Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.8 KB, 112 trang )

LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị
của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Danh ngôn Trung Quốc có câu: "Phụ nữ đỡ nửa bầu trời". Sự đúc kết đó đã nói
lên vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu của người phụ nữ trong xã hội. Lẽ tất yếu,
vai trò xã hội đòi hỏi vị trí xã hội tương ứng. Tuy nhiên, hàng ngàn năm nay, ở khắp nơi
trên thế giới, phụ nữ vẫn phải chịu những thiệt thòi về mặt vị trí xã hội so với nam giới.
Điều đó đặc biệt thể hiện ở sự bất bình đẳng với phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền
chính trị.
Cuộc đấu tranh cho vị thế bình đẳng của phụ nữ so với nam giới xuất phát từ
nghịch lý kể trên, bắt đầu từ buổi bình minh của chế độ phụ quyền. Phát triển từ thấp đến
cao, từ tự phát đến tự giác, cho đến ngày nay, đấu tranh cho vị thế bình đẳng của phụ nữ
với nam giới, trong đó đặc biệt là quyền chính trị của phụ nữ, đã không còn là vấn đề
riêng biệt của mỗi quốc gia, mà đã trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại và
được thể chế hóa trong nhiều công ước quốc tế về quyền con người.
ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và 48% lực lượng lao động xã
hội. Phụ nữ nước ta trước đây đã có những đóng góp hết sức to lớn vào công cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm giành và giữ gìn độc lập, xây dựng Tổ quốc. Trong sự nghiệp Đổi
mới hiện nay, phụ nữ Việt Nam vẫn luôn sát cánh cùng nam giới phấn đấu vì mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và có những đóng góp
đáng kể trong các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định xã hội cũng
như những cống hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây dựng gia đình, nuôi dưỡng các thế
hệ công dân tương lai của đất nước. Không những vậy, nhiều phụ nữ còn mang lại những
vinh quang lớn cho đất nước trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật,
thể thao.


Nhận thức rõ vị trí và vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội nên ngay
từ khi nước nhà mới giành được độc lập, các quyền của công dân nói chung và quyền của
phụ nữ nói riêng đã được pháp luật Việt Nam ghi nhận và khẳng định, trong đó có các


quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ... Điều đó đã tạo điều kiện căn bản cho phụ nữ
tham gia tích cực và hiệu quả vào các hoạt động kinh tế, xã hội và đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước tiếp tục
quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả
hơn vào lĩnh vực chính trị; nhờ vậy, phụ nữ Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội và
nhiều đại diện tham gia vào hệ thống chính trị, cũng như vào việc đề xuất, hoạch định,
thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xét chung trên
toàn thế giới và khu vực, Việt Nam là quốc gia được đánh giá cao về mức độ bảo đảm
quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ, thể hiện ở tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội ở
mức tương đối cao.
Mặc dù vậy, trên thực tế ở Việt Nam, quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ
vẫn chưa được bảo đảm một cách tương xứng so với vai trò và khả năng của phụ nữ
trong xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ vẫn còn khoảng cách lớn giữa tỷ lệ đại biểu nữ và
nam trong các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và số lượng hạn
chế phụ nữ nắm giữ các vị trí then chốt có quyền ra quyết định trong các cơ quan của hệ
thống chính trị (xem phụ lục 1 đến phụ lục 7). Đơn cử, mặc dù ở mức cao trên thế giới,
song tỷ lệ đại biểu Quốc hội nữ khóa XI mới chỉ đạt 27,3%, tỷ lệ đại biểu nữ ở Hội đồng
nhân dân cấp xã nhiệm kỳ (2004-2007) là 20,1% [17, tr. 3-5]. Rõ ràng, tỷ lệ đại biểu nữ
hiện nay chưa thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu là đại diện giới mình trong việc xây dựng và
hoạch định chính sách, pháp luật liên quan đến việc giải quyết các quyền lợi chính đáng
cho phụ nữ.
Thực tế kể trên đặt ra nhu cầu cấp thiết phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp tiếp
tục thúc đẩy việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị, qua đó
giúp phụ nữ tham gia và đóng góp ngày càng hiệu quả hơn vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển của đất nước, cũng như bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế có liên quan của

Nhà nước ta, mà một trong những hướng tiếp cận cơ bản là hoàn thiện hệ thống các quy
định pháp luật trên lĩnh vực này. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu xoay
quanh vấn đề quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam, tiếp cận từ nhiều khía cạnh như
quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia vào quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội của
phụ nữ... Tiêu biểu trong đó có thể kể như:"Quyền bầu cử và ứng cử của công dân trong
chế độ ta" của Đàm Văn Hiếu (Tạp chí Luật học, số 3, 1975; "Công ước về việc loại bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ" của TS. Ngô Bá Thành (Tạp chí Luật học,
số 2, 1982); "Phụ nữ: những ưu ái và thiệt thòi- nhìn từ góc độ xã hội, pháp lý" của TS.
Hoàng Thị Kim Quế (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9, 2003); "Về một số vấn đề công
tác cán bộ nữ trong tình hình mới (Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37-CT/TƯ
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII)" của Hà Thị Khiết (Tạp chí Khoa học về phụ
nữ, số 3, 2004); "Quyền chính trị của phụ nữ trong Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật Việt Nam" của TS. Nguyễn Văn Mạnh;
"Công ước của Liên hợp quốc và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ
nữ" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Riêng cuốn sách: "Vai trò của
nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của TS. Võ
Thị Mai đề cập kỹ hơn, sâu hơn về một phần nội dung của đề tài đó là phụ nữ tham gia
vào quản lý nhà nước.
Tuy các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số nội dung liên
quan đến đề tài luận văn, nhưng đều chưa nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận
cũng như các quy phạm pháp luật và những giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ. Đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" là công trình khoa học độc lập, không trùng lắp với các
công trình nêu trên, nghiên cứu có hệ thống cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật

và thực hiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ và đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu
những nội dung của đề tài, tác giả có kế thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu ở các công
trình khoa học nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn


- Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của nước ta và
các chuẩn mực quốc tế có liên quan mà Nhà nước ta đã cam kết thực hiện.
- Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
(1) Phân tích khái quát cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ để làm tiền đề đánh giá và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về quyền chính trị của phụ nữ.
(2)Tập hợp và phân tích hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành liên quan
đến việc bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam;
(3) Trên cơ sở những nhiệm vụ (1) và (2), chỉ ra những thành tựu và hạn chế của
pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam và đề xuất các
phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng như xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam là một vấn đề có
phạm vi rộng, không chỉ liên quan đến pháp luật, mà còn gắn liền với nhiều lĩnh vực khác
như kinh tế, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác
giả chỉ đi sâu nghiên cứu về hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến việc bảo đảm
các quyền chính trị cơ bản của phụ nữ ở Việt Nam, trong đó tập trung vào các quyền bầu
cử và ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền tham gia quản lý nhà
nước, xã hội và quyền tham gia các tổ chức chính trị - xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng về
nhận thức chính trị, về quyền chính trị của phụ nữ trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


- Các phương pháp cụ thể mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài bao gồm
phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so sánh, thống kê...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
So sánh với các công trình khoa học khác trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến
vấn đề về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam, luận văn có một số đóng góp mới về
khoa học như sau:
- Về cách tiếp cận: Luận văn lần đầu tiên tiếp cận nghiên cứu về quyền chính trị của
phụ nữ ở Việt Nam thông qua việc gắn các quy định pháp luật có liên quan với vấn đề bình
đẳng giới và quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế.
- Về nội dung: Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các tiêu chuẩn pháp lý có liên
quan và các điều kiện tác động về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam, luận văn
lần đầu tiên khái quát hóa, phân tích và đánh giá một cách có hệ thống các quy phạm
pháp luật hiện hành về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam cũng như việc thực hiện
những quy định này trong thực tế... Luận văn cũng đề xuất các phương hướng và luận
chứng những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở
Việt Nam hiện nay, nhất là sự cần thiết phải ban hành Luật Bình đẳng giới ở Việt Nam,
trong đó có những quy định về sự bình đẳng trong lĩnh vực chính trị của phụ nữ.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả luận văn đạt được, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
về

quyền


chính

trị

của

phụ

nữ



Việt

Nam

trong

thời

gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về
vấn đề liên quan đến quyền chính trị của phụ nữ trong các trường đào tạo cán bộ nói chung
và cán bộ nữ nói riêng của Đảng và Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


Chương 1

Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
về quyền chính trị của phụ nữ

1.1. Cơ sở lý luận về quyền chính trị của phụ nữ và pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ
Ngày nay quyền của phụ nữ tham gia hoạt động chính trị đã được tôn trọng và
thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tham gia của họ vào đời sống chính trị xuất
phát từ giá trị phổ quát của quyền con người. Cũng như nam giới, phụ nữ, với tư cách là
con người, có quyền được hưởng tất cả các quyền mà "tạo hóa đã ban cho họ" và quyền
tham gia đời sống chính trị - xã hội. Nhưng tất cả những quyền đó chỉ thực sự có ý nghĩa
và trở thành hiện thực khi chúng được bảo đảm bằng pháp luật. Nói cách khác, quyền
chính trị của phụ nữ sẽ được hiện thực hóa khi chúng được thể chế hóa trong pháp luật và
bảo đảm cho các quy định của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ được thực hiện
trong thực tế. Như vậy, để nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ trước hết phải nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền chính trị và
pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền chính trị của phụ nữ
1.1.1.1. Khái niệm quyền chính trị và quyền chính trị của phụ nữ
Để làm rõ khái niệm về quyền chính trị của phụ nữ, trước hết cần phải làm rõ các
khái niệm chính trị, quyền chính trị.
Chính trị là một khái niệm vừa phản ánh quy luật phát triển của lịch sử, vừa
mang tính triết học sâu sắc. Xét từ góc độ khoa học lịch sử, chính trị luôn là nội dung bao
hàm trong mọi cuộc đấu tranh giai cấp, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của
nhà nước và xã hội. Cả C.Mác và Ph.ăngghen đều cho rằng lịch sử tất cả các xã hội tồn tại
từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp [21, tr. 596-597]. Do vậy, chính trị
không tách rời khỏi lịch sử phát triển của mọi xã hội và đấu tranh giai cấp. Xét từ góc độ
triết học, chính trị được cho là sự tham gia vào các công việc của Nhà nước, việc quy


định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước. Lĩnh vực chính trị

bao hàm các vấn đề chế độ nhà nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề đấu
tranh đảng phái, v.v... [35, tr. 161]. Nói cách khác, nói đến chính trị là nói đến quyền lực nhà
nước. Từ phân tích trên, xét ở góc độ chung nhất, có thể thấy chính trị thực chất là quan hệ
giữa các giai cấp, trong đó chủ yếu là quan hệ giữa giai cấp cầm quyền với các giai cấp khác
trong xã hội mà nội dung của quan hệ đó là vấn đề chính quyền thuộc về ai, của ai và vì
ai. Xét ở góc độ riêng, chính trị chỉ thực sự có nghĩa khi nó được hiện thực hóa gắn với
chủ thể là con người, là giai cấp cụ thể. Và khi nói đến con người thì không thể không
gắn đến quyền. Quyền ở đây không mang nghĩa là vương quyền hay thần quyền, mà là
quyền vốn có và tự nhiên của mỗi con người, không phải do bất kỳ ai hoặc thế lực nào
ban phát. Sự kết hợp giữa nội dung của chính trị với bản chất của quyền con người chính
là cơ sở dẫn đến sự thừa nhận về quyền chính trị.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền chính trị. Trong giáo trình đại cương phục
vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy của trường Waynesboro ở bang Pennsylvania (Mỹ),
quyền chính trị được định nghĩa một cách đơn giản: là những yêu cầu pháp lý của công dân
được tham gia trong chính quyền và được đối xử công bằng [53]. Giáo trình này cũng chỉ
rõ, quyền chính trị bao gồm quyền được bỏ phiếu, khởi kiện, họp và tham gia cơ quan
nhà nước.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy quyền chính trị trước hết là một quyền pháp lý,
được thừa nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Bên cạnh đó, theo định nghĩa này, quyền chính
trị gắn và chỉ gắn với những cá nhân có tư cách công dân; những người không có quốc
tịch, nhập cư bất hợp pháp, người nước ngoài cư trú và làm việc trên lãnh thổ nước khác,
người tỵ nạn... sẽ không có hoặc chỉ được hưởng một cách hạn chế các quyền chính trị,
đặc biệt là không được hưởng "quyền được bỏ phiếu, khởi kiện, họp và tham gia cơ quan
nhà nước".
Từ điển Luật học Mỹ (Black Law Dictionary) định nghĩa, quyền chính trị: "Là
những quyền có thể được thực hiện trong quá trình thành lập hay quản lý chính quyền.
Các quyền của công dân được xác lập hoặc công nhận bởi Hiến pháp dành cho họ quyền
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc thành lập hoặc trong quản lý chính quyền"



