Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tìm hiểu những quy định về hàng hóa nhập khẩu khi Việt Nam tham gia kí kết với WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.06 KB, 32 trang )

GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

TIỂU LUẬN
Đề tài : Tìm hiểu những quy định về hàng hóa nhập khẩu khi
Việt Nam tham gia kí kết với WTO.

Hà Nội, năm 2015

LỜI MỞ ĐẦU


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Bài thảo luận nhóm chúng em tìm hiểu đề “ Tìm hiểu những quy định về
hàng hóa nhập khẩu khi Việt Nam tham gia kí kết với WTO”

Kính mong cô đóng góp ý kiến để bài chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em chân thành cảm ơn cô.

MỤC LỤC:


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
PHẦN 1....................................................................................................................1
TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI WTO:.................................1
1.Tổng quan về WTO...............................................................................................1
1.1. Bản chất của WTO............................................................................................2
1.2.Chức năng của WTO..........................................................................................2
1.3.Những nguyên tắc cơ bản của GATT................................................................2
2.Mối quan hệ Việt Nam với WTO..........................................................................2
PHẦN 2:...................................................................................................................8


CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU KHI VIỆT NAM KÍ KẾT
VỚI WTO VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU KHI VIỆT
NAM KÍ KẾT VỚI WTO........................................................................................8
1. Các quy định và thủ tục của WTO về hàng hóa nhập khẩu khi Việt Nam kí kết
với WTO (www.wto.org) được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc chung........8
1.1. Đối xử tối huệ quốc (MFN):.............................................................................8
1.2. Đối xử quốc gia:................................................................................................8
1.3.Minh bạch hóa:.................................................................................................10
1.4.Giải quyết tranh chấp:......................................................................................10
1.5.Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất, nhập khẩu hàng hóa...................11
1.6.Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia...................................................11
1.7. Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu.........................................................12
1.9. Về hạn ngạch thuế quan.................................................................................13
1.10 Một số biện pháp quản lý nhập khẩu Việt Nam áp dụng theo quy định WTO.
.................................................................................................................................15
a. Cấp phép nhập khẩu tự động:.............................................................................15
- Là biện pháp quản lý nhập khẩu thông qua giấy phép nhưng giấy phép này được
cấp cho tất cả các thương nhân nào thỏa mãn điều kiện quy định cấp phép và
không nhằm mục đích hạn chế số lượng nhập khẩu..............................................15
- Điều kiện để được cấp phép nhập khẩu: Có đăng ký kinh doanh.......................15
+ Theo Luật Doanh nghiệp; mặt hàng nhập khẩu không thuộc Danh mục cấm
nhập khẩu;...............................................................................................................15


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
+ Thỏa mãn các điều kiện cụ thể theo quy định của pháp Luật nước nhập khẩu
các mặt hàng thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện như dược phẩm, xăng dầu,
thuốc lá nguyên liuv.v............................................................................................15
b.Thủ tục trực tiếp tại hải quan cửa khẩu:..............................................................15
Với yêu cầu này, nhà nhập khẩu chỉ cần làm thủ tục kê khai và nộp thuế với cơ

quan hải quan cửa khẩu là hoàn thành...................................................................15
.................................................................................................................................15
2.Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu khi Việt Nam kí kết với WTO....................15
2.1. Cơ hội và thách thức hàng hóa xuất nhập khẩu khi Việt Nam tham gia vào
WTO.......................................................................................................................15
2.1.1.Về những cơ hội............................................................................................15
2.2.Đánh giá tình hình nhập khẩu Việt Nam sau 6 năm khi gia nhập WTO........22
KẾT LUẬN...........................................................................................................27
.................................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO:....................................................................................28


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

PHẦN 1
TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI WTO:
1.Tổng quan về WTO.
Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization,
viết
Tây

tắt WTO ; tiếng
Ban

Nha:

Pháp: Organisation

Organización


mondialedu commerce; tiếng

Mundialdel

Comercio;tiếng

Đức:

Welthandelsorganisation) là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy
Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên
với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích
loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại.
Tổ chức thương mại thế giới WTO được thành lập tại Vòng đàm phán
Urugoay trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(General Agreement on Tarif and Trade – viết tắt là GATT) họp tại
Marakech(Marrakesh, Marôc) ngày 15/4/1994 và bắt đầu đi vào hoạt động từ
ngày 1/1/1995. Về cơ bản, WTO là sự kế thừa và phát triển của GATT chứ
không thay thế GATT, góp phần tiếp tục thể chế hóa và thiết lập trật tự mới
trong hệ thống thương mại đa phương của thế giới. Nhưng WTO lại khác với
GATT về nhiều phương diện. Nếu GATT là một định chế khá linh động, chủ
yếu là mặc cả và giao dịch, tạo ra nhiều cơ hội để các nước “không tuân thủ”
các quy chế cụ thể, thì WTO lại áp dụng các quy chế chung cho mọi thành
viên, bị chi phối bởi các thủ tục hòa giải tranh chấp. Hơn nữa, sự ra đời của
WTO còn tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh thương mại thế giới

không chỉ

trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, mà còn cả trong lĩnh vực mới là dịch vụ,
đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa vào khuôm khổ thương mại đa phương
hai lĩnh vực dệt may và nông nghiệp.

