốc tế và luật quốc gia tùy theo vị trí ưu tiên hơn:
- Ưu tiên triệt để pháp luật quốc gia;
- Ưu tiên triệt để pháp luật quốc tế;
- Chủ nghĩa nhất nguyên dung hòa.
* Chủ nghĩa nhị nguyên (chủ nghĩa lưỡng hệ - Dualiste): quan niệm pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận của một hệ thống thống nhất, hoàn toàn độc
lập với nhau:
- Chủ nghĩa nhị nguyên cực đoan;
- Chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hòa.
Tóm lại, điểm khác biệt duy nhất giữa hai học thuyết này là vị trí độc lập hoặc vị
trí trên dưới của hai hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia ở Việt Nam


Để bảo đảm ưu tiên thực hiện các cam kết trong các điều khoản quốc tế mà nhà
nước đã ký kết hoặc gia nhập, trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam thường
có quy định về vấn đề này thì ở mỗi văn bản cũng thể hiện khác nhau Nhưng nhìn
chung các luật, pháp lệnh đều thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta là coi trọng các
cam kết quốc tế, ưu tiên thực hiện các quy định của điều ước quốc tế khi các quy
định này khác với quy định của luật hoặc pháp lệnh. Việc ưu tiên thực hiện các
điều ước quốc tế là cần thiết để bảo đảm các điều ước quốc tế được thực hiện
nghiêm chỉnh.
1.1.3. Pháp luật quốc tế về việc thực hiện điều ước quốc tế
1.1.3.1. Những nguyên tắc của Công ước Viên năm 1969 về việc thực hiện điều

ước quốc tế
Một số các nguyên tắc và quy phạm của Luật điều ước quốc tế được quy định
trong Công ước Viên năm 1969:
- Nguyên tắc tự nguyện ký kết các điều ước quốc tế.
- Nguyên tắc thực hiện các cam kết quốc tế một cách có thiện chí (nguyên tắc pacta
servanda).
- Nguyên tắc sự thay đổi các điều kiện, có một số điều kiện xuất hiện có thể dẫn
đến sự chấm dứt hiệu lực của một điều ước, cụ thể:
+ Sự vi phạm điều ước của một quốc gia thành viên;
+ Đối tượng gắn liền với việc thi hành điều ước không còn tồn tại (Điều 61);
+ Các hoàn cảnh tồn tại vào lúc ký kết điều ước đã hoàn toàn thay đổi (Điều 62)
+ Bùng nổ xung đột vũ trang giữa các quốc gia thành viên (Điều 73);
+ Xuất hiện một quy phạm Jus cogens mới (Điều 64).
- Nguyên tắc thực hiện một điều ước thì tốt hơn là hủy bỏ điều ước đó (favor
contractus).
1.1.3.2 Quy định về việc thực hiện điều ước quốc tế ở một số quốc gia


- Cộng hòa Liên bang Đức: Các điều ước quốc tế có thứ bậc ngang với luật và
thực ra là ngang với thứ bậc của các đạo luật bình thường, không phải là đạo luật
sửa đổi hiến pháp. Đức là nước đang áp dụng phương thức trực tiếp để thực hiện
các điều ước quốc tế.
- Cộng hòa Pháp, Hòa Kỳ: Là những quốc gia điển hình công nhận chủ nghĩa nhất
nguyên: Coi quy phạm pháp luật quốc tế có vị trí ưu thế hơn so với pháp luật quốc
gia, tuy nhiên điều ước quốc tế có vị trí dưới Hiến pháp. Các nước này áp dụng
phương thức trực tiếp để thực hiện các điều ước quốc tế.
- Italia, Hà Lan, Vương Quốc Anh: Áp dụng chủ nghĩa nhị nguyên. Các nước này
thường áp dụng phương pháp gián tiếp hoặc kết hợp cả hai hình thức gián tiếp và
trực tiếp để thực hiện điều ước quốc tế.
1.2 Thực hiện điều ước quốc tế theo công ước Viên 1969

