Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nguyên lý của sự phát triển, vận dụng thực tế để phát triển nền giáo dục việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.06 KB, 20 trang )

/Mục Lục:
Lời mở đầu………………………………………………………………………………2
A. Lý thuyết.
I. Các khái niệm cơ bản
1. Nguyên lý là gì?..............................................................................................................3
2. Khái niệm về sự phát triển..............................................................................................4
2.1. Theo quan niệm của phương pháp siêu hình
2.2. Theo quan niệm của phương pháp biện chứng
II. Tính chất và đăc điểm của sự phát triển.........................................................................4
1. Đặc trưng của sự phát triển.............................................................................................4
2.Phát triển mang tính khách quan......................................................................................6
3. Phát triển mang tính phổ biến.........................................................................................6
4. Phát triển mang tính đa dạng, phong phú.......................................................................7
III. Ý nghĩa phương pháp luận...........................................................................................8
B. Vận dụng thực tế để tìm ra giải pháp phát triển nền giáo dục Việt Nam
I. Thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện nay............................................................9
II. Vận dụng nguyên lý để tìm ra giải pháp phát triển nền giáo dục Việt Nam.................10
1.Những đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn đổi mới.....................................................10
2.Đòi hỏi của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế về giáo dục.........................11
3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục.....................................................................12
4. Tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục....................................................................................................................................15

1


Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết, phát triển là khuynh hướng của vận động
đi từ thấp đến cao, đi từ đơn giản đến phức tạp. Còn vận động
thì có cái sinh ra và có cái mất đi, có cái vận động đi lên có cái
vận động đi xuống. Phát triển gồm có: phát triển trong tự nhiên


là thích nghi cơ thể với môi trường, trong xã hội là nâng cao
năng lực tự nhiên, trong tư duy là khả năng hoàn thiện nhận thức
của con người. Mọi sự vật và hiện tượng luôn không ngừng vận
động và phát triển.
Nhóm 2 sẽ đi trình bày nguyên lý về sự phát triển, từ đó sẽ rút ra
được ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này, nhằm áp
dụng vào thực tiễn thông qua sự vận dụng của bản thân chúng
ta.A. Lý thuyết.
I. Các khái niệm cơ bản
1. Nguyên lý là gì?
Nguyên lý là những luận điểm về học thuyết lý luận mà tính chân lý của chúng là hiển
nhiên không cần chứng minh được xác định trong tư duy của con người và có chức năng
lý giải mọi sự vật hiện tượng. Ví dụ: mặt trời mọc hướng đông lặn hướng tây là một chân
lý không do nhận thức chúng ta quyết định. Người định ra được sự vật trên chỉ là định ra
một nguyên lý mà thôi.
Mối liên hệ này dùng để chỉ sự ràng buộc, làm tiền đề chỉ ra sự tồn tại giữa các mặt trong
một sự vật hay giữa các sự vật với nhau, mối liên hệ trên mang tính phổ biến, gồm có liên
hệ bên trong và bên ngoài; liên hệ gián tiếp và trực tiếp. Vì vậy, khi xét chúng ta có cái
nhìn toàn diện. Liên hệ trong không gian xem xét sự vật ở vị trí khác nhau dẫn đến có
mối quan hệ khác nhau. Liên hệ thời gian, xem xét mối liên hệ khi chúng ở nhiều thời
điểm, quá trình khác nhau của sự phát triển. Ví dụ: hôm nay, anh ta là người xấu nhưng
ngày mai anh ta là người tốt.
Nguyên lý có mối liên hệ phổ biến : mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ
ràng buộc với nhau. Mối liên hệ này phải là mối liên hệ phổ biến khách quan để sự vật
hiện tượng luôn phát triển, không cô lập. Mối liên hệ phổ biến khách quan chi phối tổng
quát mọi sự vận động của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa thực tiễn: chúng ta phải chú trọng tất cả các mối liên hệ, đánh giá đúng vai trò
mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Qua hoạt động thực tiễn, chúng ta sử dụng nhiều
2



