Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Phép Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Và Vận Dụng Nó Trong Việc Phân Tích Mâu Thuẫn Trong Quá Trình Chuyển Sang Nền Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.01 KB, 36 trang )

Đặt vấn đề
Đối lập với các quan điểm triết học cũ, phép biện chứng duy vật khẳng định
rằng tất cả các sự vật, hiện tợng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng
trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự
thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tợng quy định
Mâu thuẫn là hiện tợng phổ biến, có mặt trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên,
xã hội, cũng nh t duy của con ngời . Trong hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng
mang tính phổ biến chẳng hạn cung - cầu, tích lũy tiêu dùng, tính kế hoạch hoá
của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng
hoá ...
Mẫu thuẫn tồn tại một cách khách quan, từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự
vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mẫu thuẫn hình thành không chỉ có một mà có
thể có nhiều mâu thuẫn. Mẫu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình
thành. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn diễn ra không
ngừng vì thế sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan thờng xuyên phát triển
và biến đổi không ngừng. Do đó có thể nói rằng mâu thuẫn là nguồn gốc và
động lực của mọi quá trình phát triển.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nớc do Đảng lãnh đạo đã dành đợc những
thắng lợi bớc đầu mang tính quyết định, đó là việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc
theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong 15 đổi mới vừa qua chúng ta đã đạt đợc
nhiều thành tựu to lớn trong kinh tế, xã hội nhng trong những thành công đó
luôn luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công
cuộc đổi mới, đòi hỏi phải có phơng pháp giải quyết mâu thuẫn một cách phù
hợp để thúc đẩy cho sự phát triển của đất nớc
Với mong muốn tìm hiểu những mâu thuẫn xuất hiện trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế của nớc ta trong thời gian quan, tôi đã chọn đề tài "
Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong việc phân tích mâu

1



thuẫn trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam" làm đề
tài cho tiểu luận môn triết học Mác - Lê nin của mình .

2


B. Nội dung

I. Lý luận chung

Trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tợng nào cũng chứa đựng trong
chính bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hớng phát triển ngợc
nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo
thành mâu thuẫn. Mân thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến trong thế giới.

1.Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Trong phép biện chứng duy vật ,khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hớng trái ngợc nhau hoặc ngợc chiều nhau để
tồn tại trong cùng một sự vật hiện tợng,tạo nên sự vật hiện tợng đó
Cũng cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành
mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tợng của thế giới khách quan không phải
chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có
thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống
nhất trong cùng một sự vật nh một chỉnh thể ,nhng có khuynh hớng phát triển
ngợc nhau bãi xích, gạt bỏ, phủ định nhau và chuyển hoá lẫn nhau.(Sự vật
chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc động lực,đồng thời quy định các bản chất
các khuynh hớng phát triển của sự vật) thì hai mặt đối lập nh vậy mới tạo thành
mâu thuẫn.
"Thống nhất "của các mặt đối lập đợc hiểu không phải chúng đứng bên

cạnh nhau mà là nơng tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng nh liên hệ phụ
thuộc,quy định mà ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm
tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngợc lại. Nếu thiếu một trong hai mặt
đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật.Bởi
vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại
của bất kỳ sự vật hiện tợng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có
3


của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ nh tích luỹ và tiêu dùng là hai mặt đối lập
thống nhất với nhau trong nền sản xuất. Không có tích luỹ thì không thể thực
hiện đợc quá trình tái sản xuất mở rộng và nh vậy sẽ không có điều kiện để thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Ngợc lại, nếu không đảm bảo thoả mãn
nhu cầu về tiêu dùng thì cũng không thể đẩy mạnh sản xuất phát triển. Không
đẩy mạnh sản xuất phát triển thì cũng không có tích luỹ. Tơng tự nh vậy chúng
ta có thể tìm đợc hàng loạt ví dụ khác nhau nh lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong phơng thức sản xuất, giai cấp vô sản và giai cấp t sản trong xã hội t
bản,v.v...
Khái niệm "thống nhất" của các mặt đối lập cũng chỉ nên hiểu với nghĩa tơng đối mà thôi. Bản chất nội dung của khái niệm cũng đã nói lên tính tơng đối
của nó: Thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng
trong nó sự đối lập.
"Khái niệm sự thống nhất của các mặt đối lập" còn đợc dùng với cùng một
nghĩa với khái niệm "sự đồng nhất" của các mặt đối lập. Vì vậy trong quy luật
mâu thuẫn, đồng nhất và sự thống nhất đợc hiểu đồng nghĩa với nhau. V.L.Lê
nin viết:"sự đồng nhất của các mặt đối lập ("sự thống nhất") của chúng, nói nh
vậy có lẽ đúng hơn? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất
không quan trọng lắm. Theo một định nghĩa nào đó cả hai đều đúng). Khái niệm
"thống nhất " và " đồng nhất" của các mặt đối lập đợc Lê nin dùng ở hai khía
cạch khác nhau: Khía cạnh bản thể luận và khía cạnh nhận thức luận. Tuỳ theo
từng trờng hợp cụ thể mà chúng ta có thể xác định các khái niệm đó đợc dùng ở

khía cạnh nào.
ở phơng diện bản thể luận, khái niệm "thống nhất", "đồng nhất" của các
mặt đối lập đợc dùng để chỉ mối quan hệ giữa các mặt đối lập, chúng không tồn
tại một cách cô lập, tách rời nhau mà gắn bó, xâm nhập, quy định, là tiền đề cho
nhau, chúng không phải là những "đối cực" loại trừ nhau một cách vĩnh viễn mà
có những điểm chung với nhau, và vì thế chúng có thể chuyển hoá cho nhau
trong những điều kiện nhất định. Hai khái niệm đợc dùng nh là những từ gần
đồng nghĩa với nhau.
4


Về mặt nhận thức luận, khái niệm "thống nhất", "đồng nhất" của các mặt
đối lập cũng đợc dùng nh là hai từ gần đồng nghĩa nhau để nói lên một nguyên
tắc phơng pháp luận của nhận thức biện chứng là phải nắm, phản ánh, nhận thức
sự vật trong một chỉnh thể, trong sự thống nhất của các mặt đối lập, trong sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.

Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong cùng
một sự vật, thống nhất nh một chỉnh thể trọn vẹn nhng không nằm yên bên nhau
mà đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự
vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập
trong thế giới khách quan thể hiện dới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ trong các phơng thức sản xuất có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa
lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất
gay gắt và quyết liệt.Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều
hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết đợc mâu thuẫn một cách căn bản.
Ngợc lại sự đấu tranh của cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng trong nền kinh tế,
đồng hoá và dị hoá trong sinh học.... thì lại diễn ra dới dạng tác động lẫn nhau.

Sự đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình phức tạp .Quá trình ấy đợc
chia làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điển riêng của nó .Khi
mới xuất hiện mâu thuẫn thờng đợc biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt và hai
mặtt đối lập cha thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt.Tất nhiên không phải bất kì sự
khác nhau nào cũng đợc gọi là mâu thuẫn chỉ có những mặt khác nhau tồn tại
trong một sự vật nhng liên hệ hữa cơ với nhau phát triển ngợc chiều nhau tạo
thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành
bớc đầu của mâu thuẫn .Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai
đoạn xung đột gay gắt nó biến thành độc lập .Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai
mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau , sự vật cũ mất đi sự vật mới đợc hình
thành .Sau khi mâu thuẫn đợc giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ đ5


ợc thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá
tạo thành mâu thuẫn.Mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật mới hơn xuất hiện .Cứ nh
thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp
lên cao,chính vì vậy Lênin khẳng định :"Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập"
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Lênin chỉ ra rằng :Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý
nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận
biết đợc sự vật hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự
thống nhất chỉ là sự tơng đối và tạm thời đấu tranh giữa các mặt đổi mới là tuyệt
đối vĩnh viễn.Nó diễn ra thờng xuyên liên tục trong xuốt quá trình tồn tại của sự
vật kể cả trạng thái sự vật ổn định, cũng nh sự chuyển hoá nhảy vọt về chất
.Lênin viết :"Sự thống nhất (Phù hợp đồng nhất tác dụng ngang nhau) của mặt
đối lập là có điều kiện tạm thời thoáng qua tơng đối.Sự đấu tranh của các mặt
đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng nh sự phát triển sự vận động là tuyệt
đối".


2.Chuyển hoá của các mặt đối lập
Không phải bất cứ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá
giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ
nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá bài trừ và phụ
thuộc lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thờng diễn
ra một cách tự phát, còn trong xã hội chuyển hoá mặt đối lập nhất thiết phẩi diễn
ra thông qua hoạt động có ý thức cuả con ngời. Chuyển hoá của các mặt đối lập
chính là lúc mâu thuẫn đợc giải quyết , sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời đó là
quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó
không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoàn đổi
vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn chuyển hoá theo
hai phơng thức

6


+ Phơng thức thứ nhất: mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập
kia nhng ở trình độ cao hơn xét về phơng diện chất của sự vật
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến
đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành xem quan hệ sản xuất mới là quan
hệ sản xuất TBCN và lực lợng sản xuất mới ở trình độ cao hơn
+ Phơng thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình
thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật
hiện tợng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt đối lập những
thuộc tính có khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá
của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn, mâu
thuẫn là hiện tợng khách quan phổ biến của cả thế giới .Mâu thuẫn đợc giải

quyết , sự vật cũ mất đi sự vật mới đợc hình thành.Sự vật mới lại nảy sinh các
mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau tạo
thành sự vật mới hơn. cứ nh vậy mà các sự vật hiện tợng trong thế giới khách
quan thờng xuyên phát triển và biến đôỉ không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là
nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.

3. Một số loại mâu thuẫn
3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay chính trong bản thân sự vật.
Ví dụ nh đấu tranh giữa quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất, mẫu thuẫn giữa
tính kế hoạch hoá của xí nghiệp với tính tự phát trong nền kinh tế thị tr ờng. Mâu
thuẫn bên trong là nhân tố quyết định đến bản chất và xu thế của sự vận động
của chính sự vật.
7


Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tợng với nhau.
Trên thực tế thì không có sự vật, hiện tợng nào tồn tại một cách độc lập, tách rời
khỏi sự vật, hiện tợng khác, ví dụ nh mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị, mâu
thuẫn giữa quốc gia này với quốc gia khác. Mẫu thuẫn bên ngoài có tác dụng
nhất định đối với sự phát triển khách quan của sự vật hiện tợng nhng mâu thuẫn
bên ngoài muốn phát huy tác dụng thì cần phải thông qua mâu thuẫn bên trong.
Sự phân biệt giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ có ý
nghĩa tơng đối. Trong mối quan hệ này thì một mâu thuẫn đợc gọi là mâu thuẫn
bên ngoài, ở mối quan hệ khác thì nó lại là mâu thuẫn bên trong.
3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định rõ bản chất, khuynh hớng phát
triển của bản chất các sự vật , hiện tợng. Nó tồn tại gắn liền với sự vật kể từ khi
sự vật sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành

và chi phối tất cả các mâu thuẫn khác trong sự vật.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quyết định trực tiếp bản chất
và khuynh hớng phát triển của sự vật nhng lại có vai trò ảnh hởng nhất định đối
với sự vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản tồn tại gắn liền
với mâu thuẫn cơ bản trong cùng một sự vật và chịu sự chi phối của mâu thuẫn
cơ bản.
3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn nhất
định của quá trình phát triển của sự vật. Nó quyết định đến các mâu thuẫn khác
cùng tồn tại trong cùng sự vật ở giai đoạn đó. Mâu thuẫn chủ yếu là sự biểu hiện
cụ thể của mâu thuẫn cơ bản trong các mối quan hệ xác định.
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá
trình phát triển của sự vật.
Ranh giới của mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu chỉ là tơng đối.
Việc xác định đúng mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu trong từng sự vật, hiện tợng