1.2.1. Các quy định cụ thể của điều ước Viên 1969 về thi hành điều ước quốc tế.
Thi hành điều ước quốc tế trong công ước Viên năm 1969 quy định cụ thể tại phần
III tiết 2 gồm có 3 điều từ điều 28 đến điều 30 cụ thể:
“Điều 28. Tính không hồi tố của các điều ước
Những quy định của một điều ước sẽ không ràng buộc đối với các bên về mọi hành
vi hay sự kiện xảy ra trước ngày điều ước đó có hiệu lực, trừ khi có một ý định
khác xuất phát từ điều ước hoặc được thể hiện bằng một cách khác.
Điều 29. Phạm vi lãnh thổ thi hành các điều ước
Một điều ước sẽ ràng buộc mỗi bên trong phạm vi toàn lãnh thổ của bên đó, trừ
khi có một ý định khác xuất phát từ điều ước hoặc thể hiện bằng một cách khác.
Điều 30. Việc thi hành một điều ước kế tiếp về cùng một vấn đề
1. Không phương hại đến các quy định của Điều 103 Hiến chương Liên hiệp quốc,
những quyền và nghĩa vụ của các quốc gia tham gia các điều ước về cùng một vấn
đề sẽ được xác định phù hợp với các khoản dưới đây:


2. Khi một điều ước quy định rõ rằng nó phụ thuộc vào hoặc không được xem là
mâu thuẫn với một điều ước đã có trước đó hoặc sẽ có sau đó thì những quy định
của điều ước có trước hoặc sau đó sẽ có giá trị.
3. Khi tất cả các bên tham gia điều ước trước cũng là các bên của điều ước sau,
mà điều ước trước không thể bị coi là chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành
chiểu theo Điều 59, thì điều ước trước sẽ chỉ được thi hành trong chừng mực mà
các quy định của nó phù hợp với các quy định của điều ước sau.
4. Khi không phải tất cả các bên tham gia điều ước trước đều tham gia điều ước
sau:
a) Trong quan hệ giữa các quốc gia tham gia cả hai điều ước, quy tắc áp dụng là
quy tắc được nêu ra ở khoản 3;
b) Trong quan hệ giữa một quốc gia tham gia cả hai điều ước và một quốc gia chỉ
tham gia một trong hai điều ước đó, thì các quyền và nghĩa vụ tương hỗ giữa họ sẽ
được điều chỉnh bởi điều ước mà trong đó cả hai đều là thành viên.

5. Khoản 4 được áp dụng không phương hại đến các quy định của Điều 41, hoặc
đến vấn đề chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước chiểu theo Điều
60, hoặc đến vấn đề trách nhiệm của một quốc gia có thể phát sinh từ việc ký kết
hay thi hành một điều ước mà những quy định của nó là mâu thuẫn với những
nghĩa vụ đã cam kết đối với quốc gia khác theo một điều ước khác.”
Các quy định của công ước Viên 1969 về thực hiện Điều ước quốc tế chủ yếu là
về vấn đề hiệu lực không gian, hiệu lực thời gian thi hành điều ước quốc tế. Các
quy định này chưa chỉ ra các phương thức thực hiện điều ước quốc tế một cách rõ
ràng. Vì vậy, khi áp dụng thực hiện Điều ước quốc tế vào mỗi quốc gia lại có
phương thức thực hiện Điều ước quốc tế khác nhau.
1.2.2. Các phương thức thực hiện điều ước quốc tế


Khi điều ước quốc tế có hiệu lực, vấn đề đặt ra đối với quốc gia kết ước là thực
hiện điều ước quốc tế. Khi tham gia các điều ước quốc tế, các quốc gia đều có
nghĩa vụ là làm cho pháp luật quốc gia mình phù hợp với pháp luật quốc tế. Sau
khi phân tích dựa trên hai quan điểm nhất nguyên và nhị nguyên từ đó đưa ra các
phương thức mà các quốc gia đang áp dụng để thực hiện điều ước quốc tế dựa trên
hai quan điểm nhất nguyên và nhị nguyên đó là:
-

Thực hiện Điều ước quốc tế trực tiếp

-

Thực hiện Điều ước quốc tế gián tiếp

1.2.2.1 Thực hiện Điều ước quốc tế trực tiếp
Việc thực hiện trực tiếp các điều ước quốc tế. Cách thức này chủ yếu do các cơ
quan nhà nước tiến hành. Khi các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện điều ước

quốc tế (bao gồm cả việc tuân thủ, tuân theo, vận dụng, áp dụng) tức là thực hiện
chức năng công quyền, thì không cần đặt ra việc chuyển hóa.
- Theo quan điểm thứ nhất cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp trong
các lĩnh vực của pháp luật quốc gia mà không cần phải có sự chuyển hoá các điều
ước quốc tế vào pháp luật quốc gia – tức là thừa nhận việc chỉ áp dụng trực tiếp.
Học thuyết về sự chấp nhận hiệu lực trực tiếp của quy phạm điều ước quốc tế rất
gần với chủ nghĩa nhất nguyên. Học thuyết này khước từ việc ban hành một văn
bản thi hành của Nhà nước như là cầu nối giữa quy phạm pháp luật quốc tế và sự
áp dụng nó ở trong nước. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế
được áp dụng trực tiếp ở trong nước. Tuy nhiên, các quy phạm này không vì thế
mà mất đi tính chất của nó với tư cách là các quy phạm pháp luật quốc tế. Với sự
chấp nhận, các quy phạm điều ước được công nhận như là pháp luật trong nước.
Hoa Kỳ là một nước theo thuyết nhất nguyên luận. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định
các điều ước quốc tế và các luật ban hành trong nước là “luật tối cao” của đất