biện pháp, phương tiện thích hợp để thúc đẩy mối quan hệ đó phát triển một cách tích
cực. Ví dụ: về không gian, trước đây anh ta là con nhà giàu, nhưng hiện tại anh ta là
người nghèo. Vì vậy trước đây anh ta là người tốt nhưng hiện nay anh ta trở thành kẻ
trộm cắp.
1.2. Nguyên lý về sự phát triển.
Như chúng ta đã biết phát triển là một khuynh hướng của vận động, đi từ thấp đến cao, đi
từ đơn giản đến phức tạp. Còn vận động thì có cái sinh ra và có cái mất đi; có cái vận
động đi lên có của vận động đi xuống. Phát triển gồm có: phát triển trong tự nhiên là
thích nghi cơ thể với môi trường; trong xã hội là nâng cao năng lực tự nhiên; trong tư duy
là hoàn thiện khả năng nhận thức của con người.
Mọi sự vật hiện tượng luôn không ngừng vận động và phát triển. Vì vậy, khi xem xét 1 sự
vật phải có quan niệm sự vật đó phát triển( như đã nói ở trên phát triển là khuynh hướng
vận động đi từ thấp đến cao).
Ý nghĩa thực tiễn: chúng ta cần chú trọng đến điều kiện khả năng, tình hình thực tế của
đối tượng để nhận ra mọi xu hướng thay đổi có thể xảy ra đối với đối tượng.
2. Khái niệm về sự phát triển
2.1. Theo quan niệm của phương pháp siêu hình
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần túy về lượng, không có
sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng ; đồng thời nó cũng xem sự phát triển là quá
trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
2.2. Theo quan niệm của phương pháp biện chứng
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng phát triển là quá trình vận động
của sự vật, hiện tượng theo hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận động
(biến đổi) nói chung; đó không phải sự biến đổi tăng giảm đơn thuần về lượng hay sự
biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng
hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa,

nâng cao những nhân tố tích cực từ sự vật hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện
tượng mới.
II. Tính chất và đăc điểm của sự phát triển
1. Đặc trưng của sự phát triển
3


Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển thống nhất hữu cơ với nhau, bởi vì các sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ
biến, nhờ có liên hệ mới có tác động qua lại và gây ra sự biến đổi- tức là vận động, mà
nếu không có vận động thì không có sự phát triển, tuy nhiên, “vận động” và “ phát triển ”
là hai khái niệm khác nhau. Vận động là mọi biến đổi nói chung, không tính đến xu
hướng, kết quả của những biến đổi. Phát triển không khái quát mọi vận động mà chỉ khái
quát những sự vận động đi lên, làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc
hậu.
Phát triển là phạm trù triết học khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Như vậy, sự phát triển là quá
trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kế cấu phức tạp của sự vật và do đó làm nảy
sinh tính quy định mới cao hơn về chất.
Phép biện chứng duy vật khẳng định sự phát triển, đổi mới là quá trình diễn ra không
ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy của con người.
Trong giới hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi của cơ
thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở
khả năng hoàn thiện về trao đổi vật chất giữa cơ thể với môi trường. Trong xã hội, sự
phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội theo quy luật, thông
qua hoạt động thực tiễn của con người, hướng tới sự nghiệp giải phóng con người. Trong
tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn về tự
nhiên và xã hội và nhận thức chính bản thân con người.
Phép biện chứng duy vật khẳng định phát triển là khuynh hướng chung của các sự vật,
hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tuyến, mà quanh co, phức tạp, theo hình

xoáy ốc; trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Phép siêu hình do tuyệt đối hóa trạng thái ổn định của sự vật đi đến phủ nhận sự phát
triển. Nếu có thừa nhận sự phát triển thì cũng chỉ là sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại tuần
hoàn mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự phá hủy cái cũ và sự ra đời của cái
mới.
Về nguồn gốc của sự phát triển, theo quan điểm duy tâm là từ những lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen cho rằng sự phát triển giới tự nhiên của xã hội
đều đã được thiết định trước, từ sự vận động của “ý niệm tuyệt đối”. Theo quan điểm duy
vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, từ cấu trúc
của sự vật, do mâu thuẫn bên trong sự vật quy định.
Do đó phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự
vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị
của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới, tạo ra khuynh hướng phát
triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay lại
điểm xuất phát, nhưng trên một cơ sở cao hơn.
2.Phát triển mang tính khách quan
Nó biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Sự phát triển bao giờ cũng
mang tính khách quan bởi vì theo như phân tích của quan điểm duy vật biện chứng nguồn
gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân của sự vật. Đó là quá trình bắt nguồn từ
4