8


của đời sống xã hội giúp ta tìm kiếm giải pháp tối u, nhằm thúc đẩy sự vật phát
triển.
3.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Mâu thuẫn đối kháng là loại mâu thuẫn đặc thù chỉ có trong lĩnh vực xã
hội. Đó là mâu thuẫn giữa những lực lợng, những tầng lớp xã hội có lợi ích căn
bản đối lập nhau đến mức không thể điều hoà đợc. Ví dụ nh mâu thuẫn giữa giai
cấp t sản và vô sản. Thông thờng thì mẫu thuẫn cơ bản chỉ có thể giải quyết đợc
thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn xuất hiện giữa những lực
lợng xã hội mà về lợi ích căn bản nhất trí với nhau. Ví dụ nh mâu thuẫn giữa giai
cấp công nhân và nông dân,.... Phơng pháp giải quyết mâu thuẫn này cũng phải

tuân theo con đờng đấu tranh nhng khác với mâu thuẫn đối kháng là đấu tranh
bằng phơng pháp hoà bình.
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mẫu thuẫn không đối kháng có có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết mâu thuẫn. Sự nhầm lẫn giữa
hai loại mâu thuẫn này có thể dẫn đến những hậu quả không lờng về mặt xã hội.

II. Mâu thuẫn biện chứng trong quy trình xây dựng nền kinh
tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa của việt nam

1. Quá trình chuyển đổi và những đặc điểm của kinh tế thị trờng
Việt Nam
Sau kháng chiến thành công, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn nhất là
trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. Để sớm có xã hội chủ nghĩa, chúng ta
đã sử dụng mô hình kinh tế của Liên Xô và các nớc XNCN khác đang có. Đó là
9


nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về t liệu sản xuất dới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể,
trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. Với sự nỗ lực của toàn dân, có
thêm sự giúp đỡ tận tình của các nớc XHCN khác, mô hình kế hoạch hoá đã
phát huy đợc tính u việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng
công cụ kế hoạch hoá nhà nớc đã tập trung vào tay mình môt lực lợng vật chất
quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nhng sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế
xã hội đã thay đổi. Trong nền kinh tế cùng một lúc tồn tại ba loại hình kinh tế tự
cấp tự túc nền kinh tế kế hoạch tập trung và nền kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975, nhng chúng ta vẫn tiếp tục
chủ trơng xây dựng nền kinh tế chỉ huy nh ở miền Bắc trớc đây. Do các quan hệ

kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều
kiện kinh tế thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tợng tiêu cực. Do chủ quan
cứng nhắc, không quan tâm tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng
ta đã không quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất n ớc, trái lại
đã dẫn tới việc sử dụng lãnh phí một cách nghiêm trọng nguồn tài nguyên đó.
Sản xuất kém hiệu quả, tài nguyên môi trờng bị phá hoại nghiêm trọng, trong khi
đó nhà nớc thực hiện việc bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gây ra nhiều
hậu quả xấu cho nền kinh tế đất nớc, tăng trởng thấp thậm chí âm, sản phẩm
hàng hoá khan hiếm, ngân sách nhà nớc thâm hụt nặng nề, thu nhập kinh tế
không đủ cho tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu nh không có. Vốn đầu t chủ yếu
dựa vào vay và viện trợ của nớc ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang,
khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống của nhân dân bị
giảm sút. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nớc ta là do rập
khuôn một mô hình kinh tế cha thích hợp với hoàn cảnh đất nớc và kém hiệu
quả.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta đã chủ trơng phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hoá
10


sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội VII Đảng ta
xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nớc ta là một tất yếu khách quan và
trên thức tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý cuả nhà nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong
lý luận cũng nh trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế. Xem xét
dới góc độ khoa học sự chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế ở nớc ta là cần thiết,
và phù hợp với quy luật kinh tế, hợp với xu thế thời đại.
Hiện nay đang có nhiều cách phân tích, lý giải, bình luận khác nhau khi
nhìn vào sự vận động của nền kinh tế thị trờng của nớc ta. Trên cơ sở phân tích

thực tiễn cơ chế thị trờng trong những năm đổi mới, đồng thời có sự liên hệ đến
những bớc đi có tính quy luật của bớc chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền
kinh tế thị trờng có quản lý của nhà nớc, cùng với kinh nghiệm tổng kết của
những nớc đang tìm kiếm con đờng tơng tự, chúng ta thấy những đặc điểm lớn
của cơ chế thị trờng hiện nay ở nớc ta nh sau:
a, Nền kinh tế nớc ta đang từng bớc thực hiện những quá trình mang tính
quy luật của bớc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trờng có sự điều tiết vĩ mô của nhà nớc với tự do hoá thơng mại và tự do giá
cả là khâu trung tâm đột phá; từng bớc tiến tới cơ chế thị trờng đích thực.
Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trờng, hình thành bớc đầu
một thị trờng cạnh tranh, làm cho hàng hoá đợc lu thông suốt, cung cầu đợc cân
đối thoát khỏi tình trạng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát đợc ngăn chặn.
Cơ chế thị trờng đã góp phần giải phóng lực lợng sản xuất, phát huy tính
tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế, của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nớc
hiện nay cũng đã giải phóng đợc khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh.
Cơ chế thị trờng cũng làm đảo lộn hệ thống t duy và quan điểm kinh tế cũ
nh vấn đề sở hữu, với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của chính
sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái độ kỳ thị phân biệt đối xử với nền
kinh tế t nhân sang đối xử bình đẳng; đồng thời cũng xác định những biện pháp
phù hợp nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế quốc doanh.
11


Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, tỷ giá từng bớc đợc đổi mới; đặc
biệt cơ giá và tỷ giá đợc hình thành thông qua thị trờng đã tạo ra bớc ngoặt trong
quản lý kinh tế.
b. Cơ chế thị trờng còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối
loạn . Sản phẩm của nền kinh tế cha thoát khỏi khủng hoàng và cơ bản là sản
xuất nhỏ, bộ máy quản lý nhà nớc còn có tình trạng quan liêu, thiết hiểu biết, trì
trệ, bảo thủ trớc bớc ngoạt chuyển đổi của nền kinh tế.

Thể chế thị trờng cha thực sự tạo ra môi trờng ổn định và an toàn cho sản
xuất kinh doanh, đặc biệt là những yếu kém trong ngành tài chính, tiền tệ, tín
dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Cơ chế thị trờng thiếu đồng bộ,
thể hiện có sự chuyển biến khá mạnh mẽ trên thị trờng hàng hoá, dịch vụ trong
khi đó lại có sự lạc hậu khá lớn trên thị trờng các yếu tố sản xuất.
Thị trờng chấp nhận tự do kinh doanh theo pháp luật nhng lại cha giải
quyết hết những tiền đề cơ bản cho sự tự do này đó là vấn đề sở hữu. Trong
doanh nghiệp nhà nớc còn có sự lẫn lộn giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng của
doanh nghiệp về vốn, tài sản, và lao động. Giữa nguồn vốn nhà nớc với nguồn
vốn tự tích luỹ....
Sự hình thành và vận động của cơ chế thị trờng còn mang nhiều yếu tố tự
phát, thô sơ, tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính, chụp giựt; cơ chế đổi mới
thiếu triệt để, phát luật còn thiếu tính đồng bộ đã hình thành vùng tranh tối
sáng là mảnh đất màu mỡ của tệ tham nhũng và các mặt tiêu cực của thị trờng
phát sinh và phát triển.
c. Cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát
nhất đối với nền kinh tế nớc ta trong hiện tại và tơng lai. Tại Đại hội Đảng lần
thứ VII đã thông qua cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ đổi mới cũng đã
nêu lên 6 đặc trng bản chất của xã hội chủ nghĩa và những quan điểm phơng phớng tổng quát về phát triển kinh tế xã hội theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở
nớc ta. Có thể khái quát nền kinh tế nớc ta đang đợc xây dựng nh sau:
12


Thứ nhất, nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng là nền kinh tế thị trờng hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã
hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nớc ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và
kém phát triển nhng khi nớc ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá thì thế
giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại. Vì vậy không nhất thiết
chúng ta phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế

thị trờng tự do mà tiến thẳng vào phát triển kinh tế thị trờng hiện đại. Đây là nội
dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự phát triển kinh tế xã hội nớc ta
theo định hớng xã hội chủ nghĩa là cần thiêt khách quan và cũng là nội dung,
yêu cầu của sự phát triển. Sự nghiệp dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn
minh vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trờng có
định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Đảng và nhà nớc ta khuyến khích mọi ngời
dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nớc mới mạnh,
bảo đảm dân tộc, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần
với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nớc trong một số lĩnh vực, một số khâu
quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất n ớc.
Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa
hình thức sở hữu. Thế nhng nền kinh tế thị trờng mà chúng ta đang xây dựng là
nền kinh tế thị trờng hiện đại, có nghĩa là có sự điều tiết của nhà nớc đối với nền
kinh tế để bảo đảm cho định hớng xã hội chủ nghĩa. Do đó kinh tế nhà nớc phải
nắm giữ những ngành, lĩnh vực t4hen chốt có ý nghĩa là đài chỉ huy, là mạch
máu của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nớc, cần coi trọng vai trò của kinh tế t nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong
mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, nhà nớc quản lý nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta là nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nớc của dân, do
dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trờng hiện đại là nhà nớc tham gia vào các hoạt động kinh tế. Nhng khác với nhà
13


nớc của nền kinh tế t bản chủ nghĩa ở chỗ nhà nớc chúng ta là nhà nớc của dân,
do dân và vì dân. Nhà nớc công nông, nhà nớc của đại đa số nhân dân lao động,
đặt dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
d. Đảng ta chủ trơng chuyển sang cơ chế thị trờng trên cơ sở ổn định
chính trị; lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế;

mặc khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính,
trên cơ sở đổi mới quản lý nhà nớc nâng cao chất lợng, hiệu quả của quản lý của
nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trờng, mà tiếp tục ổn định chính trị đa
cải cách tiến lên những bớc phát triển mới.
Trong những năm qua Đảng ta chủ trơng phát triển kinh tế t nhân nhng
không tràn lan, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế quốc
doanh thành thực lực làm chỗ dựa của nhà nớc ở các khâu và lĩnh vực then chốt
để ổn định và định hớng thị trờng.
Mặc dù còn có nhiều yếu kém trong điều hành kinh tế vĩ mô, gần đây có
nạn tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý nhà nớc các cấp, nhng nhìn
chung tính ổn định và hoạt động theo đờng lối đổi mới tiến tới nhà nớc pháp
quyền là nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự thành công của cải cách. Đảng ta
cũng khẳng định vai trò của nhà nớc trong việc bảo đảm các chính sách xã hội,
xử lý hài hoà giữa tăng trởng kinh tế và cân bằng, ổn định, giữa phát triển kinh
tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Phân tích đặc điểm
này, để tiếp tục thực hiện phơng châm ổn định để phát triển kinh tế, nhà nớc ta
cần phải nhận thức hơn nữa vai trò của mình trong điều kiện mới, đặc biệt là
thay đổi chất lợng, tác phong của bộ máy, chuyển từ tác phong chỉ huy sang tác
phong hỗ trợ, tạo môi trờng và điều kiện cho thị trờng phát triển, chấm dứt tình
trạng cựa quyền, tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng của nhà nớc xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động của thị trờng ở nớc ta.