nước. Hệ quả kèm theo là quy định của điều ước quốc tế có thể được áp dụng trực
tiếp trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
Theo hệ thống pháp luật nhất nguyên của mình, các Toà án của Hà Lan áp dụng
trực tiếp và tức thời các quy phạm điều ước mà không cần một thể thức chuyển hoá
vào nội luật.
1.2.2.2 Thực hiện Điều ước quốc tế gián tiếp
Việc gián tiếp các điều ước quốc tế sau khi đã được nội luật hóa (chuyển hóa).
Những quốc gia có thực tiễn chuyển hóa gián tiếp điều ước quốc tế thường thông
qua cơ quan lập pháp để đưa ra các quy định của điều ước quốc tế vào hệ thống các
quy phạm của luật quốc gia.
- Theo quan điểm thứ hai: pháp luật quốc tế không áp dụng trực tiếp trong các lĩnh
vực của pháp luật quốc gia; điều ước quốc tế, muốn phát huy hiệu lực của mình ở
trong các nước thì đòi hỏi phải được chuyển hoá vào nội luật, nghĩa là toàn bộ hoặc
một phần nội dung của điều ước đó phải được chuyển đổi dưới các hình thức văn

bản quy phạm pháp luật.
Trái ngược với học thuyết về sự chấp nhận, học thuyết về sự chuyển hoá thể hiện
rõ tính nhị nguyên luận. Học thuyết này xuất phát từ chỗ cho rằng các quy phạm
pháp luật quốc tế không thể được áp dụng như các quy phạm pháp luật trong nước
vì pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập với nhau.
Những quy phạm điều ước quốc tế muốn được áp dụng trong nước thì phải được
chuyển đổi (chuyển hóa) thành quy phạm pháp luật trong nước.
Đức, Cô-Oét, Kê-nya, Hy Lạp, Anh, Ma-lai-xia, Băng-la-đét… là những quốc gia
có cách tiếp cận nhị nguyên luận:
+ Đối với Đức, tất cả các điều ước quốc tế nước này tham gia đều phải được nội
luật hóa, thông thường bằng một đạo luật công bố điều ước.


+ Điều 70 Hiến pháp Cô-Oét quy định rằng Hội đồng Bộ trưởng chuyển hóa quy
định của luật pháp quốc tế vào nội luật bằng Nghị định, và Nghị viện bằng luật.
Hiến pháp Cô-Oét còn quy định những loại điều ước cần phải được chuyển hóa
bằng luật, gồm các điều ước quốc tế về hòa bình và liên minh, điều ước liên quan
đến lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên hoặc chủ quyền quốc gia, điều ước về thương
mại…
+ Điều 2 Khoản 6 Hiến pháp Kê-ny-a 2010 quy định rằng cần phải ban hành văn
bản nội luật để điều ước quốc tế có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là nếu không nội luật hóa thì Kê-ny-a không thi hành nghĩa vụ của mình.
Những nghĩa vụ quốc tế, nếu không nội luật hóa thì cũng vẫn được thực hiện trên
bình diện quốc tế. Kenya hiện đang xem xét làm thế nào để cải tiến việc nội luật
hóa điều ước quốc tế, tránh không tạo ra quá nhiều luật cồng kềnh, đồ sộ để thực
thi điều ước quốc tế. Theo hướng đó, luật Kê-ny-a sẽ chỉ chọn chuyển hóa những
quy định mang tính chung chung, mơ hồ để làm rõ hơn những quy định đó bằng
cách Nghị viện đưa ra giải thích về những quy định của điều ước chưa đủ rõ ràng,
chi tiết.
+ Điều 28 Hiến pháp Hy Lạp quy định rằng các điều ước quốc tế có hiệu lực đối