bản thân của sự vật hiện tượng, là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh
trong sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng đó. Nhờ đó sự vật hiện tượng luôn
luôn phát triển. Vì vậy sự phát triển là thuộc tính tất yếu, là tiến trình khách quan không
phụ thuộc vào ý thức của con người.
VD: Trong quá trình học tập, sinh viên gặp rất nhiều mâu thuẫn, số lượng kiến thúc cần
tiếp thu thì lớn nhưng thời gian quy định thì hạn chế. Để đáp ứng mục tiêu đề ra, sinh
viên cần đọc thật nhiều tìm hiểu thật nhiều để tích lũy kiến thức. Khi giải quyết song vấn
đề đó, sinh viên thay đổi về chất, chất chính là kiến thức đã được tiếp thu trong đầu của

sinh viên. Cứ như vậy sinh viên sẽ tiếp tục tiếp thu thêm nhiều kiến thức.
3. Phát triển mang tính phổ biến
Phát triển mang tính phổ biến –phát triển diễn ra tự nhiên , xã hội , tự nhiên diễn ra ở mọi
lúc mọi nơi. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá
trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát
triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và
các phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển.
Ví dụ :
+Trong tư duy :
KHÔNG BIẾT

BIẾT NHIỀU

BIẾT ÍT

+Trong tự nhiên:

5


+Trong xã hội:
Quá trình phát triển trong lĩnh vực công nghiệp:

4. Phát triển mang tính đa
dạng, phong phú
Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú: Phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá
trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác
nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật
còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự

tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm
thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Chẳng hạn,
nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở
các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi
mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các
quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia
đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như
thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm
phát triển và kém phát triển.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể.Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các
yếu tố, giữa các mặt của sự vật và trong sự tác động qua lại giữ sự vật đó với sự vật khác.
Trên cơ sở đó có nhận thức và hành động đúng với thực tiễn khách quan.Muốn thực sự
hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên
hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
6


hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng
ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc
Đối lập với quan điểm biện chứng toàn diện thì quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện
tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Chủ nghĩa
chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt vốn không có
mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện cường
điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.

Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn cần phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong hoạt động thực
tiễn cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác động; xác định rõ vị trí
vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để đưa ra các biện
pháp đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của đối tượng cần tác động nhằm tránh quan
điểm phiến diện, siêu hình, máy móc.
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có
quan điểm phát triển. Theo Lênin: “Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự
phát triển, trong sự tự vận động…trong sự biến đổi của nó”
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập
với sự phát triển.
Sự phát triển bao hàm cả sự thụt lùi tạm thời và diễn ra quanh co, phức tạp do đó trước
những khó khăn không được hoang mang, dao động mà phải có niềm tin chắc chắn vào
quy luật phát triển khách quan. Cái mới nhất định thắng đó là xu hướng tất yếu.
Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong
nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của con nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng
qui luật.
-Nguyên lý của sự phát triển đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn phải có sự quán triệt về
quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể:
-Quan điểm phát triển yêu cầu:
* Thứ nhất, khi xem xét các sự vật hiện tượng cần đặt chúng trong trạng thái vận động
biến đổi không ngừng, cần vạch ra tương lai trong cái hiện tại,phát triển những nhân tố
mới tiến bộ, đang tiềm ẩn trong cái cũ.
* Thứ hai, chống lại bệnh hữu khuynh, bảo thủ, trì trệ.
* Thứ ba, chống lại bệnh tả khuynh, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, giai đoạn.
B. Vận dụng thực tế để tìm ra giải pháp phát triển nền giáo dục Việt Nam

I. Thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
+Ưu điểm:
7


-Nhu cầu học tập của công dân được đáp ứng tốt hơn
-Đạt được một số kết quả quan trọng trong các mục tiêu chiến lược(nâng cao dân trí, dào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài)
-Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu
-Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn
-Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường
+Nhược điểm:
- Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; chất
lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so với
yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách
hàng đầu.
- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện
đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính
sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
- Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn yếu
kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành, kỹ năng sống…
- Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối.
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là nguyên
nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, còn
nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng lực
của một bộ phận còn thấp.

- Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên kết
với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ phương
châm.
- Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa được
quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
- Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ chế,
chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu những quyết
sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành rồi nhưng chỉ đạo
tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục
còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
8


II. Vận dụng nguyên lý để tìm ra giải pháp phát triển nền giáo dục Việt Nam
1.Những đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn mới
Bước sang giai đoạn mới, đất nước ta đứng trước những cơ hội lớn và thách thức đều
rất lớn, đó là:
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng tiên tiến, hiện đại.
- Phấn đấu không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng dựa chủ yếu vào vốn, đất đai, tài
nguyên và lao động, sang đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu dựa ngày càng mạnh vào tri
thức, khoa học và công nghệ.
- Đẩy mạnh có hiệu quả quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao năng lực hợp tác và cạnh
tranh quốc gia trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng hơn.
- Nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân; xây dựng xã hội ngày càng dân chủ, công
bằng, văn minh hơn.
- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia.

Những vấn đề trên đã và đang đặt ra những yêu cầu, những nội dung rất mới, rất cao
về nguồn lực con người, với những giá trị xã hội mới, tiêu chí mới về phẩm chất và năng
lực của mỗi con người và cả cộng đồng (như năng lực hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh trên
trường quốc tế; năng lực làm chủ - ứng dụng và sáng tạo khoa học và công nghệ cao;
năng lực kết nối cộng đồng; năng lực lập nghiệp; văn hóa lao động, lối sống hiện đại, văn
minh và mang đậm bản sắc dân tộc…). Tất cả những giá trị mới nêu trên tất yếu đặt ra
những yêu cầu mới về nhận thức, quan điểm, mục tiêu, cơ chế phát triển giáo dục; về nội
dung, chương trình và phương pháp giáo dục; đòi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục của đất nước.
2.Đòi hỏi của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế về giáo dục
Đây là vấn đề rất cần được nhận thức sâu sắc và đầy đủ, vì nó đã và đang tác động trực
tiếp và gián tiếp đến nền giáo dục nước ta, trong khi nước ta lại đang đi sau so với nhiều
nước trong khu vực và thế giới.Chúng ta đã ra nhập WTO và thực hiện Hiệp định chung
về thương mại và dịch vụ thế giới GATS, trong đó thừa nhận giáo dục là một lĩnh vực
dịch vụ khả mại và ta đang từng bước đẩy mạnh hợp tác quốc tế và mở cửa thị trường
dịch vụ giáo dục (có điều kiện).
Quá trình dịch vụ hoá giáo dục gắn với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế về
giáo dục, đã làm cho chức năng của giáo dục có sự thay đổi, được nâng lên một nấc thang
mới trong tương quan với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội - đó là chức năng kinh
9


tế, chức năng đầu tư, chức năng tạo lập giá trị xã hội mới và kết nối xã hội; chức năng
cạnh tranh quốc tế…; giáo dục không còn chỉ thuần tuý là đào tạo nhân lực và phúc lợi xã
hội.
Sự giao thoa, đối thoại, hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nền giáo dục làm cho
nền giáo dục của mỗi nước vừa có các giá trị dân tộc, vừa có giá trị quốc tế-nhân loại. Sự
“thắng”, “thua” của một nền giáo dục không phải chỉ ở sự chiếm lĩnh thị phần giáo dục
lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, mà còn ở chỗ biết tiếp thu, phát huy có hiệu quả
những giá trị tích cực, tiên tiến hơn của các nền giáo dục khác, của nhân loại. Nắm chắc