[51, tr. 1159]. Định nghĩa này khẳng định chắc chắn thêm về mặt pháp lý đối với quyền
chính trị, vì trước tiên, nó là "quyền của công dân" và sau đó là, "được xác lập hoặc công
nhận bởi Hiến pháp". Tuy nhiên, phạm vi quyền chính trị ở đây lại tương đối hẹp, vì nó
chỉ bao gồm "quyền tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc thành lập hoặc trong
quản lý chính quyền".
Một định nghĩa khác trong Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa
của Việt Nam ấn hành năm 1999 cho rằng, quyền chính trị là quyền tham gia quản lý nhà
nước của công dân. Đó là quyền quan trọng nhất của công dân, bảo đảm cho công dân thực
hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội được thực hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau như công dân có quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước.
Nhân dân có quyền đóng góp ý kiến vào việc xác định các chính sách để xây dựng và
phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, đối nội, đối ngoại của
đất nước. Nhân dân có quyền tham gia xây dựng pháp luật, tham gia giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, kiến nghị với cơ quan nhà nước biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý [40, tr. 415]. So với hai định nghĩa trên, định
nghĩa này khá sâu sắc và toàn diện, thể hiện được vị trí quan trọng và nội dung cụ thể của
quyền chính trị trong số các quyền con người. Tuy nhiên, nó lại "bỏ quên" một vấn đề có
ý nghĩa then chốt mà có thể bảo đảm cho quyền chính trị được thực hiện trong thực tiễn,
đó là vấn đề quyền chính trị phải được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Bất kỳ quyền
con người nào muốn được thực hiện phải được quy định trong pháp luật và bảo đảm cho
các quy định đó được thực hiện trên thực tế.
Từ những định nghĩa trên đây, có thể rút ra một khái niệm chung về quyền chính
trị như sau:
Quyền chính trị là một trong những quyền quan trọng nhất của công dân, được
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; nó xác lập năng lực pháp lý của công dân trong việc
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Như vậy, khái niệm này cho thấy, thực hiện quyền chính trị là phải bảo đảm được
hai nội dung sau:
Thứ nhất, công dân tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội.



Thứ hai, công dân tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Tăng cường sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của công dân vào quản lý nhà
nước và xã hội chính là tăng cường chế độ dân chủ trong xã hội, bảo đảm sự tham gia
rộng rãi của mọi giới, không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. Trực tiếp tham gia quản
lý nhà nước và xã hội là việc người dân trực tiếp đảm nhận các cương vị trong bộ máy
chính quyền nhà nước, các tổ chức xã hội, đồng thời cũng là người trực tiếp thực hiện các
chính sách và pháp luật của nhà nước. Còn gián tiếp tham gia quản lý nhà nước và xã hội
là việc người dân thông qua các cơ quan đại diện của Nhà nước, tổ chức xã hội để bày tỏ
ý kiến, quan điểm vào việc xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật.
Bảo đảm thực hiện quyền chính trị của công dân qua hai nội dung trên cũng
chính là thực hiện tốt phương thức: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Dân ở
đây bao gồm cả nam và nữ. Vì thế phụ nữ cũng là chủ thể của phương thức trên và cũng
có quyền chính trị.
Vậy quyền chính trị của phụ nữ là gì? Thực tế, theo khái niệm quyền chính trị
nêu trên, đối tượng hưởng thụ quyền là công dân, tức bao gồm tất cả những người có
quốc tịch của một quốc gia, không phân biệt giới tính và tuổi tác, thì nội hàm của quyền
chính trị của phụ nữ cũng chính là nội hàm của khái niệm quyền chính trị nói chung. Tuy
nhiên, xuất phát từ góc độ bình đẳng giới và quyền con người của phụ nữ, có thể rút ra
một khái niệm về quyền chính trị của phụ nữ như sau:
Quyền chính trị của phụ nữ là một trong những quyền con người quan trọng nhất
của phụ nữ, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; nó xác lập năng lực pháp lý bình đẳng
của phụ nữ với nam giới trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm của quyền chính trị của phụ nữ
Xem xét quyền chính trị của phụ nữ trong mối tương quan với các quyền khác
trong hệ thống các quyền con người, cũng như trong sự phát triển chung của mọi xã hội,
có thể rút ra ba đặc điểm của quyền chính trị của phụ nữ như sau:



- Quyền chính trị của phụ nữ là yếu tố xác lập vị thế pháp lý bình đẳng của phụ
nữ với nam giới trong đời sống chính trị - xã hội.
Khi xem xét quyền chính trị của phụ nữ, không thể không nhìn từ góc độ bình
đẳng giới và pháp luật. Việc bảo đảm quyền chính trị là cơ sở để xác lập địa vị pháp lý
bình đẳng của người phụ nữ với nam giới, bởi chỉ thông qua đó, phụ nữ mới được tham
gia vào quá trình ra những quyết định gắn liền với các quyền, lợi ích của họ trên mọi
lĩnh vực, từ đó hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn những phân biệt đối xử về giới mà
họ thường là nạn nhân. Tuy nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình đẳng về thực chất; và
chỉ có bình đẳng về thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền vững địa vị pháp lý bình
đẳng của phụ nữ. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng và pháp luật. Biểu
hiện của bình đẳng về thực chất là phụ nữ thực hiện được quyền chính trị và xác lập
được địa vị pháp lý của mình, được tham gia một cách dân chủ vào mọi hoạt động của
đời sống chính trị và đời sống công cộng. Ngược lại, pháp luật là công cụ để bảo đảm
và bảo vệ quyền tham gia bình đẳng của phụ nữ. Trong mối quan hệ biện chứng này,
phụ nữ vừa là người hưởng thụ quyền, nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp đấu
tranh xóa bỏ định kiến, tham gia xây dựng pháp luật về quyền bình đẳng của mình.
Trong khi quyền chính trị của nam giới hầu như mặc nhiên được thừa nhận thì quyền
chính trị của phụ nữ phải trải qua quá trình đấu tranh mới được ghi nhận trong pháp
luật, được thực hiện trong thực tế. Xác lập và thực hiện được quyền chính trị của phụ
nữ là yếu tố quyết định để xác lập và bảo đảm thực hiện sự bình đẳng nam nữ.
- Quyền chính trị của phụ nữ là hình thức pháp lý thể hiện bản chất dân chủ,
bình đẳng của xã hội.
Bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ được thực thi trên cơ sở không phân biệt đối
xử và bình đẳng thực chất chính là bảo đảm cho phụ nữ tham gia vào xây dựng và quản
lý nhà nước và xã hội. Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp ra quyết định chắc chắn sẽ
giúp cho những chính sách của nhà nước, đặc biệt là những chính sách liên quan đến
phúc lợi xã hội, mang tính cân bằng về giới hơn. Bên cạnh đó, nó còn là biểu hiện của
việc tăng cường dân chủ trong xã hội.