Hiện nay tổ chức thương mại thế giới WTO là tổ chức quốc tế duy nhất
quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế và là một tổ chức
thương mại lớn nhất toàn cầu. Đó là những hiệp định đã và đang tiếp tục được
đàm phán và ký kết giữa các quốc gia hoặc lãnh thổ quan thuế thành viên.
1
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Tính đến tháng 2 năm 2013, WTO có 158 thành viên, bao gồm 76 thành viên
sáng lập và 82 nước thành viên tham gia.
Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là
thành viên chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập
WTO đã mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với thị
trường rộng lớn, gồm 155 nước thành viên, chiếm 97% GDP toàn cầu.
1.1. Bản chất của WTO.
WTO coi việc không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường và cạnh tranh
toàn cầu trong thương mại quốc tế sẽ thúc đẩy phúc lợi quốc gia tại tất cả các
nước là triết lý nền tảng của mình. Một lý do khiến WTO tồn tại là các hạn
chế về chính trị đã ngăn cản các Chính phủ áp dụng các chính sách thương
mại hiệu quả hơn, và thông qua sự trao đổi có đi có lại các cam kết tự do hóa,
các nước có thể vượt qua các hạn chế chính trị này.
1.2.Chức năng của WTO
- WTO có 4 chức năng chính:
+ Hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các Hiệp định WTO;
+ Thúc đẩy tự do hoá thương mại và là diễn đàn cho các cuộc đàm
phán thương mại;
+ Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên;
+ Rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên.

1.3.Những nguyên tắc cơ bản của GATT.
- GATT có 4 nguyên tắc cơ bản:
+ Chỉ được phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan, không
cho phép sử dụng các hạn chếđịnh lượng, trừ những trường hợp đặc biệt;
+ Thuế quan phải giảm dần và bị ràng buộc không tăng trở lại;
+ Áp dụng đãi ngộ tối huệ quốc;
+ Áp dụng đãi ngộ quốc gia.
2.Mối quan hệ Việt Nam với WTO.
Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là
thành viên chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập
2
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

WTO đã mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với thị
trường rộng lớn, gồm 155 nước thành viên, chiếm 97% GDP toàn cầu.
Việt Nam có một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong đó Nhà nước
đóng vai trò chủ đạo cho tới tận giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Kể từ
năm 1986, dưới chính sách “Đổi mới”, tăng cường định hướng thị trường và
hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu đã trở thành mục tiêu chính của Việt Nam.
Tiến trình cải cách tập trung vào việc tái cơ cấu các ngành công nghiệp, nông
nghiệp và dịch vụ trong nước, tổ chức lại hệ thống hành chính và thiếp lập các
mối quan hệ kinh tế với thế giới. Nhằm tăng cường các mối quan hệ kinh tế
với khu vực, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á – Âu và Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
-Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam cũng duy trì các mối quan hệ thương
mại chặt chẽ với Trung Quốc, được điều chỉnh theo Hiệp định Thương mại
năm 1991 và các hiệp ước hợp tác kinh tế khác. Tham gia vào các thể chế khu

vực nói trên tạo ra bước hội nhập đầu tiên của Việt Nam vào hệ thống thương
mại để chuẩn bị cho việc trở thành Thành viên WTO.
Các mối quan hệ của Việt Nam với WTO được bắt đầu vào năm 1995 với
việc nộp yêu cầu gia nhập chính thức. Vào tháng 1 năm 1995, Đại hội đồng
của WTO đã thành lập Ban công tác để xem xét đơn xin gia nhập của Việt
Nam. Ban công tác đã tiến hành 14 cuộc họp trong giai đoạn gần 12 năm –
một quá trình đàm phán gia nhập khá dài. Các thành viên của Ban công tác
gồm Áchentina, Úc, Braxin, Brunây, Bungari, Campuchia, Canađa, Chilê,
Trung Quốc, Côlômbia, Croatia, Cuba, Cộng hòa Đôminíc, Ai Cập, En
Sanvađo, Liên minh châu Âu và các Thành viên của mình, Honđuras, Hồng
Kông, Ixơlen, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hòa
Kyrgyzxtanxtan, Malaysia, Mêhicô, Marốc, Myanma, Niu Dilân, Na Uy,
Pakistan, Panama, Paraguay, Philíppin, Rumani, Singapo, Sri Lanka, Thụy
Sỹ, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và Uruguay (www.wto.org).
Việt Nam đã chuẩn bị bản Bị vong lục về chế độ ngoại thương của mình vào
năm 1996 nhưng phải tới tận năm 1998 thì kế hoạch cho các cuộc họp định kỳ
của Ban công tác mới được đưa ra. Các cuộc đàm phán diễn ra chậm chạp do
các lo ngại về chính trị, nhu cầu cần có những thay đổi hệ thống quan trọng
3
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

trong nền kinh tế Việt Nam và các Thành viên WTO đặt ra yêu cầu Việt Nam
phải đưa ra các nhượng bộ lớn.
- Các mốc lớn trong quan hệ của Việt Nam với WTO
+ Năm 1994 Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và
thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường vào năm 1995. Điều này đã thúc đẩy
việc mở cửa nền kinh tế Việt Nam.

+ Năm 1995 Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 1 năm 2005.
1996 Bắt đầu cuộc gặp thường kỳ của Ban công tác về việc Việt
Nam gia nhập WTO.
+ Năm 1998 Các cơ quan quản lý Việt Nam quyết định đẩy nhanh tiến
trình gia nhập WTO.
+ Năm 2001 Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 của WTO/GATT –
vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển – được khởi động vào tháng 11 năm
2001.
+ Năm 2002 Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên đối với hàng hóa và
dịch vụ.
+ Năm 2004 Việt Nam đưa ra Bản chào sửa đổi tham vọng hơn về tiếp
cận thị trường vào tháng 6 năm 2004 tại phiên họp lần thứ 8 của Ban công
tác, Bản chào này thể hiện một bước đột phá trong đàm phán gia nhập WTO.
2004 Bắt đầu các cuộc đàm phán song phương với các Thành viên WTO. Một
Thỏa thuận đột phá được ký kết với Liên minh châu Âu.
+ Năm 2005 Ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập
WTO.
+ Năm 2006 Hoa Kỳ và Việt Nam ký Hiệp định song phương về các cam
kết gia nhập WTO của Việt Nam, đây là Hiệp định song phương cuối cùng và
dường như là khó khăn nhất trong số 28 Hiệp định song phương với các
Thành viên WTO.Giai đoạn 2002 – 2006 Các cơ quan quản lý Việt Nam đã
rà soát sâu rộng hầu hết luật và quy định của Việt Nam trong các lĩnh vực liên
quan tới WTO cũng như các lĩnh vực khác và đã đưa kế hoạch hành động liên
quan tới WTO vào Kế hoạch phát triển năm năm 2006 – 2010 (SRV, 2006).
Năm 2007 Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới vào ngày 11 tháng 1 năm 2007.Năm 2007 Chính phủ
+