và phát huy những giá trị của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các giá trị quốc tế để hội nhập
có hiệu quả.
Do những thay đổi về chức năng và cơ chế phát triển giáo dục gắn liền với trình độ
phát triển cao của nền kinh tế - xã hội và của các lĩnh vực khác, giáo dục trên thế giới
đang diễn ra những xu hướng mới cần được nhận thức đầy đủ và sâu sắc, đó là:
- Xu hướng đại chúng hoá.
- Xu hướng đa dạng hoá các loại hình và phương thức giáo dục -đào tạo, phát triển đào
tạo từ xa, qua mạng; sự thay đổi chức năng và mô hình của các cơ sở giáo dục đào tạo.
- Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập và hợp tác cùng với cạnh tranh quốc
tế về giáo dục - đào tạo tăng lên.
- Giáo dục - đào tạo ngày càng gắn bó trực tiếp, nhân quả, hiệu quả hơn với sự phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ.
- Cơ chế phát triển giáo dục-đào tạo ngày càng tương thích hơn với cơ chế phát triển
kinh tế - xã hội, cơ chế thị trường; tính chất dịch vụ và cung ứng dịch vụ giáo dục-đào tạo
ngày càng tăng lên; đổi mới phương thức thực hiện phúc lợi xã hội trong giáo dục để
nâng cao hiệu quả.
- Xu hướng đẩy mạnh xã hội hóa, kết hợp công-tư trong phát triển giáo dục-đào tạo
được đẩy mạnh.
- Giáo dục cho người lớn trở thành một nhu cầu ngày càng tăng, hình thành nhu cầu
học tập suốt đời, mà nhà trường với phương thức đào tạo truyền thống không đáp ứng có
hiệu qủa.
- Bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục-đào tạo trở thành vấn đề của toàn xã hội,
một nội dung quản lý nhà nước, một giá trị quốc gia, một điều kiện để mở rộng hợp tác
quốc tế.
Những xu hướng trên đang buộc hầu như tất cả các nước phải đổi mới và hiện đại hoá
hệ thống giáo dục.Để thực hiện thành công khâu đột phá chiến lược “phát triển nhanh

10



nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” trong giai đoạn mới, Việt Nam
không thể nằm ngoài các xu hướng này.
3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Trước hết cần nhận thức sâu sắc tính cách mạng và khoa học của quá trình đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục. Đây không phải là những sửa đổi, điều chỉnh nhỏ, đơn lẻ,
cục bộ, mang tính bề mặt. Đây là quá trình đổi mới “đụng” tới tầng sâu bản chất của hệ
thống giáo dục, làm thay đổi căn bản về chất của hệ thống giáo dục, để đưa hệ thống giáo
dục lên một trình độ mới, hiệu quả hơn, chất lượng hơn.
Đổi mới căn bản được hiểu là đổi mới những vấn đề cốt lõi nhất để làm thay đổi và
nâng cao về chất của hệ thống giáo dục, nhằm đáp ứng với đòi hỏi của đất nước trong
giai đoạn mới, đó là:
- Đổi mới tư duy, nhận thức, triết lý về giáo dục, về sứ mạng của giáo dục.
- Đổi mới quan điểm phát triển giáo dục.
- Đổi mới mục tiêu giáo dục.
- Đổi mới và lành mạnh hóa môi trường giáo dục.
- Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục.
- Đổi mới cơ chế phát triển giáo dục.
- Đổi mới động lực - nguồn lực phát triển giáo dục.
- Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình đổi mới giáo dục.
Đó là những yếu tố cơ bản cần được nghiên cứu làm rõ cả về cơ sở khoa học và thực
tiễn để làm nền tảng cho đổi mới Hệ thống giáo dục.Đây là những vấn đề rất quan trọng,
chưa được nghiên cứu thấu đáo và có hệ thống, hiện đang còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Đổi mới toàn diện nền giáo dục được hiểu là đổi mới về tất cả các mặt, các yếu tố cấu
thành hệ thống giáo dục và các quá trình giáo dục như:
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc gia.
- Đổi mới ở tất cả các cấp, bậc học, các hình thức giáo dục, đào tạo.
- Đổi mới đồng bộ về nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục, đào tạo.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên.
- Đổi mới và nâng cao chế độ đãi ngộ - tôn vinh gắn liền với nâng cao chế độ trách
nhiệm xã hội của các nhà giáo.

- Đổi mới và nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
- Đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý giáo dục.
- Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
11