14


2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quy trình xây dựng nền
kinh tế, t tởng, định hớng XHCN.

2.1. Mâu thuẫn giữa ổn định chính trị và đổi mới chính trị trong đổi
mới kinh tế Việt Nam

a/ Quan hệ giữa kinh tế với chính trị
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê Nin thì kinh tế quyết định
chính trị, chính trị là sự biểu hiện tập trung kinh tế . Trong lịch sử phát triển
của xã hội loài ngời không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên
thuỷ cha có giai cấp thì cha có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà
nớc xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc
về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp mà mục đích của nó nhằm giành, giữ
chính quyền Nhà nớc và sử dụng chính quyền để làm công cụ để xây dựng và
bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lơị ích giai cấp. Chính trị ra đời hoàn toàn là
do kinh tế quyết định, chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phơng tiện để
thực hiện mục đích kinh tế.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự
thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai
cấp đó đợc thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp thực chất là đấu tranh vì lợi
ích kinh tế thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Enghen "Bất cứ cuộc
đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay
quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị, V.I Lê-Nin đã khẳng định "Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh
tế. Khẳng định đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế
đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với
kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị, mà nó đợc xem xét
giải quyết theo một lập trờng chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng
hớng kinh tế phát triển theo lập trờng của giai cấp đó nhằm phục vụ mục tiêu
kinh tế - xã hội nhất định. Và lập trờng chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy,
15


(hoặc kìm hãm) sự phát triển của kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định Không có
một lập trờng chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể giữ
vững đợc sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ
của mình trong lĩnh vực sản xuất . Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu

cầu phát triển kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đờng đi . Khi đó , việc thay đổi
thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế là điều kiện tiên
quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nh vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất
biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phơng
pháp luân quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công
cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.

b. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, và
việc giải quyết mâu thuẫn giữa ổn định chính trị và đổi mới chính trị trong quá
trình chuyển sang kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
Có thể nói từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, đất nớc ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực
hiện công cuộc đổi mới, đến nay công cuộc đổi mới đã đợc hơn 15 năm. Trong
15 năm qua việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng ngày
càng chính xác hơn. Khi bớc vào công cuộc đổi mới Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh
đổi mới t duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề đổi mới hiện thực,
nó hết sức cần thiết đối với thực tiễn nớc ta để vợt ra khỏi thói quen t duy cũ. Nói
nh vậy không có nghĩa là đổi mới t duy có thể tách rời đổi mới trong thực tiễn.
Đổi mới t duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực
tiễn của công cuoọc đổi mới. Vì vậy tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nớc
ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển t duy.
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nớc ta, khi mà Liên Xô và
các nớc XHCN ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nền, khi mà chúng ta
giành đợc những thắng lợi bớc đầu, ở nớc ta đã có quan điểm cho rằng nguyên
nhân thất bại của Liên Xô và Đông Âu là do các nớc này đổi mới chính trị trớc,
16


đổi mới kinh tế sau. Còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nớc

ta là đổi mới kinh tế trớc, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem tởng
nh chính xác, nhng đi vào phân tích sẽ thấy rằng nó không phù hợp với lý luận
và thực tiễn. Theo quan điểm đã trình bày ở trên, mỗi khi chính trị không phù
hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện tiên quyết để thay đổi về
kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại
trong đổi mới ở Liên Xô và các nớc XHCN ở Đông Âu là đổi mới chính trị trớc,
đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân dẫn đến sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu
là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không đợc phát hiện và khắc phục. Do
đó đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng
Cộng sản.
Khẳng định rằng ở nớc ta đổi mới kinh tế trớc, đổi mới chính trị sau cũng
không đợc phù hợp với thực tiễn. Sự thực là phải có đờng lối mới do Đảng ta đề
ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới thì mới có thể đổi
mới kinh tế. Vấn đề ở chỗ : Lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên
quan đến quyền thống trị của giai cấp, nó quyết định thành bại của công cuộc
đổi mới nên phải tiến hành từng bớc vàg hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị
trên cơ sở đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII(6/1991) Đảng ta đã khẳng định
: Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm
tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, và các
nhu cầu xã hội khác. Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi
mới kinh tế, phải từng bớc đổi mới tổ chức và phơng thức hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá- xã hội. Nên việc đổi mới trong hệ
thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc,
không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối loạn. Nhng không vì vậy
mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ,

