Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đảng bộ tỉnh an giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo (1990 2004)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.79 KB, 95 trang )

LUẬN VĂN:

Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực
hiện công tác tôn giáo
(1990 - 2004)


mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
tôn giáo vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một thực thể xã hội. Nó ra đời
cách đây hàng ngàn năm, cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội loài người. Từ lâu,
tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân ở hầu hết
các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Từrất sớm,
một số tôn giáo ngoại sinh du nhập vào nước ta như: Phật Giáo, Hồi Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Tin Lành. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, do nhu cầu tín ngưỡng của một bộ
phận lớn quần chúng nhân dân khu vực Nam Bộ đã hình thành nên những tôn giáo mới
(tôn giáo nội sinh) như Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo. Do đó, đến nay Vịêt Nam được xem
là quốc gia đa tôn giáo (có 6 tôn giáo chính thức). Vấn đề tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp
và nhạy cảm ở Việt Nam, vì vậy ngay từ rất sớm Đảng ta có cách nhìn nhận và đánh giá
đúng đắn về vai trò của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân. Trong thời kỳ mới Đảng ta
có Nghị quyết 24 của BCT (ngày 16-10-1990) về tôn giáo, Nghị quyết này đã tạo nên
bước ngoặt quan trọng trong công tác tôn giáo.
Quán triệt Nghị quyết 24 của BCT, từ 1990 Đảng bộ tỉnh An Giang đã lãnh đạo
thực hiện công tác tôn giáo ở địa phương với những nét sáng tạo độc đáo riêng ở một tỉnh
biên giới đa dân tộc, đa tôn giáo của vùng Tây Nam Bộ. Do đó, việc chọn đề tài “Đảng bộ
tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo (1990 - 2004)” làm luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng, tác giả bước đầu tìm hiểu nét đặc thù của tôn
giáo ở An Giang và sự lãnh đạo của Đảng bộ trong lĩnh vực tôn giáo. Đây là công tác
quan trọng của Đảng và Nhà nước trên mặt trận văn hoá tinh thần của bộ phận đông dân
cư ở tỉnh An Giang, rất cần được tổng kết, rút ra kinh nghiệm cho hoạt động lãnh đạo, chỉ
đạo ở các giai đoạn cách mạng tiếp theo của Đảng.




2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam nói chung và ở An Giang nói riêng từ trước đến nay
cũng có nhiều công trình, bài viết đề cập đến với nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như:
“Một số tôn giáo ở Việt Nam” của Ban Tôn giáo Chính phủ (1993), “Vài nét cơ bản về tôn
giáo ở An Giang” của Trần Thanh Phương (1984), “Vài nét cơ bản về các tôn giáo ở An
Giang” của Trương Thanh Sơn và Lê Hoàng Lộc (1993), “Cơ sở văn hoá Việt Nam” của
T.S Trần Ngọc Thêm (1996), “Văn hoá tâm linh Nam Bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997),
“Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ” do Đỗ Quang Hưng chủ biên (2001), “Di tích
lịch sử văn hoá An Giang” (2001). Năm 1996, Phạm Bích Hợp có luạn án PTS Dân tộc
học về Đời sống xã hội và tâm lý nhân dân Việt Nam ở làng Hòa Hảo tại An Giang trước
và sau 1975”. Năm 1997 tác giả Bùi Thị Thu Hà có luận văn thạc sĩ bàn về “Đảng bộ An
Giang vận động quần chúng tín đồ Hoà Hảo tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954-1975”. Năm 1999 Nguyễn Hoàng Sa có luận án tiến sĩ “Phật giáo Hoà Hảo và ảnh
hưởng của nó ở đồng bằng sông Cửu Long”.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu, những bài viết, những luận văn trên đã
đề cập đến nhiều nội dung khác nhau với nhiều khía cạnh khác nhau về tôn giáo. Song
vấn đề công tác tôn giáo vận của Đảng bộ tỉnh An Giang nói riêng là một vấn đề lớn, cần
được quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
3.1. Mục đích: Trên cơ sở trình bày đặc điểm tôn giáo ở An Giang và tìm hiểu
Đảng bộ Tỉnh lãnh thực hiện đạo công tác tôn giáo, luận văn nêu ra những thành công và
chưa thành công, bước đầu rút ra những kinh nghiệm, góp phần vào công tác lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực tôn giáo.
3.2. Nhiệm vụ:
- Trình bày đặc điểm tôn giáo ở An Giang và công tác tôn giáo của Đảng bộ.
- Quá trình lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo của Đảng bộ, những kinh nghiệm
rút ra nhằm phát huy công tác tôn giáo vận trong thời gian tới.
3.3. Đối tượng nghiên cứu:

Tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp. Dưới góc độ lịch sử, luận văn chỉ đi sâu tìm
hiểu công tác tôn giáo của Đảng bộ và tập trung vào thời kỳ 1986 – 2004.


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về tôn giáo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, chú trọng
sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh để làm rõ mục tiêu nhiệm vụ của luận văn.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Đến nay tác giả chưa thấy có đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ lịch sử nào
nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh An Giang trong việc tổ chức thực hiện đường
lối của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Vì vậy, thực hiện luận văn này cũng là một đóng góp
vào việc tổng kết lịch sử của Đảng ở địa phương.
6. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn bước đầu hệ thống hoá những chủ trương chính sách của Đảng về công
tác tôn giáo và quá trình lãnh đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh An Giang, nêu ra được sự
vận dụng sáng tạo những chủ trương chính sách của Đảng về công tác tôn giáo của Đảng
bộ tỉnh An Giang vào điều kiện cụ thể của địa phương.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo công tác giảng dạy và nghiên cứu ở các
trường chính trị, cao đẳng và đại học; nhất là đối với giảng viên dạy ngành lịch sử Đảng,
tôn giáo, dân vận.
- Là tài liệu đóng góp cho việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức
của đảng bộ cơ sở về việc quán triệt, vận dụng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.




Chương 1
ĐƯờNG LốI, CHủ TRƯƠNG CủA ĐảNG
Về CÔNG TáC TÔN GIáO
1.1.

đặc điểm kinh tế, xã hội và đời sống tín

ngưỡng ở an giang

1.1.1 Vài nét về tỉnh An Giang
An Giang là tỉnh biên giới có nhiều dân tộc, tôn giáo, giàu tài nguyên thiên nhiên;
nhân dân giàu lòng yêu nước và sớm có truyền thống đấu tranh cách mạng đã được nhà
Nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. An Giang đã được
xác định là địa bàn quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, an ninh quốc
phòng của vùng Tây Nam bộ.
An Giang có diện tích tự nhiên 3.401,585km2, Các đơn vị hành chính trực thuộc
gồm: Thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và 9 huyện, có 140 đơn vị hành chính cơ
sở (118 xã, 11 phường, 11 thị trấn), 735 khóm, ấp. An Giang có chiều dài theo hướng Bắc
Nam là 86 km và Đông Tây là 87,2 km, phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên
giới dài khoảng 104 km, Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang 69,78km, Nam giáp thành phố
Cần Thơ với đường biên giới 44,73 km, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp dài 107,62 km.
An Giang có 21 tuyến huyện dài 313,233 km và 3 tuyến tỉnh dài 222,159 km; được xác
định bằng 461 mốc địa giới hành chính các cấp gồm 39 mốc cấp tỉnh, 89 mốc cấp huyện
và 333 mốc cấp xã.
Các điểm cực Bắc trên vĩ độ 10 057’B (xã Khánh An, An Phú), cực Nam trên vĩ độ
10 012’B (xã thoại Giang, Thoại Sơn), cực Tây trên kinh độ 104 0 46’Đ (xã Vĩnh Gia, Tri
Tôn), cực Đông trên kinh độ 105035’Đ (xã Bình Phước Xuân, Chợ Mới).