Quyền chính trị của phụ nữ bao gồm quyền bầu cử và ứng cử, quyền tham gia
quản lý nhà nước và một số quyền khác. Theo Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, việc bảo đảm thực thi quyền chính trị của phụ nữ
phải dựa trên ba nguyên tắc, đó là: bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm
quốc gia. Bình đẳng và không phân biệt đối xử là yêu cầu khách quan; trong khi trách
nhiệm quốc gia bao hàm cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét về mặt lịch sử, dân chủ và
bình đẳng không chỉ là nhu cầu của con người mà còn là yêu cầu khách quan. Hai phạm
trù này không tách biệt, mà ngược lại, chúng hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Dân chủ ở
đây bao gồm dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, trong đó biểu hiện của dân chủ trực
tiếp chính là sự tham gia của cả hai giới trong quản lý nhà nước, còn dân chủ gián tiếp
là bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện quyền lực nhân dân. Như vậy, thực thi
dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực thi một phần quyền chính trị của phụ nữ; và ngược lại,
bảo đảm thực thi quyền chính trị của phụ nữ mới thực hiện được dân chủ, bình đẳng
một cách đầy đủ trong đời sống xã hội. Nói cách khác, xã hội nào xác lập và thực hiện
được quyền chính trị của phụ nữ mới là xã hội dân chủ, bình đẳng thực sự.
- Quyền chính trị của phụ nữ là cơ sở và nền tảng để bảo đảm thực hiện các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của phụ nữ.
Bảo đảm thực hiện quyền chính trị, hay quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của phụ
nữ là bảo đảm thực hiện các quyền con người của phụ nữ đã được pháp luật quy định và
bảo vệ. Quyền con người là một hệ thống các quyền thống nhất với nhau. Vì vậy, có thể
khẳng định cả hai nhóm quyền này đều quan trọng như nhau và có quan hệ mật thiết với
nhau.
Trong hệ thống quyền con người, quyền chính trị thường là những quyền được
đề cập đầu tiên trong số những quyền mà phụ nữ có. Chính vì vậy, để xác lập vị thế bình
đẳng của phụ nữ trong xã hội, trước hết phải xét đến quyền chính trị.
Về cơ bản, phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới nhưng
để có sự bình đẳng thực chất, phụ nữ phải được bảo đảm thực hiện các quyền chính trị
của họ. Nói cách khác, họ phải được tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội; tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó,



quyền chính trị của phụ nữ đóng vai trò là nền tảng, có tính quyết định tới việc thực hiện
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
1.1.2. Khái niệm, nội dung và đặc điểm của pháp luật về quyền chính trị của
phụ nữ
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như một công dân,
trong đó có quyền chính trị. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội và văn hóa,
trên thực tế, những định kiến coi thường phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời
sống chính trị - xã hội. Hiến pháp và pháp luật có thể ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ
và phụ nữ cũng có những quyền như nam giới, nhưng do những định kiến về phụ nữ nên
phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi tham gia vào đời sống chính trị, tham gia
quản lý nhà nước và hoạt động xã hội. Chính vì vậy, ngoài những quy định chung về
quyền con người, quyền công dân, pháp luật còn có những quy định riêng dành cho phụ
nữ, bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ.
Như vậy, phụ nữ hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền chính trị của mình
như bản chất của các quyền con người. Nhưng việc thực hiện quyền đó chỉ có hiệu lực và
hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật. Do định
kiến coi thường phụ nữ còn nặng nề nên để bảo đảm cho phụ nữ thực hiện được những
quyền chính trị của họ trong thực tế, nhà nước phải ban hành nhiều quy định trong pháp
luật, trong đó có cả những chế tài nghiêm khắc xử lý các hành vi vi phạm quyền chính trị
của phụ nữ. Như vậy, pháp luật không chỉ ghi nhận, cụ thể hóa quyền chính trị của phụ
nữ mà còn quy định những thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể nêu khái niệm pháp luật về quyền chính trị của
phụ nữ như sau: Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là tổng thể các quy định trong
hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ
trên cơ sở bình đẳng và không phân biệt đối xử.
1.1.2.2. Nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ



Nói đến nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là đề cập tới các
quy phạm pháp luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng lực và tư cách
pháp lý bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, những quy định liên quan trực tiếp và gián tiếp
đến quyền chính trị của phụ nữ có thể được tìm thấy trong nhiều văn kiện quốc tế về
quyền con người, tiêu biểu như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm
1948, Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Công ước Quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 và Công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979.
Công ước CEDAW không phải là văn kiện pháp lý chuyên biệt quy định về các
quyền con người của phụ nữ, vì các quyền như vậy đã được thừa nhận trong các điều ước
quốc tế khác về nhân quyền đã được ban hành trước đó, cụ thể như các điều ước kể trên.
Tuy nhiên, Công ước CEDAW có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hiện thực hóa
các quyền con người của phụ nữ, trong đó có quyền chính trị, bởi lẽ công ước này xác
định các cách thức, biện pháp nhằm loại trừ những sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong
việc hưởng thụ các quyền con người. Nói cách khác, mục đích của Công ước CEDAW là
trao cho phụ nữ những quyền con người đã được thừa nhận nhưng trên thực tế họ chưa
được hưởng, bởi có những sự phân biệt đối xử với phụ nữ [49, tr. 64].
Trong số các điều khoản quan trong nhất của Công ước CEDAW, Điều 7 xác lập
phạm vi quyền chính trị của phụ nữ, bao gồm: quyền tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc
bầu cử, trưng cầu dân ý; quyền ứng cử; quyền tham gia xây dựng và thực hiện các chính
sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ nhà nước; quyền tham gia các tổ chức và hiệp
hội phi chính phủ liên quan đến đời sống công cộng và chính trị của đất nước. Điều này
cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để xóa
bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị, công cộng của đất nước, đặc
biệt là trong việc hưởng thụ các quyền chính trị cụ thể nêu trên.
Điều 8 Công ước CEDAW mở rộng phạm vi quyền chính trị của phụ nữ ra ngoài
biên giới quốc gia, bằng việc yêu cầu các quốc gia thành viên phải tiến hành tất cả các
biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm cho phụ nữ có cơ hội đại diện cho Chính phủ họ ở



cấp độ quốc tế và tham gia vào công việc của các tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng
với nam giới và không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Theo tinh thần của Công ước CEDAW, có ba nguyên tắc pháp lý cần tuân thủ để
bảo đảm việc thực thi các quyền con người của phụ nữ, trong đó có quyền chính trị, đó
là: nguyên tắc về trách nhiệm quốc gia; nguyên tắc không phân biệt đối xử; và nguyên
tắc bình đẳng về giới. Cả ba nguyên tắc này đều quan trọng, tuy nhiên, từ góc độ thực
tiễn, hai nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử giữ vai trò chủ đạo và có tính
xuyên suốt, bởi lẽ, đây là những nguyên tắc được coi như là chuẩn mực khi xem xét việc
bảo đảm thực hiện bất cứ quyền nào của phụ nữ, trong bất cứ mối quan hệ nào (gia đình,
cộng đồng, xã hội, quốc gia và quốc tế.)
Trên nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử, thực hiện quyền chính trị
của phụ nữ là bảo đảm quyền dân chủ trong xã hội. Dân chủ về lý thuyết gồm dân chủ
trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Biểu hiện của dân chủ trực tiếp là phụ nữ cũng như nam
giới được trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình quản lý nhà nước, từ khâu xây dựng,
hoạch định chính sách đến triển khai công việc cụ thể, hoặc trực tiếp tham gia giám sát,
kiểm tra hoạt động của các cơ quan công quyền thực hiện quyền lực được giao. Đặc biệt,
dân chủ ở cơ sở thể hiện ở chỗ phụ nữ được tham gia góp ý kiến bằng nhiều hình thức
vào các vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong đó có những vấn đề liên quan đến
lợi ích của họ. Hình thức điển hình của dân chủ gián tiếp là phụ nữ tham gia bầu cử người
đại diện và ứng cử vào các cơ quan dân cử, cơ quan đại diện quyền lực nhà nước.
ở Việt Nam, quyền chính trị của phụ nữ với tính cách là quyền công dân sớm
được xác lập bằng pháp luật cùng với sự ra đời của Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Ngay
từ thời điểm này, phụ nữ đã được công nhận có địa vị công dân bình đẳng so với đàn ông:
"Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" (Điều 9). Quyền bình đẳng nam
nữ trong bầu cử và ứng cử trở thành quy tắc xuyên suốt trong các Hiến pháp từ 1946 đến
nay: Công dân, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo, trình độ văn hóa, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21
tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những
người bị pháp luật hoặc tòa án nhân dân tước các quyền đó.



Phù hợp với tinh thần của Công ước CEDAW, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
cũng có những quy định xác lập quyền bình đẳng của phụ nữ tham gia xây dựng và thực
hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ nhà nước và thực hiện chức
năng công cộng ở mọi cấp. Cụ thể, Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi) quy định
rõ: "Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn
đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước...". Để hiện thực
hóa quy định có tính định hướng này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều
luật, văn bản dưới luật nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng của họ
tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội. Nhờ chính sách pháp luật như
vậy mà trong những năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước, phụ nữ đã được giải
phóng sức lao động và sáng tạo của họ, phát huy hết tiềm năng, có những đóng góp nhất
định vào những thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài những quy định xác lập ngày càng rõ ràng và cụ thể hơn về quyền chính
trị của phụ nữ trong Hiến pháp, quyền chính trị của phụ nữ cũng được cụ thể hóa trong
nhiều văn bản pháp luật khác. Đặc biệt, phù hợp với tinh thần của Công ước CEDAW,
trong số những văn bản pháp luật như vậy có những văn bản chứa đựng những quy định
với những thiết chế nghiêm minh nhằm bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ, bao gồm việc
bảo đảm thực hiện, chống các hành vi xâm phạm quyền chính trị của phụ nữ đã được xác
lập trong pháp luật và biện pháp xử lý tương ứng, như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
Hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính... Chẳng hạn, để bảo đảm thực hiện quyền
bình đẳng của phụ nữ trong bầu cử và ứng cử, Bộ luật Hình sự hiện hành của Việt Nam
quy định những chế tài đối với tội xâm phạm quyền bầu cử và ứng cử của công dân, và
tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ (Điều 126 và 130). Những quy định này của
Bộ luật Hình sự hay các quy định tại Luật Bầu cử sửa đổi năm 2001 là cơ sở bảo vệ về
mặt pháp lý nói chung đối với quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ, kể cả việc ngăn ngừa
sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị và công cộng của đất nước.
Như vậy, quyền chính trị của phụ nữ đã có một cơ sở pháp lý khá đầy đủ và toàn
diện, từ việc xác lập đến bảo vệ bằng pháp luật. Pháp luật của Việt Nam đã có những quy

định riêng, nhưng đồng thời cũng rất hài hòa với pháp luật quốc tế trong việc khẳng định
quyền chính trị của phụ nữ - một trong những quyền quan trọng nhất của phụ nữ cần