với Hy Lạp sẽ trở thành một phần của luật pháp Hy Lạp và “sẽ có giá trị cao hơn
những quy định pháp luật trái với nó”. Tổng thống được trao quyền phê chuẩn điều
ước trên bình diện quốc tế. Sau khi Nghị viện chấp thuận điều ước thì Tổng thống
vẫn có quyền không phê chuẩn điều ước đó. Luật phê chuẩn điều ước được Quốc
hội thông qua và Tổng thống ký công bố. Đối với các điều ước không cần phải phê
chuẩn (Điều 36 khoản 2 Hiến pháp Hy Lạp: điều ước về thương mại, thuế, hợp tác
kinh tế, và tham gia vào tổ chức quốc tế và những loại điều ước khác có điều
khoản nhượng bộ khác ảnh hưởng đến cá nhân), quyết định của Bộ trưởng liên


quan được công bố trên Công báo của Hy Lạp là cơ sở để điều ước có hiệu lực
trong nước.
+ Điều 76 Hiến pháp Ma-lai-xi-a giao Quốc hội thẩm quyền ban hành đạo luật
nhằm thực hiện điều ước quốc tế. Để một điều ước có hiệu lực thi hành trong nước,
Quốc hội phải ban hành một đạo luật liên quan. Có ba cách để Quốc hội thực hiện
quyền này:
- Ban hành một “đạo luật cho phép”, theo đó các điều khoản của điều ước quốc tế
được sao chép và đưa vào đạo luật. Một số đạo luật được ban hành theo cách này
là: Đạo luật Công ước Geneva năm 1962, sửa đổi năm 1993, tạo hiệu lực pháp lý
cho bốn Công ước Geneva về bảo hộ các nạn nhân chiến tranh năm 1949; Đạo luật
năm 1966 về các quyền ưu đãi ngoại giao, tạo hiệu lực pháp lý cho Công ước Viên
về quan hệ ngoại giao năm 1961…
- Xây dựng luật nhằm thực hiện các nghĩa vụ quy định trong điều ước quốc tế, và
thường không đưa vào luật mọi quy định của một điều ước;
- Chuyển hóa bằng cách sửa đổi pháp luật hiện hành để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ quy định trong điều ước quốc tế mà không đề cập đến bất kỳ điều ước cụ thể
nào.
+ Tương tự, các điều ước quốc tế mà Bru-nây là thành viên cũng được chuyển hóa
vào pháp luật giống như cách Ma-lai-xia tiến hành.
Pháp luật nhiều nước bên cạnh việc thừa nhận ưu thế của điều ước quốc tế so với

pháp luật quốc gia, còn quy định rằng, điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực ở trong
nước sau khi có hành vi chuyển đổi (Điều 25, Điều 29, Luật Cơ bản (GG) của
CHLB Đức; Điều 38- Các nguyên tắc chung về luật của Italia; Điều 28 Hiến pháp
năm 1975 của Hy Lạp).
1.2.2.3 Đánh giá chung của hai phương thức đối với thực hiện điều ước quốc tế.


Cách tiếp cận nhị nguyên luận có ưu điểm hơn so với cách tiếp cận nhất nguyên
luận ở chỗ: việc xem xét cân nhắc ban hành luật để thi hành sẽ giúp quốc gia đánh
giá được rõ ràng hơn tác động của một điều ước đối với quốc gia mình; việc ban
hành văn bản pháp luật trong nước để thi hành điều ước cũng giúp các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong quốc gia đó dễ dàng viện dẫn và áp dụng quy định của điều
ước.
Tuy nhiên, cách tiếp cận nhị nguyên luận cũng có một số điểm bất lợi như:
+ Việc cần phải thông qua luật để làm điều ước có hiệu lực pháp lý trong nội bộ
quốc gia có thể mất thời gian, làm mất đi tính thời sự của điều ước trong một vài
trường hợp; đôi khi có thể tạo ra những luật cồng kềnh, nhiều trường hợp luật chỉ
sao chép lại hoàn toàn những quy định đã có trong điều ước.
+ Có những điều ước chưa có hiệu lực nhưng vì đã được quốc hội thông qua, ban
hành thành luật hoặc văn bản dưới luật nên những quy định của điều ước đó trên
thực tế đã bắt đầu được cho phép thực hiện, dù thành viên khác của điều ước vẫn
chưa bị ràng buộc bởi điều ước đó. Điều này có thể dẫn đến bất lợi cho chính quốc
gia đó trong quan hệ với quốc gia thứ ba, nhất là khi điều ước có liên quan đến
những nhượng bộ về kinh tế.
+ Có nhiều trường hợp điều ước chỉ có ảnh hưởng đến một bộ phận nhất định
người dân, nếu được áp dụng trực tiếp thì tác động đó chỉ dừng lại ở một bộ phận
nhỏ đó, nhưng nếu thông qua thành luật hoặc văn bản dưới luật thì rất có khả năng
phạm vi tác động của điều ước lại mở rộng.
+ Việc ban hành văn bản pháp luật để mang lại hiệu lực pháp lý trong nước cho
một điều ước cũng có thể là gánh nặng cho cơ quan làm luật của nhiều nước cả về