4
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại



GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Việt Nam đưa ra chương trình hành động thực thi các cam kết gia nhập
WTO.Vào năm 2002, Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ, sau đó Bản chào sửa đổi vào tháng 7 năm 2004
mang tính tham vọng hơn. Cả hai Bản chào đều được các Thành viên WTO
hoan nghênh. Sau một số vòng đàm phán, các đối tác thương mại của Việt
Nam đồng ý bắt đầu dự thảo Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia
nhập WTO và tiến hành các cuộc đàm phán song phương cần thiết để đạt được thỏa
thuận gia nhập giữa các bên.

Việt Nam tiến hành các cuộc đàm phán song phương với 28 Thành viên
WTO, bao gồm cả Liên minh châu Âu (tính là một Thành viên mặc dù Liên
minh này đại diện cho 25 nước), Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thỏa thuận với Hoa
Kỳ ký vào tháng 5 năm 2006 là thỏa thuận song phương cuối cùng và có lẽ là
thỏa thuận song phương khó khăn nhất mà Việt Nam đã đàm phán. Việc ký
kết thỏa thuận này cho phép Tổng thống Hoa Kỳ có thẩm quyền cần thiết để
dành cho Việt Nam quy chế “quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn”
(PNTR) – đây là điều kiện tiên quyết cho phép Hoa Kỳ công nhận Việt Nam
là một Thành viên WTO.
Trọng tâm cải cách kinh tế và chính sách phát triển dựa vào xuất khẩu của
Việt Nam đã khiến cho quá trình gia nhập, vốn kéo dài và rất phức tạp, trở
nên đơn giản hơn. Việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa
Kỳ (BTA) và tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) rất hữu ích
trong bối cảnh này do các thỏa thuận này đã khởi động quá trình tự do hóa và
tiến trình “phi điều tiết hóa” (US Aid ,2007). Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa rằng các cuộc đàm phán mở cửa thị trường là dễ dàng. Các bên đã phải
mất rất nhiều thời gian và đàm phán diễn ra rất căng thẳng trước khi đạt được

thỏa thuận gia nhập. Bộ trưởng Trương Đình Tuyển và đoàn đàm phán Việt
Nam do Thứ trưởng Thương mại Lương Văn Tự đã tập trung toàn bộ sức lực
vào các cuộc đàm phán gia nhập, thường phải làm việc thâu đêm, đặc biệt
trong giai đoạn cuối cùng của các cuộc đàm phán gia nhập.
Quyết tâm trở thành Thành viên WTO của Việt Nam có thể đã được thúc
đẩy bởi kinh nghiệm thành công của các nền kinh tế hướng về xuất khẩu tại
khu vực Đông Á, những thay đổi hệ thống tại các nước thuộc Liên bang Xô
Viết cũ và sự quan tâm của Trung Quốc đối với tổ chức này. Có thể một động
5
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

lực nữa là quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc tạo ra việc làm
cho hơn 1 triệu lao động mới gia nhập thị trường lao động mỗi năm tại Việt
Nam, thực hiện xóa đói giảm nghèo và đạt được mục tiêu tiêu tham vọng là
đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 (SRV, 2006).
Trong quá trình gia nhập WTO của mình, Việt Nam đã không nhận được
nhiều đối xử đặc biệt và khác biệt từ các Thành viên WTO. Việt Nam đã phải
thực hiện các bước cụ thể trước, trong và sau giai đoạn đàm phán để có thể
tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức nhằm hỗ trợ quá trình phát triển của
mình. Các nỗ lực này được một số nhà tài trợ và tổ chức quốc tế hỗ trợ thông
qua việc cung cấp các chương trình xây dựng năng lực và kinh nghiệm (một
trong số các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm hỗ trợ Việt Nam trong những
ngày đầu của tiến trình gia nhập là Ông Arthur Dunkel, cựu Tổng giám đốc
của WTO và ông Trần Văn Thìn, cựu đại sứ của EC tại GATT). Nhờ có sự
kết hợp phù hợp giữa các nỗ lực và dự án của Việt Nam và quốc tế, các mục
tiêu phát triển của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO đã được làm rõ và
Việt Nam đã đưa ra được các chiến lược đàm phán phù hợp. Cụ thể hơn, các

cơ quan Việt Nam đã đưa ra các bước đi để thực hiện mục tiêu này.
Trước hết, ngay trong giai đoạn gia nhập đầu tiên, Việt Nam đã dự đoán
được các cam kết đa dạng trong WTO sẽ đòi hỏi cải cách nền kinh tế trong
nước tới mức nào và những thay đổi đó sẽ đóng góp vào quá trình phát triển
theo cách nào. Việt Nam xác định dệt may, giầy dép, nông nghiệp, thủy sản
và du lịch là những ngành có thể được hưởng lợi ngay từ các chương trình cải
cách này và đã xây dựng ưu tiên đàm phán của mình, có tính tới những ngành
có tiềm năng có lợi thế so sánh.
Thứ hai, các cơ quan quản lý Việt Nam đã nhận thấy tiến trình gia nhập
WTO có thể kéo dài và phức tạp, do đó đã nỗ lực để tập hợp đủ hỗ trợ trong
nước cho tiến trình gia nhập này. Yếu tố thứ hai được ủng hộ bởi các cuộc
tham vấn ở cấp chính trị và tầm nhìn rõ ràng về chi phí, lợi ích và các ưu tiên
trong các cuộc đàm phán gia nhập. Xây dựng một chiến lược đàm phán phù
hợp gồm cả các vấn đề vượt quá thẩm quyền của Bộ Thương mại và Chính
phủ đã có quan điểm chung về chiến lược đàm phán gia nhập WTO. Rõ ràng,
vấn đề này không bị coi là một quyết định kỹ trị do một nhóm quan chức
kiểm soát mà đã được rất nhiều cơ quan chính phủ và Đảng Cộng sản xem xét
6
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

cũng như được tham vấn với các ngành trong nước. Việt Nam đang đạt được
nhiều tiến bộ trong việc xây dựng một tiến trình mở, chính thức để đảm bảo
quyền của các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức dân sự trong việc xây
dựng các văn bản pháp lý.
Thứ ba, do thời gian kéo dài, độ phức tạp cao và phạm vi rất rộng của
Thỏa thuận gia nhập, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng một “lộ trình” xác
định các hoạt động khác nhau trong quá trình gia nhập và giai đoạn thực thi.