- Hình thành đồng bộ và lành mạnh hóa môi trường giáo dục gồm môi trường nhà
trường, môi trường gia đình và môi trường xã hội.
Nội dung đổi mới căn bản và nội dung đổi mới toàn diện gắn bó mật thiết với nhau;
phải trên cơ sở làm rõ các “nội dung căn bản” để cụ thể hoá cho các “nội dung toàn
diện”. Bởi vì một nền giáo dục “học một lần cho làm việc cả đời” khác căn bản với nền
giáo dục “học cả đời để luôn thích ứng công việc và cuộc sống”, lại càng khác hơn so với
nền giáo dục trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức; nền giáo dục được bao cấp
hoàn toàn khác với nền giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Định hướng cơ bản của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục đã được nêu
trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng là “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá
và hội nhập quốc tế”. “Ngũ hoá” đó là những yêu cầu cơ bản đặt ra cho quá trình đổi mới
nền giáo dục.Mỗi “hoá” đó chứa đựng những tiêu chí mới đối với nền giáo dục (ở đây
chưa đề cập chi tiết).Nhưng tổng hợp lại sẽ tạo nên một nền giáo dục năng động-hiệu
quả-chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới và phù hợp
với xu thế của thời đại.
Những nội dung của đổi mới căn bản và toàn diện gắn với định hướng đổi mới cơ bản
nêu trên cần phải được nghiên cứu sâu, đồng bộ, có sức thuyết phục cả về cơ sở lý luận
khoa học và cơ sở thực tiễn trên bình diện chung đối với cả nền giáo dục-cả hệ thống giáo
dục, đồng thời cụ thể sâu cho mỗi phân hệ, mỗi cấp bậc học, hình thức giáo dục, thậm chí
cho mỗi môn học.
Trong quá trình đổi mới giáo dục này, cần phải đặt lên hàng đầu đổi mới tư duy-nhận
thức-triết lý giáo dục, đổi mới quan điểm và mục tiêu giáo dục, vì đây là những vấn đề có
tính “mở đường”, “định hướng” cho quá trình đổi mới giáo dục. Nếu không làm rõ những

vấn đề này mà lại bắt tay vào thực hiện ngay những vấn đề cụ thể khi chưa có đủ cơ sở
khoa học và thực tiễn, thiếu quan điểm hệ thống, sẽ khó có được kết quả tốt đẹp. Xin nêu
một ví dụ cụ thể: vấn đề giảm tải chương trình giáo dục phổ thông (là vấn đề mà nguyên
Thủ tướng Phan Văn Khải - Chủ tịch Hội đồng giáo dục quốc gia đã kết luận phải triển
khai cách đây gần 10 năm, nhưng nay Bộ giáo dục và Đào tạo mới triển khai). Giảm tải
chương trình giáo dục phổ thông không chỉ đơn giản là giảm khối lượng và độ khó kiến
thức (như Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo là loại bỏ những phần trùng lặp, những
phần được cho là quá khó, dù đây là việc cần thiết); mà bao trùm hơn là cần xác định rõ
mục tiêu giáo dục phổ thông có cần đổi mới không? Tương quan giữa giáo dục nhân
cách, cung cấp kiến thức và giáo dục kỹ năng có cần thay đổi không?Thay đổi như thế
nào?Tỷ lệ và tương quan ba mặt giáo dục đó ở các cấp Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung
học phổ thông có cần thay đổi không?Thay đổi như thế nào? Mục tiêu, nội dung và khối
12


lượng của mỗi môn học trong tổng thể mục tiêu chung của giáo dục phổ thông và trong
mỗi cấp học đó như thế nào? Dạy và học sử, văn, toán,giáo dục công dân, đạo đức…. tiếp
tục như vậy được chăng? Chương trình giáo dục phổ thông nên là 10, 11 hay vẫn giữ 12
năm, phân luồng, phân ban như thế nào? Rõ ràng vấn đề giảm tải giáo dục phổ thông
không được nghiên cứu thấu đáo trong những tương quan trên, thì việc thực hiện sẽ chỉ là
sự “chữa cháy”, không cơ bản, không đạt được những mục tiêu quan trọng hơn đối với
giáo dục phổ thông.
Cũng về đổi mới nội dung chương trình giáo dục phổ thông, có những ý kiến của cán
bộ quản lý giáo dục cho là sẽ phải chuyển từ “học sinh học được những kiến thức gì”
(định hướng nội dung) sang học ra để làm được gì (định hướng sử dụng). Phải chăng đây
là cách đổi mới đúng?Cách tiếp cận đúng? Đúng là nội dung học phổ thông phải thiết
thực, song điều đó không có ý nghĩa là nội dung chương trình giáo dục phổ thông mang
nặng tính ứng dụng cụ thể để học sinh học rồi ra “làm việc”. Rõ ràng đây không phải là
mục tiêu cao nhất, bao trùm nhất, phù hợp nhất của giáo dục phổ thông. Khi không xác
định rõ mục tiêu đúng đắn và phù hợp, lại thiếu cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn, những