Ngày 23.5.1997 Uỷ ban Dân tộc miền núi công nhận 21 xã vùng núi thuộc 2 huyện
Tri Tôn (9 xã) và Tịnh Biên (12 xã) theo quyết định 42/UBQĐ và công nhận vùng dân tộc
đồng bằng gồm xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn và 5 xã: Đa Phước, Khánh Bình, Quốc
Thái, Nhơn Hội, Vĩnh Tường của huyện An Phú. Ngày 25.2.1998 Uỷ ban nhân dân Tỉnh
ra Quyết định 21/1998/UBQĐ, An Giang có 17 xã biên giới của 5 huyện giáp Campuchia.
Tính đến 20.5.2003, dân số An Giang là 2.141.256 người trong đó dân số sống ở thành
thị chiếm 21,49%, ở nông thôn 78,51% đồng bào dân tộc thiểu số gồm: Khmer, Chăm,
Hoa chiếm 5,64 % dân số. Đồng bào Khmer có 90.441 người, chiếm 4,22% dân số, ở 5


huyện, 26 xã (chủ yếu ở các huyện: Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú, Châu Thành, Thoại
Sơn). Đồng bào người Hoa có 15.989 người, chủ yếu sinh sống ở các thị trấn, phường nội
ô thành phố Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu. Đồng bào Chăm có 14.274 người, sống
tập trung ở các huyện An Phú, Tân Châu, PhúTân, Châu Thành, Thoại Sơn. Đồng bào
Khmer, Chăm, Hoa gắn bó đoàn kết với đồng bào Kinh từ lâu, luôn cần cù lao động, có ý
thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc .
1.1.2. Đời sống văn hoá, tín ngưỡng ở An Giang
An Giang là một tỉnh mới được khai phá từ triều Nguyễn, thuộc đồng bằng sông
Cửu Long, nhưng lại có nhiều núi non hùng vĩ. Từ xa xưa, đây là vùng rừng rậm, hoang
vu với những ngọn núi cao mang tên Phụng Hoàng Sơn, Bạch Hổ Sơn, Ngọc Long Sơn,
Bích Thuỷ Sơn, Ngủ Hổ Sơn, Hoạ My Sơn, Thiên Cấm Sơn, lại có nhưng nơi đầm lầy,
sông ngòi chằng chịt với những cù lao, cồn Tiên, cồn Cát,...Cuộc sống với nền kinh tế
được thiên nhiên ưu đãi nên người dân sống chủ yếu dựa vào rừng núi, sông rạch với các
nghề như trồng lúa nước, đánh bắt cá, làm rẫy, đốn củi đốt than, lấy cây thuốc... Trước
đây do điều kiện giao thông khó khăn nên người dân địa phương còn lệ thuộc nhiều vào
thiên nhiên; bên cạnh đó sự áp bức bóc lột của thực dân phong kiến khiến đời sống nhân
dân ngày càng khốn khó và ngày càng phụ thuộc vào thiên nhiên.
An Giang là tỉnh biên giới nên sớm là nơi hội tụ và giao lưu nhiều nền văn hoá của
các dân tộc trong nước và khu vực. Song nổi trội hơn cả là sự giao lưu văn hoá của các
dân tộc cùng chung sống và khai khẩn trên vùng đất này. ở đây, văn hoá của những cư

dân bản địa Khmer đã gặp gỡ với văn hóa của người Việt từ phía Bắc vào, với di dân
người Hoa, người Chăm...để tạo nên một nền văn hóa chung của cộng đồng cư dân Nam
bộ. Cuộc sống của những cư dân trên vùng đất An Giang không chỉ có khai hoang, lập ấp,
cày bừa, gặt hái để có cái ăn, cái mặc, còn có những nhu cầu tâm linh. Sự hoài niệm về
nguồn cội, không chỉ là tình cảm mà còn là niềm tin ở sự trợ giúp của ông bà, tổ tiên cho
con cháu sinh sống trên vùng đất mới. Cũng trên vùng đất này, các cư dân đã phải đối
diện với một sức mạnh siêu nhiên hoang sơ, đầy bí ẩn, chi phối không ít cuộc sống của
họ. Niềm tin ở sự can dự của thần thánh, ma quỷ vào công cuộc khai khẩn, định cư của
các cư dân và tính ác liệt của chiến tranh giành dân, lấn đất của thực dân Pháp đã tạo cho


họ tâm lý tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên. Chính điều này đã lý giải tại sao An Giang
là nơi hội tụ và cũng là nơi hình thành nhiêu loại tín ngưỡng tôn giáo.
Giữa thế kỷ 19, miền Tây Nam bộ xảy ra chiến tranh liên miên, tàn khốc, nạn đói
kém và dịch bệnh hoành hành. Đây là giai đoạn ra đời các tôn giáo mới ở An Giang.
Trước hết phải kể đến đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đoàn Minh Huyên sáng lập
vào cuối năm 1849 tại Cốc ông Đạo Kiến ( nay là Tây An Cổ Tự, xã Long Kiến, huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang). Đoàn Minh Huyên (1807 – 1856) quê quán ở làng Tòng Sơn,
Tổng An Định, nay là xã Mỹ Hưng, huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng Tháp. Ông là một sĩ
phu yêu nước có hiểu biết sâu sắc về sấm Trạng Trình. Trước cảnh loạn lạc, nhân dân cơ
cực khốn cùng, hạn hán kéo dài, dịch bệnh, đói kém đang hoành hành, Ông cho rằng; đó
là điềm trời báo trước sắp đổi đời, đời “hạ ngươn” sắp mãn, để bước vào “Hội Long Hoa”
lập đời “thượng ngươn”. Tiên - Phật sẽ mở “Hội Long Hoa” chọn những người hiền đức,
sống có nhân có nghĩa để sống đời “thượng ngươn” an lạc, thanh bình mãi mãi. Còn
những kẻ gian ác sẽ bị trừng trị thảm khốc.
Do giáo lý chủ yếu dựa vào sấm Trạng Trình, cách thức thờ cúng khác hẳn Phật
giáo, nên môi trường chùa Tây An đã hạn chế sự phát triển của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Mặt khác, để có nơi tu luyện, sinh sống, tập hợp lực lượng, tránh được sự nhòm ngó của
nhà cầm quyền, Đoàn Minh Huyên cùng các đệ tử và tín đồ khai hoang, lập trại ruộng,
xây chùa ở nhiều nơi, nhất là vùng núi thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang).

Ông được đệ tử và nhân dân trong vùng suy tôn là Đức Phật thầy Tây An. Hoạt động của
Ông chủ yếu là chữa bệnh cứu người, khai hoang, dạy người tu hành làm điều lành, tránh
điều dữ, nên đáp ứng được nhu cầu của người nông dân và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Đó là lý do khiến đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tồn tại và phát triển mạnh mẽ; đến năm 1856
đã có mấy mươi vạn tín đồ khắp miền Tây Nam bộ.
Khi thực dân Pháp xâm lược, những trại ruộng của Bửu Sơn Kỳ Hương trở thành
căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa chống Pháp. Điển hình là cuộc khởi nghĩa của Quản Cơ Trần
Văn Thành (1867 – 1873). Nhiều đệ tử của Phật thầy Tây An anh dũng chống Pháp đã
được tín đồ tôn thờ và cúng viếng hằng năm như: Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Ông
Đình Tây (Bùi Văn Tây), Ông Cử Đa (Nguyễn Thành Đa).