17



mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nớc và các đoàn thể nhân dân. Bởi đó là điều kiện
phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ.
Điều đó cho thấy Đảng đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, mà gắn liền đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Nhng phải thận
trọng không gây mất ổn định về chính trị.
T tởng trên đã đợc tiếp tục phát triển rõ ràng hơn ở Đại hội địa biểu toàn
quốc lần thứ VIII (6/1999) của Đảng ta.
Khi tổng kết 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải: Kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị . Đây là một cách khái
quát mới, hoàn toàn khoa học, nó vừa phù hợp với lí luận khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lê Nin vừa phù hợp với công cuộc đổi mới ở nớc ta.
ổn định chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng
cờng quyền lực chính trị của mình, Nhà nớc giai cấp đó phải mạnh, luật pháp
phải nghiêm minh. Chế độ xã hội đã xác lập phải đợc giữ vững. Đối với nớc ta
hiện nay, ổn định là thực chất giữ vững và tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng,
tăng cờng vai trò của nhà nớc XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công XHCN.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy ổn định xã hội là điều hết sức cơ bản để
phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trờng để thu hút nguồn đầu t trong nớc và ngoài
nớc, tạo điều kiện cho phát triển kinh doanh. Những thành tựu đó không thể tách
rời việc chúng ta giữ đợc ổn định về chính trị. ổn định chính trị không thể tách
rời đổi mới chính trị, không phải là đổi mới về nguyên tắc, mà đổi mới để giữ
vững ổn định chính trị , tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý
nhà nớc CNXH. Đổi mới chính trị phải gắn bó với đổi mới kinh tế, phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế, và nhờ đó giữ vững đợc ổn định về chính trị. Song, đổi
mới kinh tế không phải là đổi mới tuỳ tiện, mà theo nguyên tắc, theo một định hớng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lí của nhà nớc theo định hớng XHCN. Chuyển sang nền kinh tế
thị trờng theo định hớng XHCN là nhằm mục tiêu Dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng văn minh. Đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định chính trị.

18


Tóm lại ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đói lập nhng thống nhất
biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để
ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó cặt chẽ với đổi mới kinh
tế, trên nền tảng đổi mới kinh tế.
Nh vậy trong quá trình đổi mới ở nớc ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau. Trong đó đổi mới kinh tế
là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bớc phù hợp với đổi mới kinh
tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm 15 đổi mới, là kết quả
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái
quát đó hoàn toàn khoa học và nó có giá trị định hớng cho giai đoạn phát triển
tiếp theo-giai đoạn đẩy mạnh quá trình "Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá" đất nớc.

2.2. Mâu thuẫn giữa lực lợng SX và quan hệ SX và các biểu hiện của
nó:
2.2.1. Phơng pháp luận tiếp cận:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lí của nhà nớc, theo định hớng
XHCN ở nớc ta hiện nay, vấn đề mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. Những khái niệm khoa học về lực lợng
sản xuất và quan hệ sản xuất đã đợc Mác và Ăng-ghen tổng hợp xây dựng một
cách hoàn chỉnh và khoa học, đặc biệt trong các tác phẩm Hệ t tởng Đức và bộ
T bản.
Lực lợng sản xuất bao gồm nhiều thành phần, chủ yếu là: lao động, các
phơng tiện tác động lên đối tợng lao động (ví dụ trang bị, máy móc....) và các
đối tợng lao động đã hàm chứa lao động quá khứ và có nguồn gốc tự nhiên, nói
gọn là lao động và t liệu sản xuất. Trong thế giới hiện đại, lực lợng sản xuất phát

triển rất đa dạng, ví dụ khoa học, nh Mác dự kiến, đã trở thành lực lợng sản xuất
19


trực tiếp. Lao động hiện nay đang chuyển sang lao động có trình độ kiến thức và
tay nghề cao, lao động trí óc nói chung. Các đối tợng lao động không chỉ có
nguồn gốc từ tự nhiên mà ngày càng xuất hiện nhiều loại không từng có trong tự
nhiên. Nhìn chung trong lịch sử xã hội loại ngời lực lợng sản xuất tăng liên tục
và có những bớc nhảy vọt là yếu tố năng động nhất, cách mạng nhất của sản
xuất với xu hớng hàm lợng lao động trí óc và tính xã hội hoá toàn diện và toàn
cầu hoá ngày càng tăng.
Trong quá trình nghiên cứu về lực lợng sản xuất, không thể không xem
xét đến mối quan hệ của nó với quan hệ sản xuất và các yếu tố xã hội khác.
Quan hệ sản xuất có mối liên hệ khăng khít với lực lợng sản xuất ngay trong bản
thể của sản xuất . Có thể hiểu quan hệ sản xuất theo nghĩa rộng là toàn bộ những
mối tơng tác qua lại giữa ngời và ngời về mặt kinh tế mà chủ yếu là trong sản
xuất, lu thông và phân phối. Tuy nhiên, trong tất cả các mối quan hệ phức tạp
giữa ngời với ngời về mặt kinh tế thì cốt lõi nhất là quan hệ giữa ngòi với ngời về
quyền sở hữu t liệu sản xuất, nó quyết định hình thái thực hiện sự kết hợp giữa
ngời lao động và t liệu sản xuất, điều kiện cốt yếu để mọi sản xuất trở thành hiện
thực.
Quan hệ sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất. Các hình thái quan hệ sản xuất vì thế cũng phát triển theo sự phát triển
của lực lợng sản xuất. C.Mác và F. Ăng-ghen khi bàn về quản hệ sản xuất nói
chung đã đi đến khẳng định: mọi sự biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất
do tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất quyết định. Nói cách
khác đi, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới tất yếu chịu sự chi phối của của quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, mà sự phù hợp này với t cách là động lực cơ bản của tăng trởng và phát
triển kinh tế - xã hội.