giải pháp cụ thể có thể sẽ dẫn đến lầm lạc, từ sai lầm này có thể lại sang sai lầm khác.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng, công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục không thể thành công nếu thiếu nghiên cứu thấu đáo, có hệ thống cả về cơ sở lý luận
- khoa học và cơ sở thực tiễn, thiếu sự chỉ đạo nhất quán.
4. Tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện quá trình Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục
Có thể nói rằng quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục có tầm quan trọng
đặc biệt, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc trong giai đoạn mới.
Bởi vì, sức mạnh của một dân tộc, năng lực cạnh tranh của một quốc gia đang chuyển
mạnh từ nguồn lực tài nguyên, vốn, lao động sang tri thức, trí tuệ, nguồn nhân lực chất
lượng cao - là năng lực tổng hợp của những thế hệ người làm chủ thể vững vàng, tin cậy,
đầy bản lĩnh của một dân tộc. Và đó phải là sản phẩm của một nền giáo dục tiên tiến, hiện
đại.
Nhưng đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không phải là một quá trình đơn giản,
dễ dàng; không phải chỉ vì nền giáo dục đang có nhiều yếu kém, bất cập, thiếu nguồn lực
đầu tư, mà còn bởi nhiều vấn đề mới đang còn không ít nhận thức khác nhau, cần có
những nghiên cứu sâu để tìm ra lời giải có căn cứ cả về lý luận khoa học và thực tiễn.
Hơn nữa giáo dục là một hệ thống xã hội lớn, khá phức tạp với nhiều chủ thể tham gia và
liên quan, vận hành liên tục, năm này gắn với năm khác, bậc nọ gắn với bậc kia, không
thể dừng lại một cách dứt đoạn, làm lại từ đầu cả hệ thống cùng một lúc. Quá trình đổi
13


mới này cũng không thể là công việc của một năm, 5 năm, mà là công việc của 10 năm
và có thể lâu hơn. Do đó, quá trình đổi mới này phải được triển khai thống nhất, đồng bộ,
có bước đi phù hợp với những ưu tiên xác định, trên cơ sở gắn nghiên cứu khoa học với
thử nghiệm, với tổng kết thực tiễn, với tổ chức triển khai rộng trên thực tế, rút kinh
nghiệm và điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện, để không cho phép xảy ra những sai lầm
nghiêm trọng.
Tất cả những vấn đề quan trọng liên quan đến quá trình đổi mới căn bản toàn diện nền

giáo dục phải được nghiên cứu một cách thấu đáo, khoa học, khách quan và có hệ thống.
Do tầm quan trọng, quy mô, tính chất và nội dung rộng lớn đó, nên công cuộc đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục không thể chỉ giao và là nhiệm vụ riêng của ngành giáo
dục. Đây là sự nghiệp lớn lao của cả Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Vì vậy cần có một
Ban Chỉ đạo Trung ương (hay Ban Chỉ đạo Quốc gia) về đổi mới căn bản toàn diện nền
giáo dục, với sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Nhà nước, với sự tham gia của
đông đảo các nhà khoa học, quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp và những người am
hiểu sâu sắc về giáo dục…, trong đó ngành giáo dục là nòng cốt.
Vấn đề quan trọng đầu tiên là phải tổ chức nghiên cứu xây dựng cho được một Đề án
tổng thể về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục cho giai đoạn 10 năm 2015 - 2025.
Đề án phải nêu lên được quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, khung nội dung và các nhiệm vụ
chủ yếu, lộ trình nghiên cứu và triển khai thực hiện, nguồn lực để thực hiện… Sau khi Đề
án được phê duyệt mới chỉ đạo triển khai cụ thể các nội dung, nhiệm vụ; điều này không
có nghĩa là không thực hiện ngay các sửa đổi, điều chỉnh cụ thể, cần thiết khi đã có đủ cơ
sở khoa học và thực tiễn. Vì đây là nhiệm vụ quan trọng, rộng lớn và lâu dài nên cần có
Bộ phận thường trực chuyên trách gồm những người am hiểu sâu lý luận khoa học giáo
dục và thực tiễn giáo dục, rất tâm huyết, giúp việc Ban Chỉ đạo Quốc gia. Việc thành lập
và sự chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của Ban Chỉ đạo Quốc gia về đổi mới giáo dục là
một trong những yếu tố quyết định đảm bảo cho sự nghiệp này thành công.
III. Kết luận
Các sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới luôn tồn tại trong sự vận động, biến đổi
và phát triển không ngừng. Phát triển là quá trình đi lên theo đường xoáy ốc, là quá trình
thống nhất biện chứng giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất.Việc áp dụng nguyên lí
về sự phát triển vào nền giáo dục nước ta là một việc vô cùng đúng đắn và cần thiết để
giúp nền giáo dục Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới, có thể sánh ngang cùng với
bạn bè năm châu khắp chốn.