Sau khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp nói trên bị thất bại, thực dân Pháp thẳng
tay đàn áp tàn bạo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không còn phát triển như trước (khẩn hoang,
lập trại ruộng) mà xuất hiện dưới hình thức giảng đạo. Phật giáo Hoà Hảo và Tứ Ân Hiếu
Nghĩa cũng là chi phái của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Đức Bổn Sư (Ngô Lợi), là môt trong các học trò ưu tú của Phật thầy Tây An, đã
sáng lập ra đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại Châu Đốc năm 1867. Ông Ngô Lợi (1831 – 1890)
quê quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, tham gia nghĩa quân chống thực dân Pháp.
Bị đàn áp, Ông trốn lên vùng Bảy Núi khai hoang và lập ấp. Năm 1851 đến 1866,
Ông viết một số sách kinh, đi rao giảng và khuyên người đời không nên ham lấy công
danh phú quý, phải biết yêu thương đồng bào, nhân loại, có trách nhiệm với đất nước khi
có ngoại xâm. Ông vừa khuyên người đời nên tu nhân tích đức, vừa bốc thuốc chữa bênh
(lúc này bệnh dich đang hoành hành), nên thu hút hàng vạn người tìm đến để chữa bệnh
và học đạo.
Mồng 5 tháng 5 âm lịch (1867), Ông chính thức truyền đạo và dạy nghi thức hành
đạo. Ban đàu ông cho lập chùa tại xã Bình Long (Châu Phú, An Giang). Nhưng do thực
dân Pháp nghi ngờ, nên Ông dẫn nhiều tín đồ vào núi Tượng để “trảm khảo, khai sơn”,
xây dựng xóm làng mới. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát triển nhanh và gắn liền với quá
trình hình thành và phát triển những làng đạo, vùng đất mới của những người nông dân

mất ruộng, địa bàn hội tụ của những người yêu nước.
Suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đại bộ phận tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An
Giang đã anh dũng tham gia đấu tranh cách mạng. Các xã có đông tín đồ Tứ Ân Hiếu
Nghĩa như Ba Chúc, Lương Phi, Lê Trì, Vĩnh Gia, Lạc Quới, Long Sơn đều được phong
tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân". Đó là niềm tự hào của tín đồ Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, những người nông dân bình dị yêu nước.
Khi nói đến lịch sử hình thành và phát triển của đạo Phật giáo Hoà Hảo phải kể
đến người sáng lập là ông Huỳnh Phú Sổ. Ông là người thông minh, có khiếu làm văn
vần, học đến bằng sơ học Pháp – Việt. Ông mắc bệnh không chữa khỏi, có người khuyên
đến chữa ở ông Lê Hồng Nhật, một môn đệ của Đức Phật thầy Đoàn Minh Huyên. Sau
khi chữa khỏi bệnh, Ông theo Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.


Năm 1937, Huỳnh Phú Sổ về quê, gặp lúc thiên tai mất mùa, dân đói ăn thiếu mặc,
ốm đau không thuốc chữa trị. Ông dùng thuốc nam chữa bệnh cho dân không lấy tiền.
Ông dùng sấm Trạng Trình để đoán thiên cơ, tự xưng là Phật Thầy Tây An mượn xác
phàm về để cứu độ chúng sinh. Từ đó người dân gọi ông là “Thầy Tư Hoà Hảo”. Người
nông dân An Giang lúc bấy giờ sống cơ cực dưới ách áp bức bóc lột của thực dân, phong
kiến; lại luôn đói khổ vì thiên tai. Cuộc sống bế tắc nên phần nhiều họ muốn tìm đến với
giáo lý của Huỳnh Phú Sổ; quần chúng nhập môn theo đạo ngày càng đông, đạo Hòa Hảo
ra đời từ đó.
Bên cạnh các tôn giáo trên, ở An Giang còn có 194 đình thần, dinh, miếu, đền thờ,
am cốc theo phong tục tập quán của người Kinh, Hoa, Khmer. Các hoạt động tín ngưỡng
dân gian thu hút khá đông quần chúng như: Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, Lăng Thoại Ngọc
Hầu, Dinh Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Hàng năm, vào các ngày lễ, giỗ, có hàng triệu
lượt người về dự. Riêng Miếu Bà Chúa Xứ có từ thuở Thoại Ngọc Hầu (một viên quan
của triều đình nhà Nguyễn) đến An Giang khai hoang lập ấp. Miếu Bà Chúa Xứ tọa lạc tại
vùng Núi Sam, thị xã Châu Đốc. Tượng Bà Chúa Xứ trước ngự trên đỉnh núi Sam đến đầu
thế kỷ XIX dân làng Vĩnh Tế phát hiện được mới rước xuống núi và lập miếu thờ. Miếu
được lập vào đầu thế kỷ XIV (khoảng 1820-1825), lúc đầu làm bằng tre lá đơn sơ. Qua

nhiều lần sửa sang, đến năm 1972, Miếu được xây dựng lại qui mô và tráng lệ theo kiểu
hình khối tháp, có bốn tầng mái cong lợp ngói óng, tráng men xanh với nghệ thật chạm gỗ
rất tinh xảo. Toàn khu Miếu Bà là một công trình nghệ thuật tiêu biểu cho sự hài hòa của
nền kiến trúc truyền thống, dân tộc và hiện đại tạo thành khu danh thắng của An Giang.
Miếu đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận và xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm
1989.
Pho tượng Bà Chúa Xứ gắn liền với huyền thoại, với nhiều cách giải thích. Có một
truyền thuyết được dân gian truyền tụng từ đời này qua đời khác và được nhiều sách vở
ghi chép lại cho đến nay như sau: cách đây gần 200 năm, lúc bấy giờ tượng Bà còn ngự
trên đỉnh núi Sam, bị giặc Xiêm phá hoại. Chúng tìm cách khiêng đi nhưng không thể nào
xê dịch được. Sau đó, có một bé gái được Bà đập đồng mách bảo: “Hãy chọn chín cô gái
đồng trinh để đem bà xuống núi”. Dân làng làm theo và lạ thay pho tượng được chuyển đi
dễ dàng, nhưng khi đến chân núi thì không thể xê dịch được nữa. Từ đó dân làng dựng lên


ngôi miếu để thờ. Hôm đó là ngày 25 tháng 4 âm lịch, dân làng lấy ngày này làm ngày lễ
vía Bà. Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam hàng năm thoạt đầu chỉ do dân làng tham gia cúng tế,
dần dần lượng du khách từ khắp nơi trong cả nước về đây trẩy hội rất đông. Có thể nói
đây là một lễ hội dân gian lớn nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Những năm gần đây, di
tích đã thu hút hàng triệu lượt du khách đến chiêm bái và tham quan .
Như trên đã trình bày, An Giang là tỉnh có nhiều tôn giáo, trong đó có cả tôn giáo
ngoại nhập và tôn giáo nội sinh. Tôn giáo nào cũng ra sức củng cố đức tin cho tín đồ
thông qua lễ nghi sinh động, giáo luật luôn cải sửa cho thích nghi với đời sống xã hội, cơ
sở thờ tự tu sửa khang trang, nhiều tu sĩ được đào tạo ...nên hoạt động thu hút đông đảo
tín đồ đến nơi thờ tự. Một số tín đồ trẻ, tuy có ý thức thoát ly dần sự ràng buộc của giáo
hội để lao vào cuộc sống tìm cơ hội lập thân, lập nghiệp, nhưng khi gặp khó khăn trắc trở,
họ chưa đủ sức vượt qua, nên lại tìm đến giáo hội cầu xin sự hỗ trợ vật chất hoặc chỗ dựa
tinh thần. Do đó, tín đồ các tôn giáo này vẫn không ngừng tăng lên.
Sau ngày giải phóng (1975) đồng bào có đạo ở An Giang ngày càng tin tưởng sâu
sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, thấu suốt chính sách nhất quán đúng đắn của Đảng và Nhà