thời gian và khối lượng công việc, nguồn lực con người. Trong bối cảnh mỗi quốc
gia có thể ký kết đến hàng trăm điều ước quốc tế mỗi năm thì đây là bất lợi cần


phải tính đến. Là nước nhị nguyên luận, Kê-ny-a đang xem xét thay đổi cách tiếp
cận trong việc chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Theo đó, sẽ
chỉ chuyển hóa những quy định của điều ước quốc tế mang tính chung chung, chưa
đủ rõ ràng, chi tiết.
1.2.2.4. Quy định của hiến pháp Việt Nam
Từ khi gia nhập Liên hợp quốc đến nay, Việt Nam luôn tuân thủ và thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của quốc gia thành viên theo quy định của Hiến chương. Tuy nhiên,
trong các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 cũng như các bộ luật, luật
và văn pháp quy phạm pháp luật khác của nước ta được ban hành trước Hiến pháp
năm 2013 không có văn bản nào quy định nghĩa vụ tuân thủ Hiến chương Liên hợp
quốc. Do vậy, Hiến pháp năm 2013 hiến định, Việt Nam “tuân thủ Hiến chương
Liên hợp quốc” tại Điều 12 là lần đầu tiên nước ta khẳng định và “tự ghi nhận”
nghĩa vụ quốc tế đặc biệt quan trọng này. Đây là một sự thay đổi lớn, có tính bước
ngoặt về chính sách đối ngoại của Nhà nước ta nhằm cụ thể hóa quan điểm nhất
quán Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế. Do vậy,
hợp tác toàn diện với Liên hợp quốc trong khuôn khổ của Hiến chương để xây
dựng, bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, đa dạng hoá và
đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế là rất cần thiết. Cũng chính từ mối quan hệ
hợp tác với Liên hợp quốc mà vị thế, vai trò của nước ta trong khu vực và thế giới
ngày càng được củng cố và nâng cao. Chính vì vậy, hiến định nghĩa vụ tuân thủ
Hiến chương Liên hợp quốc trong Hiến pháp là một tất yếu khách quan trong bối
cảnh quốc tế ngày nay.
Bên cạnh việc hiến định nghĩa vụ tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, lần đầu
tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 cũng đã hiến định nghĩa
vụ tuân thủ các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Mặc dù trước đó,
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005 đã



quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ Điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”, nhưng hiến
định nghĩa vụ tuân thủ Điều ước quốc tế trong Hiến pháp là minh chứng khẳng
định mạnh mẽ nhất, có giá trị pháp lý cao nhất với các nước trên thế giới Việt Nam
là quốc gia tôn trọng luật quốc tế, hành xử đúng luật quốc tế và thực hiện các mối
quan hệ trên cơ sở luật quốc tế.
Thực tiễn ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam từ trước đến nay
cho thấy Việt Nam nghiêng về cách tiếp cận nhất nguyên luận, tức là điều ước
quốc tế có thể được áp dụng trực tiếp trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy
nhiên, việc có áp dụng trực tiếp được một điều khoản của điều ước hay không còn
phụ thuộc vào chính bản chất của quy định đó (có quy định về quyền, nghĩa vụ của
tổ chức, cá nhân hay không; quy định có đủ rõ, đủ chi tiết hay không).
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TẠI VIỆT
NAM
2.1 Những vấn đề thực hiện điều ước quốc tế trong Luật kí kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế 2005
Điều ước quốc tế được các quốc gia tôn trọng và thực hiện. Hoạt động thực hiện
Điều ước quốc tế đã ký kết và gia nhập sau khi Điều ước quốc tế có hiệu lực đối
với quốc gia. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh quá trình thực hiện Điều ước quốc tế
nhằm nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế.
2.1.1 Về kế hoạch thực hiện Điều ước quốc tế
Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 xem xét thực hiện Điều
ước quốc tế như là một quá trình, các vấn đề trong đó là một tổng thể thống nhất
liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó việc đầu tiên trong thực hiện Điều ước quốc tế
mà Nhà nước ta quan tâm là kế hoạch thực hiện Điều ước quốc tế. Mục này gồm 3
điều: Từ Điều 71 đến Điều 73, đề ra kế hoạch đưa Điều ước quốc tế đi vào thực