Thông tin chi tiết về các cấu phần của “lộ trình” này nằm trong Nghị quyết
tháng 2 năm 2007 về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
để thực thi Nghị quyết 4 Hội nghị Trung ương X về một số chủ chương và
chính sách lớn để phát triển nhanh và bền vững cho nền kinh tế khi Việt Nam
gia nhập WTO (Nghị quyết số 16/2007/CP-NQ của Chính phủ) và trong Kế
hoạch phát triển kinh xã hội 5 năm 2006 – 2010 (SRV, 2006).
Có thể nói, WTO là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc về
thương mại giữa các quốc gia. Cốt lõi của WTO là các hiệp định do các chính
phủ thành viên đàm phán và ký kết. Các hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý
cho việc tiến hành hoạt động thương mại quốc tế, với mục tiêu thúc đẩy giao
lưu thương mại hàng hoá, dịch vụ và hợp tác thương mại ngày càng sâu rộng
và hiệu quả hơn. Hệ thống WTO hiện nay bao gồm những hiệp định độc lập
như:
- Các hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá bao gồm Hiệp định
GATT 1994 và các hiệp định đi kèm với nó;
- Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS);
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPS) .
- Hiệp định về Thủ tục Cấp phép nhập khẩu (Hiệp định ILP) quy định
những thủ tục mà chính phủ các nước thành viên WTO phải tuân thủ nhằm
giảm tối đa những công đoạn hành chính phiền phức gây cản trở đến thương
mại.

7
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

PHẦN 2:

CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU KHI VIỆT NAM KÍ
KẾT VỚI WTO VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP
KHẨU KHI VIỆT NAM KÍ KẾT VỚI WTO.
1. Các quy định và thủ tục của WTO về hàng hóa nhập khẩu khi Việt
Nam kí kết với WTO (www.wto.org) được xây dựng dựa trên một số
nguyên tắc chung.
1.1. Đối xử tối huệ quốc (MFN):
Nguyên tắc không phân biệt đối xử này quy định rằng việc nhập khẩu
khẩu hàng hóa và dịch vụ từ một Thành viên WTO sẽ được đối xử không kém
thuận lợi hơn việc nhập khảu hàng hóa và dịch vụ từ bất kỳ Thành viên nào
khác. Đối xử MFN là vô điều kiện. Trên thực tiễn, trong hầu hết các trường
hợp điều này có nghĩa một nước không thể áp dụng mức thuế nhập khẩu đối
với sản phẩm nhập khẩu từ một Thành viên cao hơn so với mức thuế áp dụng
đối với sản phẩm tương tự từ bất kỳ Thành viên nào khác. Các Khu vực Mậu
dịch tự do như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và liên minh thuế
quan nếu thỏa mãn một số điều kiện nhất định sẽ được coi là ngoại lệ của
nguyên tắc MFN.
1.2. Đối xử quốc gia:
Nguyên tắc không phân biệt đối xử này quy định rằng sản phẩm và dịch
vụ nhập khẩu sẽ được hưởng đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành
cho sản phẩm tương tự trong nước. Trên thực tiễn, nguyên tắc này quy định
các Chính phủ không được phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu khi áp
dụng các luật lệ và quy định trong nước, như các quy định về thuế hay bảo vệ
người tiêu dùng và môi trường. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử đối với hàng
nhập khẩu vẫn có thể được thực hiện thông qua các biện pháp tại biên giới,
đặc biệt là thuế quan. Đối với thương mại dịch vụ, việc dành đối xử quốc gia
không phải là tự động do nguyên tắc này phải được đàm phán trong từng phân
ngành hay thậm chí từng dịch vụ cụ thể.

8

Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Chỉ áp dụng thuế quan để kiểm soát thương mại: để tạo điều kiện mở cửa
thị trường và đảm bảo khả năng có thể dự đoán được của thương mại hàng
hóa, WTO yêu cầu các Thành viên chỉ thực hiện hạn chế thương mại thông
qua thuế quan thay cho hạn ngạch, các kế hoạch định hướng hay các biện
pháp phi thuế quan khác.
Giảm dần các rào cản thương mại thông qua đàm phán: kể từ khi hệ
thống GATT/WTO ra đời vào năm 1946, các Thành viên đã tiến hành 8 vòng
đàm phán đa phương để loại bỏ dần các rào cản thương mại. Trong giai đoạn
đầu, các cuộc đàm phán thương mại đa phương tập trung vào việc giảm thuế
quan. Dần dần, các Thành viên này đã mở rộng phạm vi của GATT/WTO
sang các biện pháp phi thuế quan như tiêu chuẩn, trợ cấp gây bóp méo thương
mại hoặc các biện pháp tự vệ tạm thời (chống bán phá giá và thuế đối kháng).
cũng như mua sắm chính phủ.Biện pháp tự vệ chỉ có thể áp dụng sau khi đã
tiến hành các bước sau:
+ Có khiếu nại về việc tăng nhập khẩu gây ra tổn hại nghiêm trọng
cho sản xuất trong nước.
+ Trên cơ sở khiếu nại, một cơ quan do Chính phủ chỉ định sẽ tiến
hành điều tra.
+ Kết quả điều tra phải cho thấy mối liên hệ nhân - quả giữa tăng
nhập khẩu với sự tổn hại nghiêm trọng gây ra cho ngành sản xuất tương ứng
trong nước.
Vòng đàm phán gần đây nhất là vòng Uruguay (1986-1994), đã mở
rộng đáng kể các quy tắc của WTO sang các lĩnh vực mới như thương mại
dịch vụ, các chính sách tác động tới sở hữu trí tuệ và các quy định về đầu tư
nước ngoài ảnh hưởng tới thương mại. Hiện nay, các cuộc đàm phán trong