nước về tôn giáo. Họ ý thức được đó là cơ hội lớn của tín đồ, tổ chức tôn giáo thực hiện
nguyện vọng “tốt đời, đẹp đạo”. Do đó, họ yên tâm hành đạo, ý thức chấp hành pháp luật
ngày càng nâng cao hơn, sự mặc cảm là người có đạo giảm dần. Các chức sắc, tu sĩ nhìn
chung đã có ý thức gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật, tích cực hưởng ứng công cuộc
đổi mới đất nước, nhiều người tham gia vào Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và cơ quan dân cử
các cấp. Một số chức sắc, tu sĩ lợi dụng sơ hở của pháp luật và việc quản lý của chính phủ
để phát triển đạo. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức hạn chế, một bộ phận tín đồ bị lợi
dụng dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế; thậm chí còn có bộ phận nhẹ dạ, cả
tin nghe lời xúi giục và kích động của các phần tử xấu. Một bộ phận nhỏ chức sắc, tu sĩ có
thái độ chính trị phức tạp, cực đoan, khi bị đấu tranh xử lý từng bước đã có chuyển biến .
Mối quan hệ quốc tế các tôn giáo ngày càng mở rộng và cũng phát sinh nhiều mặt
phức tạp. Một số tôn giáo có mối quan hệ quốc tế, cũng như một bộ phận “hải ngoại” của
các tôn giáo không có quan hệ quốc tế (Cao Đài, Hoà Hảo) đều thường xuyên tác động
vào nội địa. Một số giáo sĩ được Nhà nước cho phép đi nước ngoài nhưng do các cơ quan


chức năng chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, nên một số người lợi dụng cơ hội
này để cấu kết với các thế lực thù địch.
Các thế lực thù địch ngoài nước luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện âm
mưu diễn biến hoà bình, tạo ra nguyên cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kích
động các phần tử phản động trong nước hoạt động chống phá.
ảnh hưởng của tình hình tôn giáo, tín ngưỡng đối với an ninh trật tự tại địa
phương.
ở An Giang tôn giáo và dân tộc luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Phật giáo Tiểu thừa Nam tông tồn tại và phát triển ở cộng đồng dân tộc Khmer Crôm.
Ngay từ khi Chúa Nguyễn khai hoang vùng đất An Giang đồng bào dân tộc Chăm đã gắn
bó mật thiết với Hồi giáo. Phật giáo Đại thừa phổ biến chủ yếu trong đồng bào dân tộc
Kinh và Hoa. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có phần lớn tín đồ tập trung ở huyện Tri Tôn. Phật
giáo Hòa Hảo tập trung đông nhất cũng ở các huyện Chợ Mới, Tân Châu, Phú Tân, An
Phú,... Do quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và tôn giáo, nên đời sống văn hoá tín ngưỡng của

nhân dân An Giang có những nét đặc sắc riêng.
Phật giáo
ở An Giang Phật giáo có 778.431 tín đồ (87.450 người Khmer) trong đó có 645
chức sắc, sinh hoạt tại 319 cơ sở thờ tự (64 chùa Khmer). Dưới chế độ mới các hoạt động
của Phật giáo gắn bó với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục phát huy được truyền thống
yêu nước, tích cực hoạt động từ thiện cứu trợ. Một số tăng ni phật tử đã lợi dụng sinh hoạt
tôn giáo để vụ lợi .
Đa số sư sãi người Khmer còn trẻ, trình độ học còn hạn chế nên vai trò xã hội
giảm. Tuy đã tách dần khỏi sự chi phối của Phật giáo ở Campuchia, gắn bó chặt chẽ trong
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhưng Phật giáo ở An Giang vẫn còn chịu ảnh hưởng nhất
định từ bên ngoài.
Những hoạt động chính trị quá khích của nhóm Phật giáo Thống nhất cũ, tuy có tác
động đến Phật giáo An Giang, nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến mặt tích cực của
Phật giáo trong tỉnh.
Công giáo.


Công giáo có 60.225 tín đồ, 56 chức sắc (2 giám mục, 58 linh mục) 261 tu sĩ, 52
cơ sở thờ tự và 1 Toà Giám mục Giáo Phận. Tôn giáo ở An Giang hoạt động theo Thư
chung của Hội đồng Giám mục “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc, phục vụ hạnh phúc
đồng bào” ý thức dân tộc và trách nhiệm công dân của giáo dân nâng lên. Một mặt họ
luôn luôn tôn trọng và “thân thiện với chính quyền”, không vi phạm pháp luật, tạo căng
thẳng, nhưng mặt khác họ tranh thủ chính sách đổi mới và khai thác những sơ hở của ta
để tập trung củng cố tổ chức cơ sở, củng cố đức tin ở thanh thiếu niên và thường thông
qua hoạt động công tác từ thiện phát triển tín đồ.
Hội đồng Giáo Xứ với hoạt động tích cực của các hội đoàn đã vượt qúa nhu cầu tín
ngưỡng tôn giáo. Một số hội đoàn bất hợp pháp tuy đã bị giải tán, nhưng vẫn lén lút tìm
cách khôi phục lại để phục vụ mục tiêu của Giáo hội là phát triển đạo và nắm quần chúng.
Phật giáo Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo có 791.715 tín đồ, 110 chức viện (đại diện Phật giáo Hòa Hảo),

04 cơ sở thờ tự. Đại đa số tín đồ là nông dân yêu nước, sinh hoạt tôn giáo bình thường, có
ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước tích cực tham gia các phong trào
cách mạng ở địa phương.
Ban đại diện Phật giáo Hòa Hảo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, là
tổ chức duy nhất hợp pháp của đạo. Ban đại diện đã hướng dẫn tín đồ tu hành thuần tuý
và hoàn thành nghĩa vụ công dân, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu của kẻ thù lợi
dụng Phật giáo Hòa Hảo để chống phá chế độ. Song hoạt động của Ban đại diện khá phô
trương, hình thức, có tính chất “độc tôn tín ngưỡng”, tranh chấp chùa chiền với một số tôn
giáo khác, làm ảnh hưởng nhất định đến an ninh trật tự và xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân.
Tin Lành
Tin Lành có 3270 tín đồ, 5 chức sắc, 5 cơ sở thờ tự. Tôn giáo này sinh hoạt bình
thường, nhưng từ sau khi Tổng Liên Hội được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, đã
bung ra hoạt động đòi lại tài sản, tập hợp hầu hết thanh thiếu niên vào hội đoàn, thông qua
sự giúp đỡ của thân nhân ở nước ngoài, dùng vật chất lôi kéo hàng trăm người nghèo vào
đạo (có 11 người Khmer, 18 người là Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài).


Hồi giáo
Hồi giáo có khoảng 14.274 tín đồ người Chăm, 11 chùa lớn, 15 chùa nhỏ, 131
chức sắc, 11 thánh đường và 16 tiểu thánh đường. Tín đồ Hồi giáo An Giang chủ yếu là
người lao động, sống tập trung thành xóm tại một số khu vực thuộc các huyện An Phú,
Phú Tân, Tân Châu và Châu Phú. Các sinh hoạt tôn giáo quan trọng của Đạo Hồi như:
tháng ăn chay Ramadan, Kỷ niệm ngày sinh Giáo chủ Mohammad,... Hồi giáo đã được
Nhà nước quan tâm tạo điều kiện xây dựng lại cơ sở thờ tự, đảm bảo sinh hoạt tôn giáo
bình thường; chính quyền các cấp còn giúp đỡ họ tổ chức sinh hoạt tôn giáo gắn với sinh
hoạt văn hoá mang đặc trưng dân tộc Chăm của địa phương. Vài năm gần đây, Nhà nước
giúp vốn và dạy nghề, giúp họ phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống, tạo điều kiện để
người có nhu cầu hành hương về Thánh địa Mecca...ý thức gắn bó với Tổ quốc của phần
lớn tín đồ tôn giáo này ngày càng cao.