được bảo vệ, trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử cùng với trách nhiệm quốc gia
và cả cộng đồng quốc tế, vì dân chủ và sự tiến bộ của phụ nữ.
1.1.2.3. Đặc điểm của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
Từ phân tích về nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở trên, có
thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ như sau:
- Thứ nhất, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ bao gồm các quy định của
pháp luật về quyền chính trị của công dân nói chung và các quy định trực tiếp về quyền
chính trị của phụ nữ nói riêng.
Quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam được thể hiện và được pháp luật bảo vệ
với tư cách là các quyền công dân, Phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ có các quyền
chính trị của một công dân, được tham gia vào mọi hoạt động trong đời sống chính trị và
đời sống công cộng của đất nước. Tuy vậy, để khẳng định quyền chính trị và quyền bình
đẳng của phụ nữ, Hiến pháp và những văn bản pháp luật liên quan cũng có những quy
định riêng về nội dung quyền chính trị và quyền bình đẳng của phụ nữ. Ví dụ, ngoài
những quy định chung về quyền công dân được quy định trong chương về nghĩa vụ và
quyền lợi của công dân trong Hiến pháp, còn có những quy định riêng về quyền của phụ
nữ. Điều 7 Hiến pháp 1946 xác định: "Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp
luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức
hạnh của mình". Đồng thời, Điều 9 của Hiến pháp này nhấn mạnh thêm: "Đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện". Đồng thời, các chế tài nhằm bảo vệ các quyền
tự do dân chủ của công dân. Chẳng hạn, ngoài những quy định về quyền lợi và nghĩa vụ
cơ bản của công dân ở Chương III Hiến pháp 1959 khẳng định:
Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam
giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình. Cùng
làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước
bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi

đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương...
Những quy định như vậy đã hình thành nên một hệ thống các quy phạm pháp luật
quy định trực tiếp đến quyền chính trị và các quyền khác của phụ nữ.


- Thứ hai, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là tổng hợp nhiều quy phạm
pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để bảo vệ quyền
chính trị của phụ nữ. Với nội dung rộng như đã đề cập ở trên, việc xác lập và bảo vệ
quyền chính trị của phụ nữ không chỉ được quy định tại Hiến pháp, mà còn được quy
định trong nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,
Luật Khiếu nại, tố cáo, Bộ luật Lao động… Đặc biệt, trong những văn bản pháp luật này
đều có những quy định riêng về quyền của phụ nữ nhằm mục đích bảo vệ và bảo đảm
việc thực hiện quyền chính trị của phụ nữ. Ngoài ra, hệ thống các quyền con người là
thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ sở và tiền đề cho việc bảo đảm thực hiện các
quyền khác. Do đó, tuy không trực tiếp quy định về quyền chính trị của công dân nói
chung hay của phụ nữ nói riêng, song cũng không vì thế mà bỏ qua những văn bản pháp
luật quy định một cách gián tiếp về quyền chính trị của phụ nữ hoặc các quyền liên quan,
như Luật Giáo dục ... Chính vì vậy, việc bảo đảm thực hiện quyền chính trị của phụ nữ
không chỉ căn cứ vào những quy phạm pháp luật riêng quy định về quyền chính trị của
phụ nữ, mà còn liên quan đến nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nói cách khác, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là sự tổng hợp của nhiều quy
phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền chính trị
của phụ nữ được thực hiện trên thực tế và hiệu quả.
- Thứ ba, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là sự kết hợp hài hòa giữa các
quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, là biểu hiện của sự tiếp thu tư tưởng
tiến bộ của pháp luật quốc tế về quyền chính trị của phụ nữ kết hợp với bản sắc văn hóa
của Việt Nam.
Thúc đẩy và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ không chỉ là mối quan tâm và

trách nhiệm của riêng một quốc gia nào, mà nó đã trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm chung
của cả cộng đồng quốc tế. Như trên đã đề cập, cộng đồng quốc tế đã thông qua nhiều văn
kiện pháp lý quy định về quyền chính trị của phụ nữ. Những văn kiện pháp lý như vậy đều


thể hiện tư tưởng tiến bộ của nhân loại về giải phóng phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng và
nâng cao địa vị của phụ nữ.
Trong số những văn kiện pháp lý quốc tế quy định trực tiếp hoặc gián tiếp về
quyền chính trị của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn hai công ước quan trọng
nhất có liên quan là: Công ước ICCPR và Công ước CEDAW. Trong quá trình xây dựng
pháp luật, Nhà nước Việt Nam luôn xem xét khả năng thể chế hóa những quy định tiến
bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một phần trong
trách nhiệm quốc gia (trách nhiệm lập pháp) khi Việt Nam gia nhập và phê chuẩn những
công ước này. Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa trên truyền thống
văn hóa và hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam để có điều chỉnh và thông qua những quy
phạm pháp luật phù hợp. Chính vì thế, pháp luật Việt Nam thể hiện tư tưởng tiến bộ, có
tính thuyết phục, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Các quy phạm pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt
Nam thể hiện rõ tư tưởng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng và
không phân biệt đối xử.
1.1.3. Vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
Vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
- Một là, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ thể chế hóa đường lối, chủ
trương và chính sách của Đảng về quyền chính trị của phụ nữ.
Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào kể từ khi xuất hiện Nhà nước và giai cấp, pháp
luật luôn luôn là công cụ để thể chế hóa đường lối, chủ trương và chính sách của giai cấp
cầm quyền. ở nước ta, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Đối với phụ nữ, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng luôn dành sự quan tâm đặc biệt
cho phụ nữ, bảo vệ lợi ích chính đáng của phụ nữ trên mọi mặt của đời sống chính trị - xã

hội. Trong Luận cương Chính trị năm 1930 của Đảng, tư tưởng giải phóng phụ nữ và tôn
trọng quyền lợi của phụ nữ đã được ghi nhận, trở thành tuyên ngôn đầu tiên về quyền
bình đẳng nam nữ, phụ nữ được công nhận ngang hàng với nam giới về mặt chính trị.