Vòng đàm phán đa phương lần thứ 9, Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển

9
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

(DDR) được bắt đầu vào năm 2001 đang được tiến hành. Bảo hộ nông nghiệp
tại các nước phát triển là nội dung cản trở chính của vòng đàm phán này.
1.3.Minh bạch hóa:
Luật và quy định của các nước ảnh hưởng tới ngoại thương và đầu tư
nước ngoài phải được công bố và cung cấp cho tất cả các bên, các thủ tục để
thực thi luật lệ và quy định phải công khai. Hơn nữa, quy chế thương mại của
mỗi Thành viên phải được WTO rà soát định kỳ để đảm bảo sự tuân thủ với
các quy định của WTO.
1.4.Giải quyết tranh chấp:
Để thực hiện chức năng giám sát các quy tắc đã được thỏa thuận trong
các Hiệp định của mình, WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các
Thành viên.
Bất kỳ quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan có đầy đủ thẩm quyền quản lý
các mối quan hệ thương mại quốc tế của mình cũng có thể gia nhập WTO.
Hiện nay, hơn 75% các quốc gia và lãnh thổ hải quan trên thế giới là Thành
viên của tổ chức này và hơn 10% quốc gia, tổ chức nữa đang trong quá trình
gia nhập.
Kết quả mà Việt Nam đàm phán được là trong khoảng thời gian 12 năm
(không muộn hơn, trước thời điểm trên, nếu Việt Nam chứng minh được với
đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì
đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường" đối với Việt Nam. Chế độ
"phi thị trường" này chỉ có ý nghĩa trong n 31/12/2018) WTO chấp nhận coi

Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên các vụ kiện chống bán phá
giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối
với hàng xuất khẩu của Việt Nam, dù Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị
trường.

10
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

1.5.Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Tuân thủ quy định WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp
và cá nhân người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc
danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa
hình, báo, tạp chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho
phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm.
Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không
có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ
tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước
ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước.
Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của Việt
Nam trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối
với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo, tạp chí...
1.6.Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia.
Các thành viên WTO đồng ý cho Việt Nam thời gian chuyển đổi không
quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù
hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là: đối với rượu trên 20 độ cồn, Việt

Nam hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm;
đối với bia, Việt Nam sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
Có, hàng hoá nhập khẩu vẫn có thể phải chịu các loại thuế trong nước
khác như thuế giá trị gia tăng, thuế doanh thu, thuế tiêu thụđặc biệt, tuỳ theo
chính sách của từng nước. Nhưng trị giá các loại thuế trong nước hoặc các
loại phí đánh vào hàng hoá nhập khẩu không được vượt quá trị giá của cùng
loại thuế, phí đó đánh vào hàng hoá trong nước. Đây chính là một nội dung
của đãi ngộ quốc gia.

11
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Ngoài các loại thuế trong nước thông thường như trên, nếu có dấu hiệu
phá giá hay trợ cấp thì hàng hoá nhập khẩu có thể phải chịu cả thuế chống phá
giá hoặc thuế đối kháng.
Phương pháp đánh thuế đối với hàng nhập khẩu: có 2 phương pháp
chính.
+ Đánh thuế theo phần trăm trị giá hàng hóa, gọi là thuế phần trăm
hay thuế theo trị giá. Ví dụ mặt hàng trị giá 100$, thuế suất là 5% thì thuế
quan phải thu sẽ bằng 100$ x 5% = 5$.
+ Đánh thuế theo đơn vị đo lường (khối lượng, thể tích, dung tích),
gọi là thuế tuyệt đối. Ví dụ, thuế suất 1$/lít rượu thì khi nhập khẩu 100 lít
rượu (bất kể trị giá), nhà nhập khẩu sẽ phải trả 1$ x 100 lít = 100$.
+ Phương pháp thứ ba chính là sự kết hợp của hai phương pháp trên,
gọi là thuế gộp . Ví dụ với thuế suất 5% + 1$/lít, giả sử mỗi lít rượu giá 20$
thì số thuế quan phải thu sẽ là
(20$ x 100 lít x 5%) + (1$ x 100 lít) = 100$ + 100$ = 200$.

1.7. Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu.
Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn
ngày 31/5/2007. Tuy nhiên, Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng các biện pháp
như quy định độ tuổi người sử dụng và đưa ra chế độ cấp bằng lái đặc biệt.
Với thuốc lá điếu và xì gà, Việt Nam đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ
thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được
quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà Việt
Nam đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ, Việt Nam
cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm nhưng bảo
lưu quyền áp dụng thuế nhập khẩu cao và nhiều biện pháp quản lý kỹ thuật
chặt chẽ khác.
1.8. Cam kết về thuế nhập khẩu.

12
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Về mức cam kết chung, Việt Nam đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn
bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức
hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức
thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống
còn 20,9%, thực hiện trong 5 năm. Với hàng công nghiệp, mức bình quân
giảm từ 16,8% xuống còn 12,6%, thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm.
Đối với mức cam kết cụ thể, sẽ có khoảng hơn 1/3 số dòng của biểu thuế
phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng
yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu
xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản

phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử.
Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm
hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất, phương tiện vận tải.
Việt Nam cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do hoá
theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định
tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số
ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ
thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế.
Việt Nam cũng tham gia một số phần với thời gian thực hiện sau từ 3 – 5
năm đối với các ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
1.9. Về hạn ngạch thuế quan.
Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và
muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức
thuế MFN (nguyên tắc tối huệ quốc của WTO), cụ thể trứng 40%, đường thô
25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá 30%, muối ăn 30%. Mức thuế ngoài hạn
ngạch cao hơn rất nhiều.