14



15


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do-Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 18/03/2015
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 1)
Địa điểm: Trước thư viện trường ĐH Thương Mại
Thời gian: 7h 30 phút ngày 18/03/2015
Thành phần tham gia: nhóm trưởng, thư ký và tất cả các thành viên trong nhóm.
Vắng: 0
Nội dung:xây dựng đề cương thảo luận và phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong
nhóm.
Thành viên
Nguyễn Thanh Qúy (Nhóm trưởng)

Vũ Đình Lương

Nhiệm vụ
Tổng hợp dàn ý của mọi người, tổng hợp
bản word,làm bản slide, phần 1 trong B, lời
nói đầu, kết luận.
Làm : dàn ý, 1 phần 1 trong chương I, làm
biên bản họp nhóm, in bài.
Làm : dàn ý, phần 2 trong chương I

Nguyễn Thị Nga

Làm : dàn ý, phần 1 trong chương II


Đỗ Thị Nga

Làm : dàn ý, phần 2 trong chương II, góp ý
chỉnh sửa nội dung slide

Phạm Thị Lệ
Nguyễn Tài Kính
Nguyễn Thị Hải Ngân
Tống Hữu Thành

Làm : dàn ý, phần 3 của chương II
Làm : dàn ý, phần 4 trong chương II
Làm: dàn ý, chương III, chỉnh sửa slide
Làm : dàn ý, phần 2 trong B

Tô Thị Nguyên (thư ký)

Cuộc họp kết thúc lúc 10h cùngngày.
Thư ký

Nhóm trưởng
16


(kí tên)

(kí tên)

17



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do-Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 5/4/2015
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 2)
Địa điểm: Trước thư viện trường ĐH Thương Mại
Thời gian: 7h 30 phút ngày 5/4/2015
Thành phần tham gia: nhóm trưởng, thư ký và tất cả thành viên trong nhóm.
Vắng: 0
Nội dung: Các thành viên nộp bài được giao.Nhóm trưởng tổng hợp bài.
Đánh giá: Các thành viên nộp bài đầy đủ, tuy nhiên còn có một số bài chưa đi vào đúng
nội dung mà mình được giao.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 10h cùng ngày.
Thư ký

Nhóm trưởng

(kí tên)

(kí tên)

18


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do-Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 16/4/2015
BIÊN BẢN HỌP NHÓM

( Lần 3)
Địa điểm: Trước thư viện trường ĐH Thương Mại
Thời gian: 7h 30 phút ngày 16/4/2015
Thành phần tham gia:
Vắng: 0
Nội dung:
-

Lấy ý kiến của các thành viênvề bài chung của nhóm.
Tổng hợp bài hoàn chỉnh.
In bài

Cuộc họp kêt thúc vào lúc 10h cùng ngày.

Thư ký

Nhóm trưởng

(kí tên)

(kí tên)

19


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lâp- Tự do- Hạnh phúc
Hà Nội, ngày
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN TRONG NHÓM


Stt

Họvà tên

Mã SV

Lớp

Đánh giá
trong quá
trình học
TV

1

Nguyễn Tài Kính

2

Phạm Thị Lệ

3

Vũ Đình Lương

4

Đỗ Thị Nga

5


Nguyễn Thị Nga

6

Nguyễn Thị Hải Ngân

7

Tô Thị Nguyên

8

Nguyễn Thanh Qúy

NT

Đánh giá
trong quá
trình thảo
luận
TV NT

9
10 Tống Hữu Thành

Thư ký

Nhóm trưởng


(kí tên)

(kí tên

20

Xếp loại



×