Tín đồ Hồi giáo có thân nhân nước ngoài khá đông và thường xuyên quan hệ qua
lại. Họ luôn bị nhiều thế lực Hồi giáo cực đoan lôi kéo, tuy có bị ảnh hưởng nhất định
nhưng chưa thấy có vấn đề chính trị phức tạp.
Cao Đài
Cao Đài có 80.424 tín đồ, đa số là tín đồ Cao Đài Tây Ninh, 17 lễ sanh, 126 chánh,
phó trị sự và thông sự; 30 thánh thất, 4 điện thờ Phật mẫu và 6 chùa. ở An Giang có 5 hệ
phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Chiếu
Minh, Thiên Khai Huỳnh Đạo. Tín đồ đạo Cao Đài chủ yếu là nông dân, chấp hành đúng
pháp luật, chính sách của Nhà nước. Song 40 năm qua, có hàng trăm tên chức việc và Cao
Đài Tây Ninh (theo Hộ pháp Phạm Công Tắc) luôn chống lại Hội Thánh, nay cấu kết với
Lê Quang Tấn hoạt động trái phép, làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
Tứ Â n Hiếu Nghĩa
Tứ Ân Hiếu Nghĩa có hơn 41.297 tín đồ, 25 trưởng gánh, 119 cư sĩ, 28 cơ sở thờ tự
(chùa). Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu hành theo sự hướng dẫn của trưởng gánh và cư sĩ trong
gánh; không có tổ chức hành chính trong Giáo hội.
Tín đồ của đạo Tứ Ân HIếu Nghĩa, hầu hết là nhân dân lao động, có truyền thống
yêu nước và cách mạng, nên hoạt động tôn giáo của họ luôn gắn với dân tộc, tuân thủ chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Họ tham gia tích cực các phong trào


xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở địa phương. Nhưng do hình thức sinh hoạt
tôn giáo theo từng gánh tập thể riêng rẽ, nên trong nội bộ đạo, giữa gánh này với gánh
khác đôi lúc có xảy ra mâu thuẫn, mất đoàn kết, tạo nên sơ hở để bọn xấu lợi dụng.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có hơn 10.596 tín đồ, 08 cơ sở thờ tự. Tín đồ Bửu Sơn
Kỳ Hương tu tại gia, gắn với nền nếp thờ cúng ông bà theo truyền thống của dân tộc Việt,
chỉ riêng những ngày lễ quan trọng như lễ Kỷ niệm Phật thầy Đoàn Minh Huyên thì họ
mới tập trung đến chùa làm lễ. Chùa do chủ tự trông coi, thắp hương hằng ngày. Hiện
Bửu Sơn Kỳ Hương không có người đứng đầu và không có tổ chức giáo hội. Do đó, hoạt
động của tôn giáo này suốt từ khi thành lập đến nay tương đối trật tự.

Cả hai đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương gắn liền với phong trào yêu
nước chống thực dân Pháp của nông dân Tây Nam Bộ, theo Đảng làm cách mạng, ngày
nay cả hai đạo này vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp đó.
ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng đến các lĩnh vực kinh tế văn hoá, xã hội,
đạo đức, lối sống của người dân có đạo ở An Giang.
Tôn giáo đối với người dân miền Tây Nam bộ nói chung, đối với một bộ phận
người dân An Giang nói riêng là nhu cầu không thể thiếu, nó dường như là cứu cánh trợ
giúp cho họ thoát khỏi những rủi ro trong cuộc sống hàng ngày.
Những nét đặc thù về đời sống tâm linh của đồng bào có đạo đã tạo nên nét văn
hoá riêng biệt, độc đáo của người dân An Giang. Nơi đây có sự hoà quyện giữa bản sắc
văn hóa dân tộc với tín ngưỡng tôn giáo, đó là tính nhân văn và tính cộng đồng của các
tôn giáo rất gần gũi với văn hoá, nếp sống của các dân tộc ở An Giang. Tôn giáo mà họ
lựa chọn có nhiều điểm phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán của mình như: ở người
Kinh, người Hoa theo thiên Chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo Đại Thừa, người Khmer theo
Phật giáo Tiêu Thừa, người Chăm theo Hồi giáo. Tôn giáo và nơi thờ tự ở đây chiếm một
vị trí đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống cộng đồng người dân
có đạo từ tâm lý, phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống. Nơi thờ tự của các tôn giáo
không chỉ là nơi tu hành, thờ phụng, nơi tụ hội của các tín ngưỡng tôn giáo mà còn là nơi
duy trì các phong tục tập quán văn hoá truyền thống của các dân tộc. Đặc biệt đối với dân
tộc Khmer và dân tộc Chăm, ngôi chùa và thánh đường còn là nơi giáo dục thanh thiếu


niên, là nơi dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người, là trung tâm giáo dục của cư dân trong
vùng. Ngoài ra, các cơ sở thờ tự còn là những công trình kiến trúc, là nơi bảo tồn, lưu giữ
các giá trị văn hóa nghệ thuật. Nó không những là nơi tổ chức các các lễ hội truyền thống
của các dân tộc mà còn là nơi lưu giữ kinh sách, bảo quản và lưu giữ các hiện vật cổ của
cha ông.
Nhìn chung, giáo lý, giáo luật và sinh hoạt của các tôn giáo đều có điểm chung,
tích cực là khuyên răn con người sống nhân nghĩa, đùm bọc lẫn nhau…Như vậy, đạo đức
tôn giáo có vai trò quan trọng vào việc điều chỉnh hành vi của người dân có đạo; nhờ đó

góp phần tạo nên một môi trường xã hội lành mạnh, một đời sống tinh thần ấm áp cho
người dân.
Bên cạnh đó, do quá nặng nề về lễ nghi tôn giáo, nên tín đồ các tôn giáo thường có
ít thời gian, công sức dành cho phát sản xuất và các hoạt động văn hoá, xã hội nên đời
sống chậm phát triển. ở An Giang Sự phụ thuộc quá lớn về giáo lý, giáo luật của một số
tôn giáo như Phật giáo Tiểu thừa Nam Tông của dân tộc Khmer và Hồi giáo của dân tộc
Chăm đã làm chậm quá trình phát triển của cộng đồng dân cư. Đây là một trong những
nguyên nhân đã làm cho cộng đồng người Khmer và người Chăm bị tụt hậu hơn so vơi
cộng đồng dân cư khác trong Tỉnh về mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Bên cạnh đó, do ảnh
hưởng của kinh tế thị trường, các giá trị chuẩn mực đang ít nhiều bị đảo lộn và tác động
đến đời sống nhân dân trong Tỉnh nói chung và đời sống người dân có đạo nói riêng. Đời
sống của người dân trong Tỉnh đã bộc lộ nhiều điều đáng lo ngại: Đó là sự phục hồi
những phong tục tập quán cũ có cả lạc hậu và mê tín, thể hiện trong lễ hội định kỳ của các
tôn giáo. Hơn nữa có những biểu hiện của sự xa rời những giá trị văn hóa truyền thống,
thay vào đó là tệ sùng bái nước ngoài, lối sống thực dụng, xem hưởng thụ vật chất là tối
thượng dẫn đến các tệ nạn xã hội. Ngoài ra nhiều phong tục tập quán của dân tộc, tôn giáo
đã và đang trở thành gánh nặng cho đồng bào trong khi đời sống của họ rất khó khăn
nghèo túng. Mặt khác họ bị các thế lực xấu lợi dụng nên một số gia đình đã từ bỏ tôn giáo
nhiều đời của gia đình dòng họ mình để đi theo tôn giáo mới. Những quan niệm lạc hậu
trọng nam khinh nữ (phụ nữ chỉ lo việc bếp núc, chăm lo gia đình, không cần học chữ,..),
hay chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại trong cộng đồng dân tộc.