hiện trong thực tế. Cơ quan đề xuất trình Chính phủ quyết định kế hoạch thực hiện
Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia
nhập, Thủ tướng Chính phủ quyết định kế hoạch thực hiện, sau đó cơ quan đề xuất
và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có
trách nhiệm triển khai thực hiện.
2.1.2. Về hoạt động giải thích Điều ước quốc tế
Giải thích Điều ước quốc tế là việc xác định tư tưởng và nội dung đích thực của
điều ước nhằm mục đích thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nhất các qui định
của điều ước. Đây là một phần của quá thực hiện Điều ước quốc tế , được quan
tâm không chỉ ở phương diện quốc gia. Điều ước quốc tế phải được giải thích phù
hợp với tinh thần, mục đích, nội dung của Điều ước quốc tế và nghĩa thông thường
của nhưng thuật ngữ được sử dụng trong Điều ước quốc tế . Giải thích Điều ước
quốc tế của chúng ta xẩy ra trong 2 trường hợp: Một là khi có đề nghị giải thích
Điều ước quốc tế của bên ký kết nước ngoài, nếu giải thích được các bên chấp
nhận thì được có giá trị hiệu lực ràng buộc các bên và có hiệu lực thực hiện trong
quá trình áp dụng; chúng ta tiến hành giải thích để các tổ chức cơ quan trong nước,
các pháp nhân, thể nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam áp dụng phù hợp với
pháp luật Việt Nam. Điều 74 quy định các trường hợp giải thích Điều ước quốc tế
có ghi nhận cá nhân có quyền đề nghị giải thích. Tuy nhiên, các qui định tại Điều
78 về hồ sơ trình, báo cáo về việc giải thích Điều ước quốc tế lại chỉ đề cập tới đề
nghị giải thích của “bên kí kết nước ngoài” hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan mà
không đề cập tới đề nghị giải thích của “cá nhân”. Tương tự Điều 79 quy định về
việc thông báo giải thích Điều ước quốc tế lại tiếp tục bỏ qua “cá nhân”. Đương
nhiên qui định tại Điều 79 là hệ quả tất yếu của Điều 78 bởi lẽ trong hồ sơ trình,
báo cáo về việc giải thích Điều ước quốc tế không có đề nghị giải thích của cá
nhân thì đương nhiên cơ quan đề xuất cũng không phải gửi thông báo về nội dung
giải thích của cá nhân. Như vậy việc quy định cá nhân đề nghị việc giải thích Điều


ước quốc tế trong chính văn bản luật có lẽ đã mang tính hình thức nhiều hơn là

thực tế.
Các căn cứ để giải thích Điều ước quốc tế bao gồm:
“a. Văn bản Điều ước quốc tế và các phụ lục kèm theo Điều ước quốc tế đó;
b. Thoả thuận có liên quan đến Điều ước quốc tế của toàn bộ thành viên Điều
ước quốc tế khi kí kết Điều ước quốc tế đó;
c. Văn kiện có liên quan đến Điều ước quốc tế do thành viên Điều ước quốc tế
đưa ra khi kí kết Điều ước quốc tế đó và được các thành viên khác chấp nhận;
d. Thoả thuận về việc giải thích hoặc thực hiện các quy định của Điều ước quốc tế
giữa các thành viên Điều ước quốc tế sau khi kí Điều ước quốc tế đó;
đ. Thực tiễn giải thích Điều ước quốc tế được các thành viên Điều ước quốc tế
công nhận;
e. Quy định của pháp luật quốc tế được áp dụng trong quan hệ giữa các thành viên
của Điều ước quốc tế ” (Khoản 2, Điều 75- Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế 2005 )
Tại Điều 76 quy định rõ thẩm quyền quyết định việc giải thích Điều ước quốc tế
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và của Chính phủ. Quyết định giải thích Điều ước
quốc tế phải được thể hiện bằng văn bản với những nội dung: tên, thời gan và địa
điểm ký Điều ước quốc tế được giải thích, nội dung giải thích Điều ước quốc tế ,
trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và các cơ quan tổ chức hữu quan,
trình tự thủ tục trình, quyết định giải thích Điều ước quốc tế theo quy định tại
Điều 77- Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 . Điều ước
quốc tế được giải thích theo các phương pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào các qui
định của điều ước về giải thích và hoàn cảnh cụ thể của các bên khi ký kết và thực
hiện. Các phương pháp giải thích bao gồm: Giải thích theo văn phạm, giải thích
theo logic, giải thích theo lịch sử, giải thích theo thực tiễn và giải thích theo tài
liệu trù bị. Hoạt động giải thích Điều ước quốc tế ở nước ta là sự kết hợp của các


phương pháp để nhằm mục đích sử dụng Điều ước quốc tế một cách hiệu quả
nhất.