13
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong vòng đàm phán gia
nhập WTO đối với một số nhóm hàng quan trọng
Cam kết với WTO
TT Ngành hàng/ Mức thuế suất

1.


2.

Thuế

Thuế

suất

suất khi suất

Thời

MFN

gia

cuối

thực hiện

nhập

cùng

Thuế
gian

Một số sản phẩm nông nghiệp
- Thịt bò


20

20

14

5 năm

- Thịt lợn

30

30

15

5 năm

- Sữa nguyên liệu

20

20

18

2 năm

- Sữa thành phẩm


30

30

25

5 năm

- Thịt chế biến

50

40

22

5 năm

- Bánh kẹo (thuế suất bình quân)

39,3

34,4

25,3

3-5 năm

- Bia


80

65

35

5 năm

- Rượu

65

65

45-50

5-6 năm

- Thuốc lá điếu

100

150

135

3 năm

- Xì gà


100

150

100

5 năm

Thức ăn gia súc

10

10

7

2 năm

- Xăng dầu

0-10

38,7

38,7

- Sắt thép (thuế suất bình quân)

7,5


17,7

13

5-7 năm

- Xi măng

40

40

32

4 năm

- Phân hóa học (thuế suất bình quân)

0,7

6,5

6,4

2 năm

- Giấy (thuế suất bình quân)

22,3


29,7

15,1

5 năm

- Tivi

50

40

25

5 năm

- Điều hòa

50

40

25

3 năm

- Máy giặt

40


38

25

4 năm

Một số sản phẩm công nghiệp

ngay khi gia
nhập (thực tế
- Dệt may (thuế suất bình quân)

37,3

13,7

13,7

đã thực hiện
theo hiệp định
dệt may với
EU, Hoa Kỳ)

- Giày dép

50

14
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


40

30

5 năm


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
- Xe ôtô con
+ Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng

90

90

52

12 năm

+ Xe từ 2.500 cc trở lên, loại 2 cầu

90

90

47

10 năm

+ Xe dưới 2.500 cc, và loại khác


90

100

70

7 năm

+ Loại không quá 5 tấn

100

80

50

10 năm

+ Loại thuế suất khác hiện hành 80%

80

100

70

7 năm

+ Loại thuế suất khác hiện hành 60%


60

60

50

5 năm

+ Phụ tùng ôtô

20,9

24,3

20,5

3-5 năm

+ Loại từ 800 cc trở lên

100

100

40

8 năm

+ Loại khác


100

95

70

7 năm

- Xe tải

- Xe máy

1.10 Một số biện pháp quản lý nhập khẩu Việt Nam áp dụng theo quy
định WTO.
a. Cấp phép nhập khẩu tự động:
- Là biện pháp quản lý nhập khẩu thông qua giấy phép nhưng giấy phép này
được cấp cho tất cả các thương nhân nào thỏa mãn điều kiện quy định
cấp phép và không nhằm mục đích hạn chế số lượng nhập khẩu.
- Điều kiện để được cấp phép nhập khẩu: Có đăng ký kinh doanh
+ Theo Luật Doanh nghiệp; mặt hàng nhập khẩu không thuộc Danh mục
cấm nhập khẩu;
+ Thỏa mãn các điều kiện cụ thể theo quy định của pháp Luật nước nhập
khẩu các mặt hàng thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện như dược
phẩm, xăng dầu, thuốc lá nguyên liuv.v...
b.Thủ tục trực tiếp tại hải quan cửa khẩu:
Với yêu cầu này, nhà nhập khẩu chỉ cần làm thủ tục kê khai và nộp thuế
với cơ quan hải quan cửa khẩu là hoàn thành

2.Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu khi Việt Nam kí kết với WTO

2.1. Cơ hội và thách thức hàng hóa xuất nhập khẩu khi Việt Nam tham
gia vào WTO.
2.1.1.Về những cơ hội.
Một là: khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá
và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt
giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các
15
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt
Nam ngày càng được cải thiện.
Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành
viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để
đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn,
có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc
đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt
Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm
Đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo
điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
2.1.2.Về những thách thức.
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn.
Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không

đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở
mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá;
nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng
lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách
phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ
trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước
có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế
thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
Bốn là : Theo cam kết khi gia nhập WTO “Việt Nam là nền kinh tế phi thị
trường” chỉ tồn tại trong vòng 12 năm ( không sớm hơn ngày
31/12/2018).Hiện nay nước ta vẫn còn nặng nền kinh tế bao cấp.Muốn thoát
ra khỏi tình trạng làm thay việc các tổng công ty ,doanh nghiệp nhà nước.
16
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Phải tạo nên tính độc lập ,bình đẳng trong cộng đồng doanh nghiệp nghĩa là
thực thi trọn vẹn những cam kết vào WTO,chúng ta mới là thành viên chững
chạc ,có vị trí bình đẳng của WTO. Vì nền kinh tế thị trường theo WTO là
những nền “ thương mại tự do” tuyệt đối,các doanh nghiệp tham gia thị
trường hoàn toàn độc lập với Chính phủ nước họ”.Các doanh nghiệp chỉ phục
tùng pháp luật , đóng thuế theo luật trong nước cũng như nước mà họ đầu tư
đến.Họ không chịu bất cứ một mệnh lệnh hành chính nào đến từ các cấp
chính quyền.Do vậy, Việt Nam sẽ gặp nhiều bất lợi như:

+ Tất cả các thành viên WTO đều có thể kiện một hay nhiều mặt hàng của
ta là “ bán phá giá” .Vì Việt Nam là nền “kinh tế phi thị trường” nên họ không
cần đi điều tra thực tế mà chỉ cần căn cứ vào giá cả một nước có trình độ
tương ứng để phán quyết việc bán phá giá.Các vụ kiện “bán phá giá” sẽ làm
đảo lộn kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp,làm ảnh hưởng đến đời sống
của hàng vạn người lao động và thu nhập của ngân sách quốc gia.
+ Do mình là thành viên “ dự khuyết”trong WTO nên các phản ứng kiện
tụng của mình sẽ ít được xem xét
Năm là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo
vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội
lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến
thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng
cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó
đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức
không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức
đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được
cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội
mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ
hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó
khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự
cường của toàn dân tộc là quyết định nhất."Với thành tựu to lớn sau 20 năm
Đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế
những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia
17
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung


nhập WTO, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể
tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó
khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ
vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ
nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng Toàn cầu hoá là hiện
tượng có từ lâu, nhưng kết hợp toàn cầu hoá sản xuất và tiêu thụ thông qua
việc hình thành đầu tư quốc tế đã làm cho toàn cầu hoá kinh tế trở thành một
xu thế mới.
Thực chất của toàn cầu hoá là gì? những nhân tố nào thúc đẩy toàn cầu
hoá? Về cơ bản, toàn cầu hoá là một cuộc điều chỉnh cơ cấu công nghiệp
trong phạm vi thế giới, lấy các nước phát triển làm chủ đạo và lấy các công ty
xuyên quốc gia làm chủ lực.
- Kể từ khi ''chiến tranh lạnh'' kết thúc, các quốc gia có những điều chỉnh
quan trọng trong chính sách đối ngoại để thích ứng và phù hợp xu thế mới
trong đó lấy yếu tố kinh tế làm yếu tố quan trọng trong quan hệ quốc tế.
Nhiều nước tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa đổi mới, phát triển kinh tế
thị - trường xã hội chủ nghĩa. Các nước đã tham gia quá trình khu vực hoá,
lấy đó làm tiền đề tham gia toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở
độc lập tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Các nuớc tư bản phát triển cũng có những điều chỉnh kịp thời. Chính sách
điều tiết của các nước tư bản nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng cơ cấu dẫn
tới việc giảm chủ nghĩa bảo hộ. Điều này dẫn tới việc tự do hoá được mở
rộng. Xu hướng tự do hoá đầu tư, buôn bán được thúc đẩy giữa các nước, các
tổ chức khu vực trên thế giới, thúc đẩy quá trình tự do giao lưu về tiền vốn, kỹ
thuật, nhân công với quy mô lớn trên phạm vi thế giới. Điều đó càng đẩy tới
xu hướng toàn cầu hoá ngày càng gia tăng trên thế giới.
- Những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã làm thúc
đẩy nhanh chóng năng lực sản xuất, kích thích cạnh tranh, thu hẹp khoảng
cách không gian và thời gian, nối các quốc gia, các khu vực trên thế giới

thành một thị trường thống nhất, một "làng toàn cầu".
- Sự đổi mới và cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp là động lực lớn
thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty
18
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

xuyên quốc gia đóng vai trò đắc lực trong việc hình thành nền kinh tế toàn
cầu.
Những nét nổi bật của toàn cầu hoá là sự phát triển nhanh chóng của
thương mại thế giới. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các
nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hoá
của nền kinh tế thế giới tăng lên. Bên cạnh đó phải kể tới vai trò của các công
ty xuyên quốc gia. Các công ty này thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá trên thế
giới, ngược lại, quá trình toàn cầu hoá lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các công
ty xuyên quốc gia và chiến lược kinh doanh của họ. Xu hướng sáp nhập của
các Công ty xuyên quốc gia tăng lên nhanh chóng.
Tóm lại, toàn cầu hoá là một tất yếu lịch sử, khách quan, tác động đến
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế văn hoá, xã hội trên thế giới. Nó tạo ra
những cơ hội phát triển cho các nước nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức đối
với tất cả các quốc gia, dân tộc. Trong một thế giới mà tính phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước ngày càng tăng thì không một quốc gia nào có thể phát
triển đuợc nếu không có mối liên hệ nào với bên ngoài. Các quốc gia, khu vực
đều phải tham gia trào lưu toàn cầu hoá, tham gia quá trình hội nhập ở các
mức độ nhất định, nếu không muốn bị tut hậu, bỏ rơi. Có điều những vấn đề
mà toàn cầu hoá đặt ra đối với các nước đang phát triển là như thế nào.
Trong Tuyên bố Bangkok tháng 2- 2000 của Hội nghị Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triến nêu rõ: "toàn cầu hoá là một quá trình đang diễn ra

cho thấy những cơ hội, cũng như những nguy cơ và thách thức. Nó tăng
cường triển vọng những tiến độ về công nghệ và sự hội nhập có lợi cho các
nước.Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đem đến nguy cơ các nước bị gạt ra ngoài
lề, đặc biệt là các nước nghèo nhất, và các nhóm dễ bị tổn thương nhất ở khắp
nơi. Các hố ngăn cách về thu nhập trong nội bộ và giữa các nước với nhau
vẫn còn lớn, và số người sống trong nghèo khổ gia tăng. Sự thiếu cân đối và
mất cân bằng trong nền kinh tế quốc tế tăng lên. Sự bất ổn định trong hệ
thống tài chính quốc tế tiếp tục là một vấn đề nghiêm trọng và đòi hỏi có sự
quan tâm khẩn thiết''. (Third World Resurgence, (Malaysia), No116, p29).
Hiện nay, toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi các Công ty xuyên quốc gia, với vai
trò chi phối của các nước lớn tư bản chủ nghĩa nên lợi thế thuộc về các nước
phát triển.
19
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Chủ nghĩa tư bản với những ưu thế đặc biệt về vốn, công nghệ, thị
trường... đã chi phối, nắm vững vai trò trong đời sống kinh tế quốc tế. Doanh
thu chỉ của 5 Công ty đa quốc gia gấp đôi GDP của 100 nước nghèo cộng lại.
Những cường quốc công nghiệp lớn trên thế giới, trước hết là Mỹ, có điều
kiện thuận lợi nhất để hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hoá.
Do vậy, quá trình toàn cầu hoá trong điều kiện hiện nay về cơ bản mang
tính chất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản nắm vững nguồn lực vật chất và
phương tiện hùng mạnh nhất đã tạo nên xu hướng bành trướng quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn thế giới. Đối với các nước đang phát triển, nguy
cơ tụt hậu là rất lớn bởi sự cạnh tranh khốc liệt trong ''cuộc đua tới đáy" về
kinh tế giữa các tập đoàn tư bản và giữa các nước. Mặt khác, sự phát triển
không đồng đều đang và sẽ diễn ra. Trong quá trình toàn cầu hoá, sự bất bình