Lực lợng SX là nội dung của sự vật, quan hệ SX là ý thức của sự vật,lực lợng SX quyết định quan hệ SX, lực lợng SX là yếu tố động lực luôn thay đổi khi
lực lợng SX phát triển đến trình độ nhất định thì quan hệ SX không còn phù hợp
nữa trở thành yếu tố kìm hãm lực lợng SX. Để mở đờng cho lực lợng SX phát
20


triển cần phải thay đổi quan hệ SX cũ bằng quan hệ SX mới phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lợng SX. Chính quan hệ SX tự phát triển để phù hợp với
lực lợng SX, quan hệ SX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lợng SX, đó là quy luật kinh tế chung của sự phát triển.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lợng SX tiên tiến với quan hệ SX đã lạc hậu
diễn ra gay gắt và quyết liệt cần đợc giải quyết. Nhng giải quyết nó bằng cách
nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế, mà công
cuộc đổi mới nền kinh tế sang nền kinh tế thị trờng với phấn đấu xây dựng nớc
ta trở thành quốc gia Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá, dân giàu nớc mạnh , xã
hội công bằng văn minh là một ví dụ

2.2.2. Các hình thức biểu hiện
a/ Quan hệ giữa sở hữu về t liệu sản xuất với lực lợng sản xuất
Vấn đề sở hữu về t liệu sản xuất là vấn đề cơ bản nhất trong quan hệ sản
xuất, và là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới hiện nay ở nớc
ta. Để xem xét vấn đề sơ hữu về t liệu sản xuất, cần gắn với sự phát triển của lực
lợng sản xuất cũng nh các mặt khác của đời sống xã hội.
Trớc đây khi nói đến xã hội chủ nghĩa, chúng ta thờng nói đến chế độ
công hữu về t liệu sản xuất dới hai hình thức chủ yếu là: sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể; hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bớc quá độ để đi lên
xã hội chủ nghĩa chỉ còn có một hình thức sở hữu duy nhất về t liệu sản xuất là
sở hữu toàn dân. Song thực tế lịch sử đã không thừa nhận quan điểm đó. Sau sự
tan rã của các nớc XNCN ở Liên Xô và Đông Âu, tất cả các nớc dới hình thức
này hay hình thức khác, đều phải chuyển sang nền kinh tế thị trờng, và đều phải

đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
ở nớc ta, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng đến nay đã hơn 15
năm đổi mới chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý điều tiết của
nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu đạt đợc trong 15 năm qua
21


đã khẳng định tính đúng đắn của đờng lối đó. Cho đến nay, không ai phủ nhận
phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phải sử dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, nhng cũng có quan điểm cho rằng: chúng ta phải đa dạng hoá nhiều
thành phần là do lực lợng sản xuất của chúng ta còn thấp kém, còn đan xen
nhiều trình độ khác nhau.
Với quan điểm đó, phải chăng đa dạng hoá các hình thức sở hữu chỉ khi
lực lợng sản xuất còn thấp kém còn khi lực lợng sản xuất phát triển cao thì lại đi
đến đơn nhất hoá. Rõ ràng đây là một vấn đề cần phải làm sáng tỏ thêm.
Thực tế lịch sử cho thấy lực lợng sản xuất xã hội không ngừng phát triển,
phân công lao động ngày càng sâu sắc. Cùng với sự phát triển của lực lợng sản
xuất, của phân công lao động thì các hình thức sở hữu ngày càng trở nên đa
dạng. Trong xã hội nguyên thuỷ, do lực lợng sản xuất kém phát triển nên chỉ có
một hình thức sở hữu duy nhất về t liệu sản xuất là sở hữu thị tộc, bộ lạc. Nhng
khi xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, đến t bản chủ nghĩa thì phân công lao động
ngày càng phát triển, các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất ngày càng đa dạng.
Ngày nay khi mà xu hớng toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ thì phân công lao
động trong mỗi quốc gia cũng nh quốc tế ngày càng sâu sắc;khi lực luợng sản
xuất có tính xã hội hoá cao và có tính quốc tế thì các hình thức sở hữu ngày
càng trở nên đa dạng. Trong các nớc t bản phát triển cũng nh các nớc khác đều
xuất hiện nhiều hình thức sở hữu khác nhau nh sở hữu ngời sản xuất, sở hữu nhà
nớc và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Rõ ràng xu hớng ngày càng đa dạng hoá
sở hữu về t liệu sản xuất gắn với sự phát triển của lực lợng sản xuất, của phân

công lao động trong xã hội là một xu hớng tất yếu, là một quá trình "lịch sử - tự
nhiên" và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó chính là quá trình xã hội hoá
sản xuất cả về lực lợng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất. Quá trình xã hội hoá về
mặt lực lợng sản xuất chính là quá trình phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc trong mỗi quốc gia, quốc tế và khu vực. Còn xã hội hoá quan hệ sản xuất
là quá trình ngày càng đa dạng các hình thức sở hữu, làm cho sở hữu có nhiều
cấp độ khác nhau, quan hệ với nhau, bổ sung cho nhau. Điều này khác với quan
điểm trớc đây đã đồng nhất xã hội hoá về mặt t liệu sản xuất với công hữu hoá.
22


Gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của phân công lao động
trong xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu là quá trình hình thành, phát
triển của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng. Chính phân công lao động xã hội và
đa dạng hoá các hình thức sở hữu đã sinh ra kinh tế thị trờng; đến lợt nó, kinh tế
thị trờng lại là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, phân
công lao động xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
ở nớc ta hiện nay không thể đổi mới, phát triển lực luợng sản xuất, tiến
hành thành công công nghiệp hoá và hiện đại hoá thành công, nếu không nhận
thức và xử lý một cách nghiêm túc và khoa học vấn đề sở hữu, vì nó chính là
một trong những căn cứ quan trọng để xác định thành phần kinh tế. Do vậy để
thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần, tất yếu phải nhấn
mạnh cơ cấu sở hữu đa dạng nhằm "giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa
mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng
cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân...."
Cơ cấu kinh tế của chúng ta hiện nay bao gồm: sở hữu nhà nớc, sở hữu
hợp tác, sở hữu hỗn hợp, sở hữu t bản t nhân, sở hữu cá thể tiểu thủ, trong đó sở
hữu nhà nớc giữ vai trò chủ đạo và cùng với sở hữu hợp tác làm nền tảng cho
nền kinh tế. Trong đổi mới quan hệ sở hữu phù hợp với lực lợng sản xuất ở nớc
ta hiện nay cần chú trọng đến hình thức sở hữu hỗn hợp về t liệu sản xuất. Hình