Trong thời kỳ đổi mới, đời sống của nhân dân ngày càng phát triển. Song song với
đời sống vật chất được nâng cao, đời sống tinh thần, trong đó có hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân cũng được nâng cao theo. Các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống
đang từng bước được duy trì và phát triển thông qua phong trào quần chúng hướng về cội
nguồn, đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp
đỡ nhau trong lao động sản xuất, sống bao dung trọng nghĩa trọng tình. Nhiều gia đình
dân tộc thiểu số và người dân có đạo đã đã biết tính toán làm ăn có hiệu quả, phụ nữ có

đạo ngoài chăm sóc gia đình còn tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, thanh niên có
đạo và dân tộc ngày càng chịu khó học tập, tích cực tham gia các hoạt động phong trào
quần chúng, đoàn thể.
Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo cũng như dân tộc đã tạo
điều kiện cho các hoạt động tôn giáo phát triển, nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa, nâng cấp
và xây mới. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phát triển có sự lãnh đạo của Đảng bộ và
quản lý của chính quyền địa phương nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu của đông đảo nhân
dân có đạo.
1.2. đường lối Chính sách của Đảng về tôn giáo và sự lãnh đạo thực hiện của
đảng bộ tỉnh an giang thời kỳ trước 1990
1.2.1. Công tác tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, hiện đang tồn tại nhiều cách hiểu khác
nhau. Bàn về nguồn gốc xã hội và bản chất của nó Mác và Ăngghen viết “Sự nghèo nàn
của tôn giáo là sự biểu hiện của nghèo nàn hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống
lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái
tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là điều kiện tinh thần của điều
kiện xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (1). Kế thừa tư
tưởng của Mác và Ăngghen, khi định nghĩa về tôn giáo, Lênin viết: “Tôn giáo là một
trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ nơi đâu cũng đè nặng lên
quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải
chịu cảnh khốn cùng và cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh

1

luận cương về Feuerbach số 467 trong Mác-Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1980, tr256.


chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia,
cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ

ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”(1). Như vậy, tôn giáo là sản
phẩm của lịch sử, do con người sáng tạo ra, rồi bị tôn giáo chi phối trở lại. “Con người
sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”(2)(C.Mác và Ăngghen
toàn tập Nxb CTQG HN 1995 t1 tr 569)
Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử văn hoá
nhân loại, Hồ Chí Minh cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng có tính lịch sử, xã hội và văn
hóa, tham gia vào quá trình sáng tạo văn hoá nhân loại. Trong Nhật ký trong tù ở mục
Đọc sách, Người viết: “ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
hoc, tôn giáo, văn học, nghệ thật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát sinh đó tức là văn hóa”(Hồ Chí
Minh ttNxb CTQG, HN 1995 t3 tr 431)
Như vậy, tôn giáo là một thực thể xã hội, luôn gắn liền với đời sống kinh tế, xã hội,
văn hoá của một nước, là nhu cầu tinh thần của đại bộ phận nhân dân. Theo Các Mác:
“ngay trong một nước mà giải phóng chính trị đã hoàn thành, tôn giáo không những vẫn
tồn tại mà còn biểu hiện sức sống và sức mạnh, thì điều đó chứng tỏ rằng tồn tại của tôn
giáo không mâu thuẫn với tính chất hoàn thiện của nhà nước”(2). Tôn giáo do con người
sáng tạo ra và tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. Để đáp ứng nhu cầu tôn
giáo, bất cứ một nhà nước nào, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhằm tổ chức mối quan
hệ giữa cái trần tục và cái siêu nhiên, phục vụ cho yêu cầu của chế độ, cũng phải định ra
một thái độ ứng xử đối với tôn giáo. Đó là chính sách tôn giáo.
Nhà nước phong kiến, cả phương Đông và phương Tây, thường dựa vào một tổ
chức tôn giáo để điều hành đất nước. Hơn thế ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, chủ
nghĩa thực dân cũng thường sử dụng tôn giáo làm công cụ để xâm lược và thống trị. Các
dân tộc này bị ép buộc vứt bỏ tôn giáo của cha ông, cưỡng bức theo một tôn giáo của kẻ

1

V.I.Lê nin toàn tập, tập 12, Nxb tiến bộ Maxcơva, 1979, tr169.
(C.Mác và Ăngghen toàn tập Nxb NXBCTQG HN 1995 t1 tr 569

2
c.mác và Ăngghen toàn tập: Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
532-533
2 )

tập 1 tr


xâm lược, hay bị kẻ xâm lược dùng chính sách chia để trị trong lĩnh vực tôn giáo. Do đó
người dân ở đây không được thừa nhận các quyền tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa những người cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội không có
áp bức giai cấp, không còn người bóc lột người, một “ thiên đường trên thế gian". Tuy
nhiên với chức năng của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể và cần phải thực hiện
việc quản lý đối với các hoạt động tôn giáo cũng như phản đối bất kỳ sự can thiệp nào của
các tổ chức tôn giáo vào việc lãnh đạo nhà nước, cũng như biến tôn giáo thành một công
cụ của giai cấp thống trị. Những người cộng sản cho rằng, đối với nhà nước phải thừa
nhận tự do tôn giáo và không tôn giáo, nhà thờ tách khỏi nhà trường và nhà nước, tôn
giáo là công việc riêng tư. Nhưng với đảng của giai cấp công nhân, "không thể và không
được thờ ơ trước tình trạng thiếu giác ngộ, dốt nát hoặc mê muội mà biểu hiện là những
tín ngưỡng tôn giáo"… Đối với chúng ta, đấu tranh tư tưởng không phải là một việc tự
nhiên mà là một việc của toàn Đảng, của toàn thể giai cấp vô sản" (Lênin toàn tập,t12,
tr172,173…). Trong bài chủ nghĩa xã hội và tôn giáo V.I.Lênin đã nêu khá rõ điều đó.
Người cũng không hề có sự phân biệt giữa người có đạo với người không có đạo, chủ
trương sẵn sàng kết nạp những người có đạo vào Đảng Dân chủ Xã hội để toàn dân đấu
tranh cho mục đích xã hội chủ nghĩa: “Chúng ta không những phải sẵn sàng kết nạp, mà
còn cố gắng thu hút vào trong Đảng Dân chủ Xã hội tất cả những công nhân nào còn tin ở
thượng đế” (1). “Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc phạm nhỏ nào đến những
tín ngưỡng tôn giáo của họ”(2) Tuy nhiên V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, đối với các đảng
viên có đạo, họ vẫn phải có trách nhiệm trước Đảng là tuyên truyền Chủ nghĩa MácLênin, bản thân thực hiện và vận động quần chúng cùng thực hiện Nghị quyết của Đảng.
Như vậy công tác tôn giáo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của các

Đảng cộng sản. Thực chất đây là công tác dân vận của Đảng. ở nước ta công tác tôn giáo là
việc tuyên truyền vận động bà con tín đồ, chức sắc hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, đường
lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tuân thủ pháp luật, đoàn kết tôn giáo, bảo đảm
tôn giáo đồng hành gắn bó với dân tộc, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đảm
bảo giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
1
2

V.I.Lênin: sdd, 1979, tập 12, tr.169-175
V.I.Lênin: sdd, 1979, tập 12, tr.169-175