2.1.3. Pháp luật Việt Nam cũng dự liệu và điều chỉnh những tình huống phát
sinh trong quá trình thực hiện Điều ước quốc tế
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 có đề cập đến vấn đề sửa
đổi, bổ sung gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện
toàn bộ hoặc một phần Điều ước quốc tế , cơ sở của vấn đề này xuất phát từ thực
tiễn thực hiện Điều ước quốc tế có nhiều vấn đề phát sinh. Không phải tất cả
những nội dung trong điều ước cũng như điều ước lúc nào cũng phù hợp với thực
tế. Xã hội luôn vận động thay đổi không ngừng làm cho các điều kiện hoàn cảnh
khách quan cũng như chủ quan thay đổi, Điều ước quốc tế muốn phù hợp thì cần
sửa đổi bổ sung cho tương thích với hoàn cảnh thực tế cũng như có thể gia hạn để
kéo dài hiệu lực Điều ước quốc tế mà không phải ký lại, chúng ta cũng có thể từ
bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ khi nó không còn phù hợp với lợi ích quốc gia thành viên
xét trong mối tương quan với lợi ích cộng đồng quốc tế. Văn bản đề nghị sửa đổi,
bổ sung gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ phải nêu được
mục đích, yêu cầu, cơ sở pháp lí, nội dung và những hệ quả pháp lí, kèm theo ý
kiến của các ban ngành hữu quan về vấn đề này.
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 xây dựng kế hoạch thực
hiện Điều ước quốc tế gắn liền với tổ chức thực hiện, với nhiệm vụ giải quyết các
vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện Điều ước quốc tế như giải thích, sửa
đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện đã
tạo thuận lợi về mặt pháp lý đảm bảo cho các cơ quan có thẩm quyền tăng cường
hơn nữa công tác quản lý Điều ước quốc tế , tạo điều kiện cho Điều ước quốc tế
được thực thi, phù hợp lợi ích quốc gia và thực tiễn áp dụng.
Các quy định về công bố, giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn,…là hoạt động thực
hiện Điều ước quốc tế mang tính thủ tục, tạo điều kiện cho Điều ước quốc tế được


triển khai trên thực tế một cách tốt nhất. Vấn đề cốt lõi của việc thực hiện Điều
ước quốc tế là xử lí mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và luật quốc gia.
2.1.4 Những điểm mới về thực hiện Điều ước quốc tế trong luật kí kết, gia nhập

và thực hiện điều ước quốc tế 2005
Khác với cách hiểu truyền thống của Pháp lệnh năm 1998, theo cách hiểu và thể
hiện mới của luật thì thực hiện Điều ước quốc tế không chỉ là những gì liên quan
trực tiếp đến việc thực hiện Điều ước quốc tế đã được ký kết, gia nhập. Thực hiện
Điều ước quốc tế phải được xem xét như là một quá trình, trong đó có thể phát
sinh những vấn đề cần thiết phải điều chỉnh trong một thể thống nhất có liên quan
chặt chẽ với nhau với phương châm một mặt đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế
của Việt Nam, mặt khác đảm bảo các quyền chính đáng của Việt Nam không bị vi
phạm.
Ngoài ra, vấn đề xây dựng kế hoạch thực hiện Điều ước quốc tế phải luôn gắn với
việc tổ chức thực hiện Điều ước quốc tế , gắn với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
phát sinh trong quá trình thực hiện Điều ước quốc tế như giải thích Điều ước quốc
tế, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, tạm đình chỉ thực hiện Điều ước quốc tế do vi phạm
của bên ký kết nước ngoài…Do đó vấn đề thực hiện Điều ước quốc tế được Luật
ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 xây dựng thành một chương
bao gồm 4 mục:
1-Kế hoạch thực hiện Điều ước quốc tế ;
2- Giải thích Điều ước quốc tế ;
3- Sửa đổi, bổ sung, gia hạn Điều ước quốc tế ;
4- Chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một
phần Điều ước quốc tế .
Quy định như vậy nhằm tạo thuận lợi về mặt pháp lý đảm bảo cho các cơ quan có
thẩm quyền tăng cường hơn nữa công tác quản lý về Điều ước quốc tế , theo dõi,
giám sát việc thực hiện Điều ước quốc tế , sơ lược, tổng kết, đánh giá và định kì


báo cáo việc thực hiện các Điều ước quốc tế lên Chủ tich nước và Thủ tướng
Chính phủ; đồng thời giao cho Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm
trước Chính phủ về công tác này.
2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện điều ước quốc tế