Tiếp đó, Đảng còn ban hành nhiều chỉ thị và nghị quyết có tính chất định hướng và chỉ
đạo nhằm bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ, ví dụ Nghị quyết số 153-NQ/TW, ngày 10
tháng 01 năm 1967 về "Công tác cán bộ nữ", Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 07 tháng 6 năm
1984, "Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ", v.v... Tư tưởng chỉ đạo nhất
quán và xuyên suốt trong tất cả các văn bản trên của Đảng là bảo đảm quyền bình đẳng và
không phân biệt đối xử với phụ nữ. Tư tưởng này cũng trở thành nguyên tắc chung và được
thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, biến nó trở thành chuẩn mực, quy
tắc xử sự bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Tuy nhiên, một thực tế cho đến nay là pháp
luật của chúng ta chưa thể chế hóa đầy đủ, cụ thể và thiếu những thiết chế bảo đảm thực
hiện trên thực tế đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng về phụ nữ nói chung và
quyền chính trị của phụ nữ nói riêng. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
thực hiện quyền chính trị của phụ nữ trên thực tế.
- Hai là, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ tạo cơ sở pháp lý vững chắc
nhằm thực hiện và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ.
Với chức năng là công cụ để Nhà nước quản lý, bảo vệ các giá trị và bảo đảm
công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc không chỉ xác lập,
mà còn bảo vệ (bao gồm bảo đảm thực hiện, chống các vi phạm liên quan) quyền chính
trị của phụ nữ. Pháp luật là tập hợp những quy định trong đó nêu các quy tắc xử sự chung
cho phép hoặc bắt buộc các chủ thể pháp luật phải xử sự theo. Nói cách khác, các chủ thể
của pháp luật, từ các cơ quan của Đảng, Nhà nước đến các đoàn thể và tổ chức xã hội,
mọi cá nhân công dân có trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật. Hiến pháp và
pháp luật của Việt Nam luôn nhất quán bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ. Hiến pháp
1992 sửa đổi của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ: "Công dân
nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong
xã hội".

Bên cạnh đó, pháp luật còn có những quy định về hình thức, biện pháp xử lý
hành vi vi phạm quyền chính trị của phụ nữ. Ví dụ, Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 1999
quy định về các biện pháp chế tài đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của
công dân nói chung, trong đó có quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ nói riêng: "Người nào


lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu
cử, quyền ứng cử của công dân thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm". Như vậy, pháp luật đã có những quy định
xác lập và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ. Nhờ đó, từ khi khai sinh nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, phụ nữ Việt Nam đã được giải phóng, đã có quyền tham gia đời sống
chính trị của xã hội
- Ba là, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ đã động viên, khuyến khích và
tạo cơ

sở

pháp lý

để phụ nữ đấu tranh thực hiện quyền chính trị

của mình.
Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ không chỉ xác lập địa vị bình đẳng của
phụ nữ trong đời sống chính trị mà là những quy tắc xử sự được sử dụng như thước đo
chuẩn mực chung, đồng thời có tính chất bắt buộc đối với mọi thành phần trong xã hội
nhằm thực hiện bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ. Chính vì vậy, pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ được sử dụng như cơ sở tham chiếu đối với những hành vi trái pháp
luật vi phạm quyền chính trị của phụ nữ, đồng thời, những quy định của pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ còn có vai trò rất quan trọng trong việc động viên, khuyến
khích phụ nữ thực hiện quyền chính đáng mà đã được pháp luật ghi nhận. Hơn nữa,

những quy định đó còn là cơ sở pháp lý để phụ nữ đấu tranh với những hành vi sai trái,
những định kiến lạc hậu cản trở phụ nữ thực hiện quyền chính trị của mình. Nếu không
có những quy định của pháp luật về quyền bình đẳng nam nữ, về quyền chính trị của phụ
nữ thì với quan điểm định kiến, hẹp hòi, trọng nam khinh nữ đang còn ảnh hưởng nặng
nề trong xã hội, phụ nữ sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong việc tham gia ứng cử hoặc
được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý cũng như tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Vì vậy, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc bảo đảm và thực hiện quyền chính trị của phụ nữ.
1.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về quyền chính
trị của phụ nữ
Trong gần 20 đổi mới, cải cách và mở cửa, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị và xã hội. Sự phát triển của đất nước


cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để một mặt, có đầy đủ khung pháp
lý điều chỉnh các hoạt động của đời sống chính trị và đời sống công cộng; mặt khác, để
hài hòa với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập.
Quyền chính trị của phụ nữ là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Hoàn thiện
pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ cũng có nghĩa là tăng cường tính dân chủ trong
xã hội, bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, không phân biệt đối xử với phụ nữ
trong đời sống chính trị và đời sống công cộng. Theo Công ước CEDAW, điều này cũng
chính là một phần trong trách nhiệm quốc gia nhằm bảo đảm thực thi quyền chính trị của
phụ nữ.
Cần thấy rằng, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ chỉ là một bộ phận rất cụ
thể và đặc thù trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam. Về lý thuyết, để đánh giá mức
độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, cần phải căn cứ trên những tiêu chí xác định
chung. Đó là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính thống nhất; ngoài ra, do đặc thù của đối
tượng hưởng thụ quyền, có thể áp dụng một số tiêu chí khác như tính phù hợp, tính kế
thừa và tính hiệu lực.
1.2.1. Tính toàn diện

Tính toàn diện của một hệ thống pháp luật thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau:
- ở cấp độ chung, toàn hệ thống đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành
luật theo cơ cấu nội dung lôgíc và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật tương ứng.
- ở cấp độ cụ thể hơn, ở từng lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh đòi
hỏi mỗi ngành luật phải có đủ các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật [33, tr.
61].
- ở mức độ cụ thể, quan hệ xã hội cụ thể hoặc chủ thể quan hệ pháp luật cụ thể
(chế định pháp luật) đòi hỏi các chế định pháp luật phải có đầy đủ các quy phạm pháp
luật cần thiết. Quyền chính trị của phụ nữ là một vấn đề đặc thù, chuyên biệt về đối tượng
điều chỉnh, chủ thể quan hệ pháp luật và liên quan đến nhiều văn bản pháp luật vì thế có