Thông qua công tác tôn giáo, Đảng và Nhà nước có điều kiện thường xuyên chăm lo
đời sống vật chất và văn hoá tinh thần, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào là tín đồ các
tôn giáo. Thực hiện tự do tín ngưỡng, tích cực vận động đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới, sống “tốt đời đẹp đạo”, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững
ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng.
Thông qua công tác tôn giáo, Nhà nước có điều kiện tăng cường công tác quản lý, tạo
điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật; mọi tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tích cực đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng cuộc sống mới ở cơ sở, các khu dân cư. Hơn nữa các cấp chính quyền tạo điều kiện
tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ tín đồ và chức sắc tôn giáo nâng cao tinh thần
cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Qua thực tiễn của công tác tôn giáo, cần xây dựng, củng cố tổ chức đảng và hệ thống
chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh trên các địa bàn của đồng bào có đạo. Cán bộ, đảng
viên nói chung và đảng viên theo tôn giáo nói riêng cần phải gương mẫu thực hiện và vận động
các tín đồ tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
cần kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo ở các ngành, các cấp, có quy hoach, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công tác này. Mặt trận và các đoàn thể tăng cường công tác vận

động tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoà nhập cùng cộng đồng trong công cuộc đổi mới; thực
hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”..., hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước ở từng
cơ sở, địa phương và cả nước.
1.2.2. Đường lối, chính sách của Đảng về tôn giáo và sự lãnh đạo thực hiện của
Đảng bộ thời kỳ trước 1990
Thục dân Pháp khi xâm chiếm nước ta đã dùng làm chính sách chia để trị, phân
biệt bộ phận Kitô giáo và không Kitô giáo. Nhằm chống lại âm mưu thâm độc của chủ
nghĩa thực dân, từ khi ra đời, Đảng đã lưu ý vấn đề tôn giáo, tuyên bố tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng, đồng thời chống lại việc thực dân Pháp liên kết với các tổ chức tôn
giáo thống trị nhân dân ta. Trong một số tác phẩm - Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
vạch trần âm mưu của chủ nghĩa thực dân Pháp câu kết với Giáo hội Công giáo trong quá


trình xâm lược và áp bức, bóc lột của nhân dân Việt Nam. Chương trình Việt Minh do
Mặt Trận Việt Minh ban hành năm 1941 đã thể hiện rõ: “...2.Ban bố các quyền tự do dân
chủ cho nhân dân: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do
đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức do đế quốc
đặt ra”(1). Trong bài thơ Mười chính sách của Việt Minh, Hồ Chí Minh đã viết:
“...Hội hè, tín ngưỡng, báo chương,
Họp hành, đi lại, có quyền tự do”(2)
Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức được một
cách đầy đủ và sâu sắc ý nghĩa của khối đại đoàn kết toàn dân đối với công cuộc bảo vệ
và xây dựng đất nước. Nên chỉ một ngày sau khi tuyên bố Độc lập, ngày 3 tháng 9 năm
1945, trong phiên họp của Chính phủ, Người đề ra Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền của tất cả mọi người: “Vấn đề thứ
ba..Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân
biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống” (1). Nhận thấy tầm quan trọng của khối đoàn kết tôn
giáo, trong sáu vấn đề, Người đặt hẳn “Vấn đề thứ sáu...Thực dân và phong kiến thi hành
chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính

phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.(2) Tinh thần đó được ghi
nhận trong Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946: “Nhân dân ta có
quyền tự do tín ngưỡng” và trong Chính cương của Mặt trận Liên Việt, ở điều 7, điểm 1:
“Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi người”. Điều này sau được
ghi trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam: “Điều 8: Tôn trọng và bảo vệ
quyền tự do tín ngưỡng của công dân”. Tinh thần đó được thể hiện trong Tám điều mệnh
lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Điều 4: Bảo vệ đền, chùa, nhà thờ,
trường học, nhà thương và các cơ quan văn hoá xã hội khác.Chính quyền, quân đội và
toàn thể phải tôn trọng tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào”.
Chính quyền cách mạng non trẻ đã khẳng định một nguyên tắc bất di bất dịch là
đoàn kết, bình đẳng và tự do tín ngưỡng, bảo vệ các cơ sở thờ tự, nơi đất thiêng của các
1
2
1
2

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,tập 3 tr.8
Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,tập 3 tr.205
Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4 tr 8
Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4 tr 9


tôn giáo; đồng thời chống lại âm mưu của các kẻ thù dân tộc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo.
Nguyên tắc đó đã được thể hiện ngày càng đầy đủ, cụ thể trong các văn kiện của Đảng,
Nhà nước và được thực hiện nhất quán trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, chống đế quốc Mỹ. Sau ngày hoà bình lập lại (1955), Sắc lệnh về vấn đề tôn giáo
ngày 14-6-1955 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Điều 1 khẳng định:
“Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai
được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn
giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Sắc lệnh này cũng nêu rõ sự tôn trọng các hoạt

động tôn giáo, đồng thời yêu cầu “Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ
giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng
chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”(1). Trong hoàn
cảnh kẻ thù luôn lợi dụng các tổ chức tôn giáo chống phá kháng chiến, phá hoại hòa bình
thống nhất, độc lập, dân chủ, Điều 7 ghi rõ: “ Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn
danh nghĩa tôn giáo để phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm
phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác, hoặc làm những việc khác trái
pháp luật”. Tinh thần của Sắc lệnh đó được toàn Đảng, toàn dân quán triệt, đã thực hiện
có kết quả trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước; nhờ đó đã tạo ra sự đoàn
kết, nhất trí giữa những người không tín ngưỡng tôn giáo và những người thuộc các tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau vì mục tiêu giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Sau Đại hội, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 09/CT.TƯ
hướng dẫn triển khai đồng bộ các mặt công tác, giúp các tôn giáo ở miền Nam xây dựng
lại tổ chức, chấn chỉnh hoạt động, vận động tín đồ tuân thủ pháp luật, chuẩn bị cho việc
thống nhất các tổ chức tôn giáo trong cả nước. Từ đấy các tổ chức tôn giáo chung trong
phạm vi cả nước ra đời như: Hội đồng Giám Mục Công giáo (ra đời năm 1980), Giáo hội
Phật giáo (năm 1981), Uỷ Ban Đoàn kết Công giáo (năm 1983). Trong thời gian này, các
Giáo hội Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hoà Hảo ở miền Nam đã được cải tạo một bước.
Phát huy hiệu lực của Nhà nước thống nhất, năm 1977, Hôi đồng Chính phủ ban
hành Nghị quyết 297-CP về một số chính sách đối với tôn giáo. Từ đây các tôn giáo hai
1

Báo Nhân Dân số ra ngày 4-7-1955


miền Nam Bắc đều được quản lý thống nhất theo một văn bản pháp lý chung cho cả nước.
Nghị quyết 297-CP (nay gọi là Nghị định) là khung pháp lý duy nhất để điều chính các
hoạt động tôn giáo trong suốt 14 năm liên tục (1977 – 1991). Năm nguyên tắc trong Nhị
quyết đã trở thành 5 nguyên tắc cơ bản trong chính sách tôn giáo thời kỳ này.