Thời gian gần đây, Việt Nam chủ động đẩy nhanh tiến trình hội nhập với việc tích
cực ký kết và gia nhập vào các điều ước quốc tế song và đa phương trong khu vực
cũng như trên thế giới nhằm thể hiện rõ chính sách mở cửa, hội nhập toàn diện và
sâu rộng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật quốc gia đã có những thay đổi
cơ bản nhằm đảm bảo tương thích với những cam kết quốc tế mà Việt Nam có
nghĩa vụ thi hành. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là
văn bản luật điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều
ước quốc tế của Việt Nam. Luật đã ghi nhận hai phương thức áp dụng điều ước mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước ước
quốc tế vào pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng điều ước quốc tế được
thực thi bằng phương thức nào, nói một cách khác, điều ước quốc tế sau khi đã
được hoàn tất các thủ tục ký kết, sẽ được áp dụng trực tiếp hay phải thông qua một
thủ tục chuyển hóa bằng việc sửa đổi hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật quốc gia? Luật lại không quy định rõ. Cho nên, việc giải quyết một cách triệt
để các vấn đề nêu trên sẽ đặt nền móng cho những luận cứ khoa học vô cùng quý
báu, nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật quốc tế - đặc biệt là cơ
chế thực thi các điều ước quốc tế theo nguyên tắc pacta sunt servanda; bảo vệ tối
đa lợi ích dân tộc, bảo vệ triệt để chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện hội
nhập và toàn cầu hoá.
2.2.1. Quan điểm về áp dụng điều ước quốc tế theo pháp luật Việt Nam


Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, mỗi quốc gia là thành
viên của điều ước quốc tế đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức
thực hiện các điều khoản của điều ước quốc tế trong phạm vi quyền lực pháp lý
của mình.
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005
quy định: “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều
ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều

ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của
điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi,
bổsung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực
hiện điều ước quốc tế đó”. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai
phương pháp thực hiện điều ước quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điềuước
vào văn bản pháp luật quốc gia.
- Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hình thức “nội luật hoá” toàn bộ hoặc một
phần nội dung của điều ước quốc tế thông qua một quyết định chấp thuận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, tức là các quốc gia chỉ bằng một văn bản pháp luật
thừa nhận việc thi hành tất cả các điều ước quốc tế mà mình tham gia sẽ được áp
dụng trên phạm vi lãnh thổ mà không cần sửa đổi hay ban hành các văn bản pháp
luật quốc gia chuyên biệt. Văn bản này thường có giá trị pháp lý tương đương với
một đạo luật kí kết và thực thi các điều ước quốc tế nói chung của một quốc gia
hoặc có thể được ghi nhận trong các văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp,
Bộ luật…
Về bản chất, khi áp dụng trực tiếp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã
được coi như là một “nguồn luật” bên cạnh pháp luật quốc gia và được thực hiện
như pháp luật quốc gia. Có nghĩa là khi điều ước quốc tế đã được ký kết và có hiệu
lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa


vụ thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của điều ước quốc
tế đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Nhà nước không nhất
thiết phải thực hiện các thủ tục “chuyển hoá điều ước quốc tế” bằng việc xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật truyền thống theo quy định của Luật, vừa phức
tạp,kéo dài và tốn kém.
Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung
cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư,
Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật

Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, hoặc Hiệp định về thuế…
-Thực hiện gián tiếp điều ước quốc tế là Chuyển hóa điều ước quốc tế nhà nước
của quốc gia thành viên ban hành các văn bản qui phạm pháp luật mới chứa đựng
nội dung, tinh thần của các điều ước mà quốc gia đã kí kết, tham gia hoặc sửa đổi,
bổ sung các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan để phù hợp với các điều ước
quốc tế nhằm chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường
hợp này thường xảy ra khi nội dung của điều ước quốc tế chưa đủ cụ thể, rõ ràng
để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn pháp luật hoặc nội dung điều ước đó có
điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp.
Bản chất của phương thức này là dù bằng cách này hay cách khác trong quá trình
“chuyển hóa” các quy phạm pháp luật quốc tế không bị biến đổi thành các qui
phạm pháp luật quốc gia mà qui phạm pháp luật quốc tế vẫn là qui phạm pháp luật
quốc tế, chỉ xuất hiện hoặc tồn tại sự thay đổi các qui phạm pháp luật quốc gia để
phù hợp với tinh thần và nội dung của các qui phạm pháp luật quốc tế. “Các văn
bản nội luật hóa là các văn bản qui phạm pháp luật trong nước nhưng có một số
nội dung pháp lý vốn là nội dung pháp lý của điều ước quốc tế có liên quan. Nếu


×