đẳng về kinh tế ngày càng phát triển, hố sâu thu nhập giữa các nước, các khu
vực ngày càng mở rộng, phân cực Bắc - Nam ngày càng sâu. Theo báo cáo
phát triển con người năm2000 của UNDP, khoảng cách thu nhập giữa nước
giàu nhất và nước nghèo nhất không ngừng tăng lên, từ 3/1 (năm 1820), 35/1
(1950), 44/1 (1973) đến 72/1 (1992). Tài sản của 20 người giàu nhất thế giới
tương đương với tổng thu nhập cuả 2,6 tỷ người nghèo khổ trên hành tinh.
Trong đó, tổng tài sản của 8 tỉ phú đứng đầu danh sách này đã vượt tổng thu
nhập của 600 triệu người ở các nước phát triển nhất trên thế giới.
Một nghịch lý diễn ra là, chủ nghĩa tư bản lợi dụng ưu thế áp đảo của họ
đã chèn ép các nước nghèo hơn, tăng cường hàng rào bảo hộ mậu dịch. Trong
khi đó, các nước nghèo và kém phát triển càng tham gia hội nhập càng bị tụt
hậu, tới lý do họ chỉ có thể sản xuất những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp,
không qua chế biến. Điều này làm cho các nước nghèo khó có thể len chân
vào các thị trường của các nước tư bản phát triển. Vấn đề đặt ra là các nước
này cần tiếp tục cải cách chính sách, hỗ trợ kỹ thuật và các nguồn viện trợ để
đa dạng hoá nền kinh tế của họ.
Về mặt lý thuyết, toàn cầu hoá sẽ làm tăng mức sống chung trên toàn thế
giới, rút ngắn khoảng cách phát triển của các nước. Toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy
lực lượng sản xuất trên khắp thế giới, tạo bước nhảy vọt về lực lượng sản xuất
trong các nước lạc hậu. Nhưng xu thế toàn cầu hoá cũng đang dẫn tới việc các
quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, ngày càng phụ thuộc nhiều hơn
20
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


GV. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

vào bên ngoài. Đối với các nước nghèo, cần có một lượng vốn nhất định để
vực dậy nền kinh tế vốn mỏng manh và yếu kém để thoát khỏi tình trạng nợ
nước ngoài triền miên và sự phụ thuộc trên nhiều tầng nấc.

Theo tạp chí Third World Resurgence (Malaysia), No108- 109, vào đầu
năm 1996, tổng số nợ nước ngoài của các nước đang phát triển là 1,8 nghìn tỉ
USD trong đó khu vực Mỹ La Tinh nợ 655 tỉ; Châu Phi: 340 tỉ; Châu á: 857
tỉ.
Báo cáo phát triển con người (UNDP) năm 1997 nêu rõ, các nước nghèo
cần 80 tỉ USD hàng năm để giảm đói nghèo, tạo ra y tế cơ bản, giáo dục, nước
sạch, trong khi đó thế giới hàng năm chi gấp 10 lần số tiền đó (780 tỉ USD)
vào chi phí quân sự.
Điều đó cho thấy sự xoá nợ của các nước tư bản phát triển đối với các
quốc gia nghèo là cần thiết và cấp bách.Tuy nhiên, cũng thấy rõ một thực tế là
viện trợ cũng như xoá nợ luôn đi kèm theo những điều kiện chính trị hoặc
kinh tế, làm cho sự phụ thuộc vào bên ngoài của các nước đang phát triển
tăng lên.
Toàn cầu hoá kinh tế còn dẫn đến cục diện kinh tế giữa các nước ngày
càng dựa vào nhau. Một mặt, nó thúc đẩy tiến trình hiện đại hoá của các nước
đang phát triển, mặt khác, nó làm cho chủ quyền kinh tế quốc gia bị tổn
thương. Một khi các ngành then chốt trong nền kinh tế quốc dân bị các công
ty nước ngoài nắm và khống chế thì quốc gia đó sẽ khó mà giữ được độc lập
về kinh tế và chính trị. Chủ quyền quốc gia ngày càng bị hạn chế trên hai
phương diện: xói mòn quyền lực của Nhà nước và lu mờ bản sắc dân tộc. Một
mặt, toàn cầu hoá tạo điều kiện để nhân dân các nước giao lưu, hiểu biết lẫn
nhau, làm phong phú nền văn hoá đất nước; mặt khác, trong xu thế giao lưu
văn hoá quốc tế, văn hoá đồi truỵ, chủ nghĩa vị kỷ, tà giáo sẽ xâm nhập vào,
ảnh hưởng đến sức mạnh dân tộc.
Đó là chưa nói tới việc rủi ro kinh tế có thể xảy ra trong quá trình toàn cầu
hoá. Sự phụ thuộc, hội nhập lẫn nhau về kinh tế dẫn đến việc khủng hoảng
hay chấn động kinh tế của một số quốc gia có thể lan sang toàn khu vực và
toàn cầu.
Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế là con dao hai lưỡi, vừa có mặt tích cực, vừa
có mặt tiêu cực. Vì thế, các nước đang phát triển cần phải chủ động nắm bắt

21
Quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại


×