Đầu những năm 1980, do tình hình chính trị quốc tế phức tạp, chúng ta đã
rập khuôn máy móc, giáo điều cả về lý luận và hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực
tôn giáo. Năm 1981, Ban Bí thư (khoá V) ban hành Nghị quyết 40/NQ.TƯ. Đây là một
nghị quyết quan trọng, đề cập khá toàn diện và đầy đủ các vấn đề tôn giáo, có vị trí quan
trọng trong chặng đường đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước theo mô
hình chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ. Nghị quyết 40/NQ.TƯ tuy có ưu điểm là đã đi sâu vào
các mặt công tác tôn giáo, có nhiều chủ trương cụ thể, nhưng lại đưa ra yêu cầu quá cao,
có thể nói là không tưởng “làm cho tôn giáo tuy tồn tại lâu dài nhưng chỉ là tôn giáo của
những người cao tuổi và mất dần rồi mất hẳn”(NQ40). Thời kỳ này ta phải đương đầu với
cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực đế quốc và phản động. Trên thế giới,
Công đoàn đoàn kết ra đời, chống phá quyết liệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Ba Lan, dẫn
đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước này.
Năm 1984, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 48/CT.TƯ về tăng cường công tác
đạo Thiên Chúa ở miền Nam và chủ trương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 40/NQTƯ.
Năm 1986, Đại hội VI mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại hội cũng gợi ra
cách tiếp cận mới về công tác tôn giáo: “Trong việc phát huy yếu tố con người và lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, cần có kế hoạch chủ động
xây dựng cơ cấu giai cấp cho xã hội mới, cụ thể hoá và thực hiện đúng chính sách dân tộc
và chính sách tự do tín ngưỡng”(ĐH VI).
Những nhận thức lý luận về tôn giáo và đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo là cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương
trong cả nước tổ chức thực hiện. Đối với An Giang, sau khi xâm lược miền Nam, con bài
đầu tiên Mỹ sử dụng là tôn giáo. Lợi dụng tình hình phức tạp về chính trị, tôn giáo, dân
tộc trong chiến tranh, Mỹ – ngụy đã dựng lên 3 giáo hội Phật giáo Hòa Hảo phản động
(có đảng chính trị – Dân Xã Đảng và lực lượng vũ trang hơn 30 ngàn tên làm nồng cốt) để


lừa mị dân và kìm kẹp tín đồ, chống phá cách mạng. Chúng lợi dụng lực lượng 3K -khăn
trắng- sử dụng vùng Bảy Núi làm địa bàn hoạt động chống phá cách mạng.
Sau ngày 30.4.1975, hơn 24 ngàn tàn quân ngụy và Hoà Hảo tụ tập về trụ sở Trung

ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo và Tổng Đoàn Bảo An Phật giáo Hòa Hảo tại An
Giang để “tử thủ”. Ta tấn công quyết liệt đến ngày 06.5.1975 buộc được chúng ra hàng
mới giải phóng các cứ điểm này. Bọn phản động cầm đầu các giáo hội Phật giáo Hòa
Hảo, và tín đồ co lại chờ thời.
Những năm đầu giải phóng, lợi dụng chính quyền của ta chưa được cũng cố các
thế lực phản động đã ngóc đầu dậy hoạt động.Trong thời kỳ này ta phá vỡ hơn 200 vụ án
phản cách mạng có liên quan đến tôn giáo, trong đó liên quan đến Phật giáo Hòa Hảo 186
vụ, một số vụ liên quan đến Thiên Chúa giáo, Cao Đài Tây Ninh.
Thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình của đế quốc Mỹ, núp dưới chiêu bài “tự do
tôn giáo”, một số chức việc trong giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cũ câu kết với các thế lực
thù địch ngoài nước âm mưu khôi phục lại giáo hội và Đảng Dân Xã để chống phá ta. Nổi
lên là nhóm của Lê Quang Liêm, Trần Hữu Duyên. Các nhóm chống đối khác như nhóm
của Thích Quảng Độ (Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cũ), Lê Quang Tấn (Cao Đài Tây
Ninh) cũng tìm cách xâm nhập vào An Giang. Một số Việt kiều theo đạo Tin Lành ở Mỹ
cũng liên kết với phần tử phản động Khmer Crôm ở Campuchia, bí mật tuyển lựa người
từ nội địa sang để huấn luyện, sau đó cài cắm lại nội địa. Các hoạt động chống phá nói
trên có chiều hướng gia tăng, phức tạp và gây nhiều khó khăn cho ta, ảnh hưởng đến tốc
độ phát triển kinh tế, gây mất trật tự xã hội và an ninh chung.
Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, đời sống dần ổn định trở lại, tiếp
đó là những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội đã khiến trong nhận thức và trong đời
sống tôn giáo của nhân dân có nhiều chuyển biến sâu sắc. Người dân phải lo toan những
nhu cầu đời thường, bình dị, nhưng thân thương, trong đó có nhu cầu tôn giáo.
Sau khi giải phóng miền Nam, Đảng ta đã có một thời gian dài bỏ ngõ mặt trận tôn
giáo. Do chưa nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của tôn giáo trong đời sống nhân dân,
cũng như tầm quan trọng của công tác tôn giáo, nên chưa có những chủ trương, chính
sách phù hợp. Điều này tuy không đi ngược lại nguyện vọng tha thiết của quần chúng
nhân dân có đạo, và không sai lệch tư tưởng về tôn giáo và tự do tôn giáo của Hồ Chủ


tịch, nhưng có phần tả khuynh nóng vội. Trong Nghị Quyết 40 của Ban Bí thư về công tác

đối với các tôn giáo trong tình hình mới năm 1981 nhấn mạnh “ Tôn giáo phát sinh và tồn
tại là do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai và áp bức xã
hội. Khi cuộc sống còn chưa tốt đẹp, trình độ văn hoá còn thấp kém và chưa có một thế
giới quan khoa học, thì con người còn tin ở sức huyền bí nào đó, còn tin ở các tôn giáo”.
Bên cạnh đó “nhiều cán bộ, đảng viên đã mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, coi nhẹ công
tác quần chúng, trong đó có công tác vận động, tổ chức và xây dựng cơ sở chính trị cốt
cán trong cộng đồng các tôn giáo. Nhận thức, quan điểm về công tác tôn giáo của một số
cán bộ đảng viên có những lệch lạc. Việc tổ chức thực hiện công tác tôn giáo chưa phát
huy được sức mạnh tổng hợp; bộ máy làm công tác tôn giáo quá yếu; chậm có quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tôn giáo” (Nghị quyết 24.NQ.TƯ16.10.1990). Những
yếu kém trong công tác tôn giáo trên khiến các thế lực thù địch ra sức khai thác để chống
phá ta. Chúng vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vu cáo ta vi phạm nhân quyền,
Trong giai đoạn này Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo
cũng gặp nhiều khó khăn phức tạp, nhất là với đạo Phật giáo Hoà Hảo và đạo Cao Đài.
Năm 1989 các tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo đề nghị Nhà nước ta chấp thuận 3 vấn đề
sau:
1. Công nhận đạo Phật giáo Hòa Hảo được tồn tại trong xã hội.
2. Được tổ chức lễ ngày thành lập đạo 18.5 âm lịch một cách công khai.
3. Cho phép đọc sấm giảng Hòa Hảo trong tín đồ.
Khi được Nhà nước chấp thuận, một số phần tử phản động núp dưới chiêu bài giữ
đạo, lợi dung các cuộc tụ tập tín đồ hợp pháp như: Lập đoàn tín đồ đi viếng núi, chùa, dự
lễ giỗ Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Trần Văn Thành hoặc tung tin Nhà nước cho phép tổ
chức lễ 18.5 âm lịch sớm hơn mọi năm, để tập hợp tín đồ tuyên truyền sấm giảng, thuyết
pháp đạo. Nhiều băng cassette về sấm giảng, thuyết pháp đạo rộ lên và được phổ biến
khắp các huyện thị. Đồng thời trong tín đồ Phật giáo Hòa Hảo cũng lan truyền nhiều tin
đồn mê tín dị đoan, chiến tranh tâm lý như: năm Kỷ Tỵ sẽ tối trời tối đất, hoặc Việt Nam
rút quân khỏi Campuchia, chiến tranh sẽ xảy ra ác liệt hơn 1979,...nhằm gieo rắc tư tưởng
hoài nghi đối với chế độ và tâm lý không an tâm sản xuất trong quần chúng. Bọn phản
động, bọn xấu trong Phật giáo Hòa Hảo lợi dụng các chùa chiền, đình miếu có tổ chức lễ



×