thức sở hữu này đợc thực hiện thông qua các hình thức tổ chức hợp tác liên
doanh giữa nhà nớc với các hợp tác xã, giữa nhà nớc với t bản trong nớc và t bản
nớc ngoài. Trong thời gian tới chúng ta cần phải xúc tiến mạnh mẽ việc hình
thành và phát triển các tổ hợp và các hợp tác xã kiểu mới, nhất là hợp tác xã cổ
phần trong các ngành công nghiệp chế biến, giao thông vận tải, thơng mại, tín
dụng ngân hàng, dịch vụ. Song song với việc tháo bỏ những vớng mắc tồn tại để
mở rộng các hình thức kinh tế t bản nhà nớc thông qua các hình thức hợp tác
liên doanh, cho thuê, các hình thức BOT, BT, gia công đặt hàng, đại lý... với t
bản nớc ngoài, cần khuyến kích phát triển kinh tế t bản t nhân trong nớc để họ
có điều kiện tham gia liên doanh với kinh tế nhà nớc nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
23


Trong cơ cấu quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất, một hình thức sở hữu
đóng vai trò đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc thực hiện định hớng xã hội
chủ nghĩa, đó là hình thức sở hữu nhà nớc. Để hình thức này thực sự giữ vai trò
chủ đạo cần phải tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp nhà nớc theo hớng tăng cờng quyền của chủ sở hữu nhà nớc đối với doanh nghiệp nhà nớc,thông qua việc
xác lập và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục, cục quản lý vốn và tài
sản nhà nớc, và chủ tịch Hội đồng quản trị doanh nghiệp, sắp xếp và cổ phần
hoá một hoá một số doanh nghiệp nhà nớc.Sớm đa doanh nghiệp nhà nớc đi vào
hoạt động có hiệu quả hơn, làm nòng cốt kinh tế và thực hiện tốt vai trò chủ đạo
đối với các thành phần kinh tế.

b/ Quan hệ quản lý kinh tế
Quan hệ quản lý, một nội dung quan trọng của quan hệ sản xuất mới cần
đợc xây dựng. Thực chất của việc xây dựng quan hệ quản lý kinh tế trong điều
kiện kinh tế thị trờng và trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ tơng đối cơ chế thị trờng có sự quản lý

nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa
Qua hơn 15 đổi mới nền kinh tế, bên cạnh những thành tựu thu đợc trong
đổi mới kinh tế chúng ta vẫn còn nhiều tồn tại trong quan hệ quản lý kinh tế đã
làm hạn chế sự phát triển của lực lợng sản xuất, ảnh hởng tới quá trình phát triển
của đất nớc. Điều đó đợc thể hiện nh sau:
- Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện này còn sơ khai cha đầy đủ
Tuy sản xuất nông lâm- ng nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ
trọng lớn nhất, chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhng quá trình
thơng phẩm hoá sản phẩm nông lâm ng nghiệp chỉ diễn ra ở một số nơi có
cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải thuận lợi, gần thị trờng lớn và bình quân ruộng
đất trên đầu ngời tơng đối cao. Chỉ có những nơi này là sản xuất đợc hàng hoá,

24


với khối lợng tơng đối lớn, phần còn lại vẫn trong tình trạng sản xuất tự cung, tự
cấp.
Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh nhng lại chỉ tập trung ở một số
ngành nh ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng công nghiệp.... các ngành nh du lịch,
bảo hiểm, cung ứng dịch vụ nhìn chung còn thấp, cha tơng xứng với tiềm năng
hiện có.
Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của thị trờng hàng hoá nh thị trờng
đất đai, thị thị trờng sức lao động, thị trờng tiền tệ cha đợc thiết lập một cách
hoàn chỉnh, công khai. Một số các yếu tố cấu thành đầu vào của sản phẩm cha
phải là hàng hoá, hoặc đang trong tình trạng độc quyền.
Chính vì nền kinh tế đang trong quá trình quá độ chuyển đổi nh vậy nên
nhà nớc cha kiên quyết từ bỏ cách quản lý trực tiếp đối với nền kinh tế sang
quản lý gián tiếp mà vẫn phải tiến hành đan xen cả hai phơng thức này, điều đó
thể hiện ở thực tế một số địa phơng vẫn còn giao kế hoạch sản xuất, kế hoạch
giao nộp và đóng góp cho các hợp tác xã và nông dân hay can thiệp vào công tác

tổ chức nhân sự của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn mình....
- Quản lý nhà nớc về kinh tế còn yếu
Trong nền kinh tế thị trờng công cụ chủ yếu nhà nớc sử dụng để quản lý
là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càng đầy đủ, đồng bộ bao nhiêu, việc
quản lý nhà nớc càng chặt chẽ, thuận lợi bấy nhiêu. Mấy năm qua nhà nớc ta
cũng đã có nhiều cố gắng giải quyết vấn đề này. Song phải nói rằng luật kinh tế
cha làm đợc bao nhiêu. Mỗi kỳ họp quốc hội chúng ta lại thông qua 2 3 luật,
nhng chất lợng đạt đợc không cao. Hầu hết luật ban hành sau 1 2 năm lại
phải sửa đổi, văn bản hớng dẫn luật không đầy đủ và đúng thời gian quy định
công tác ban hành luật do đó gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp. Một nhà
doanh nghiệp phát biểu chúng ta thực sự có sự ổn định chính trị, nhng văn bản
luật lại không ổn định mà ngời hứng chịu lại là doanh nghiệp. Bên cạnh đó các
văn bản luật hiện nay có sự chồng chéo lên nhau của các cơ quan ban hành.
Theo thống kê của chính phủ vừa qua có trên 2000 văn bản luật vi phạm điều
này cần phải huỷ bỏ. Hệ thống luật không tốt cũng tạo thành những lỗ hổng cho
25


×