thể xác định pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là một chế định pháp luật để đánh
giá mức độ hoàn thiện của nó.
Quyền chính trị của phụ nữ là quyền bình đẳng của phụ nữ được tham gia vào tất
cả các hoạt động của đời sống chính trị và đời sống công cộng trên cơ sở không phân biệt
đối xử. Do vậy, tính toàn diện của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ phải bảo đảm
hai yêu cầu: Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ phải có đầy đủ các quy phạm pháp
luật nhằm xác lập quyền bình đẳng nam nữ, vị trí và ý nghĩa quyền chính trị của phụ nữ;
và đồng thời phải nhằm thực hiện và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ.
Về yêu cầu thứ nhất, đối với phụ nữ quyền chính trị là một trong những quyền
quan trọng nhất, thường được đề cập đầu tiên trong hệ thống các quyền con người mà họ
có. ở nước ta, quyền chính trị của phụ nữ trước tiên được khẳng định trong các văn kiện
của Đảng, coi đó là một quyền bình đẳng của nam nữ, một tiêu chí để xác định tính dân
chủ trong xã hội. Pháp luật có nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương và chính sách
của Đảng về quyền chính trị của phụ nữ bằng những quy phạm pháp luật cụ thể, biến nó
trở thành quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc với toàn xã hội. Hơn nữa, từ nghĩa vụ
quốc tế khi Việt Nam gia nhập và phê chuẩn Công ước CEDAW, pháp luật của chúng ta
cũng tiếp thu và thể chế hóa toàn bộ phạm vi các quyền chính trị của phụ nữ được quy

định trong công ước này.
Về yêu cầu thứ hai, việc thực hiện và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ, theo
tinh thần của Công ước CEDAW, dựa trên ba nguyên tắc có tính chất bắt buộc: bình
đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia. Do vậy, để xác định tính toàn diện
của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ, cần phải xem xét
liệu pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ có đầy đủ những quy phạm pháp luật thể
hiện được ba nguyên tắc trên không. Về lý thuyết, pháp luật của Việt Nam đã có khá đầy
đủ những quy phạm pháp luật bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ, thể hiện trong Hiến
pháp, luật bầu cử,... Không những thế, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ còn có
những quy phạm pháp luật chứa đựng các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với những
hành vi xâm phạm quyền chính trị của phụ nữ vì bất kỳ lý do gì và dưới bất kỳ hình thức


nào, thể hiện trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Khiếu nại và tố cáo,
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính...
Như vậy, cơ sở pháp lý về quyền chính trị của phụ nữ là toàn diện, thể hiện được
trách nhiệm quốc gia của Việt Nam trong vấn đề lập pháp, phù hợp với những yêu cầu
của các điều ước quốc tế và Công ước CEDAW.
1.2.2. Tính đồng bộ, thống nhất
Tính đồng bộ, thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ
hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức
độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì cần phải xét xem giữa các bộ phận, quy
phạm pháp luật của nó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn và xung đột với nhau
không.
Tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật thể hiện trên những điểm sau
đây:
- Một là, tính đồng bộ thể hiện ở sự đồng bộ giữa Hiến pháp với các ngành luật
và giữa các ngành luật với nhau. Để đạt tới mục tiêu này, cần xác định rõ ranh giới giữa
các ngành luật và phải xây dựng được một hệ thống quy phạm pháp luật căn bản trong
Hiến pháp, hoàn thiện Hiến pháp nhằm tạo cơ sở để củng cố tính thống nhất của toàn bộ

hệ thống pháp luật.
- Hai là, tính đồng bộ, thống nhất thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn,
không xung đột, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp
luật và giữa các quy phạm pháp luật trong ngành luật đó với nhau.
- Ba là, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự đồng bộ,
thống nhất giữa văn bản luật với các văn bản dưới luật.
- Bốn là, trong điều kiện Đảng cầm quyền, còn phải bảo đảm tính đồng bộ, thống
nhất giữa các quy định của pháp luật với đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng.
Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ tuy có đặc thù về đối tượng điều chỉnh
và chủ thể quan hệ pháp luật, nhưng đó là quyền Hiến định căn cứ vào quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng đối với phụ nữ. Vì vậy, tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật


về quyền chính trị của phụ nữ cũng được xem xét theo bốn yêu cầu nêu trên. Điều đó có
nghĩa là pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ cần phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
thứ nhất, phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa Hiến pháp với các ngành luật và
giữa các ngành luật với nhau; thứ hai, phải bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất trong
mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật trong ngành luật
đó; và thứ ba, phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa văn bản luật với các văn bản
dưới luật; thứ tư, phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của pháp luật
với chủ trương, chính sách của Đảng về quyền chính trị của phụ nữ.
Trước hết, mức độ hoàn thiện của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ phải
thể hiện tính đồng bộ, thống nhất giữa Hiến pháp và luật, giữa Hiến pháp, luật với các
văn bản dưới luật. Hiến pháp là văn bản có tính pháp lý cao nhất, là cơ sở để tạo khung
xây dựng các luật nhằm cụ thể hóa từng nội dung, vấn đề được quy định trong Hiến pháp.
Hiến pháp 1992 sửa đổi khẳng định nguyên tắc bình đẳng nam nữ về các quyền, không
phân biệt đối xử trong thực thi quyền chính trị của phụ nữ. Theo đó, việc xây dựng các
luật nhằm cụ thể hóa nội dung các quyền đó cũng phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và
không phân biệt đối xử với phụ nữ khi tham gia vào đời sống chính trị và đời sống công
cộng.

Hơn nữa, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là sự tổng hợp các quy phạm
pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Quyền
chính trị của phụ nữ có phạm vi rộng, có những nội dung thuộc sự điều chỉnh của Luật
Hành chính, Luật Bầu cử, Bộ luật Hình sự... Chính vì vậy, mức độ hoàn thiện của pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ phải được thể hiện qua tính đồng bộ và thống nhất
giữa các quy phạm của các ngành luật này với ngành luật khác trong một tổng thể hệ
thống pháp luật quốc gia. Trong mối quan hệ phức tạp như vậy giữa các ngành luật với
nhau, tư tưởng xuyên suốt có tính nguyên tắc chi phối nội dung quy phạm pháp luật của
các ngành luật phải là: bình đẳng và không phân biệt đối xử. Sở dĩ lấy các nguyên tắc này
làm tiêu chuẩn để xét tính đồng bộ giữa các quy phạm luật trong các ngành luật là vì
đồng bộ không có nghĩa là một quy phạm pháp luật trong ngành luật này phải được lặp
lại, hoặc nhắc lại trong ngành luật kia, mà cái chính là làm thế nào nội dung của quy
phạm pháp luật này không xung đột với nội dung quy định trong các quy phạm pháp luật


×