Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tổng quan dân tộc Chăm (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 22 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân tộc Chăm ..................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 3

3.

2.1.

Trồng Trọt, Chăn nuôi...................................................................................................... 3

2.2.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.3.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5

2.4.

Trao đổi mua bán.............................................................................................................. 6


Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 7
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 7

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 8

3.3.

Y phục .............................................................................................................................. 9

3.4.

Trang sức ........................................................................................................................ 11

3.5.

Ẩm Thực ........................................................................................................................ 11

3.6.

Phương tiện vận chuyển. ................................................................................................ 13

3.7.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 14

3.8.


Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 15

3.9.

Lễ hội.............................................................................................................................. 16

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 17

3.11.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 19

3.12.

Văn nghệ dân gian. ..................................................................................................... 20

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân tộc Chăm
Dân số : 145.235 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc ngữ hệ Nam Đảo, nhóm ngôn ngữ
Malayo - Polinesia.
Tên gọi khác: người Chàm, người Chiêm, người
Chiêm Thành, người Hời

Nhóm địa phương: Chiêm Thành, Hroi...
Địa bàn cư trú: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh,
Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang

Địa bàn cư trú:
Chăm H'roi bao gồm những người Chăm sống rải rác ở miền núi các tỉnh Phú
Yên, Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc
từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu
được gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo tín ngưỡng dân gian chịu ảnh
hưởng từ đạo Bàlamôn.
Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận hay Đông Chăm gồm những người Chăm cư trú
ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số khoảng 98.000
người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm
lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam. Người Chăm
Ninh Thuận-Bình Thuận có hai nhóm chính phân theo tín ngưỡng là Chăm Ahiêr
(Chăm Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm Bàni). Ngoài ra còn có một nhóm nhỏ
người Chăm Bàni đã cải sang theo Hồi giáo chính thống vào thập niên 1960 do
tiếp xúc với người Chăm Nam Bộ.
Chăm Nam Bộ hay Tây Chăm bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở
An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh; tổng số khoảng 26.700 người.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Cộng đồng này đến từ Campuchia, và có nguồn gốc xa hơn nữa lại từ Nam Trung
Bộ Việt Nam như hai cộng đồng trên. Sự hình thành nhóm Chăm Nam Bộ khởi
đầu từ năm 1819, khi vị tướng triều Nguyễn Thoại Ngọc Hầu bắt đầu huy động
sức người để đào kênh Vĩnh Tế, đã có nhiều người Chă m từ Campuchia được

tuyển mộ, sau khi con kênh được đào xong họ được thưởng công và cấp đất sinh
sống tại đây nên còn được gọi là Chăm Châu Đốc. Sau đó tiếp tục có thêm người
Chăm từ Campuchia tới, cũng như nhiều người Chăm Châu Đốc tới sống ở các
tỉnh Nam Bộ khác. Trong nhóm người Chăm này có một thành phần là người gốc
Malaysia được gọi Chăm Chà-và (liên hệ tới đảo Java, do không phân biệt được
người Java tới từ Indonesia và người Mã lai nên hai nhóm này được gọi chung là
Java). Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo chính thống nên còn được gọi là Chăm
Islam

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng Trọt, Chăn nuôi
Người Chăm cư trú ở các tỉnh
Ninh Thuận, Bình Thuận sinh
sống chủ yếu bằng nghề nông
trồng lúa nước. Nghề lúa nước,
thường xuyên cần nhiều nước,
thế nhưng hai tỉnh này lại nằm
ở vị trí bị các rặng núi che
khuất,

cho

nên

nhận

được

lượng mưa trong năm rất ít.
Trong quá trình định cư ở đây,

để tiến hành làm ruộng nước
một cách hiệu quả, nhất là tại

Dân tộc Chăm trồng lúa nước( Ảnh minh họa)

đồng bằng Phan Rang, đồng
bào đã có những thành tựu
đáng kể trong việc chinh phục vùng thiên nhiên khô hạn nhất nước này để phát
triền nghề nông. Tương truyên rằng, vua Klong Garai (1151 - 1205) cho xây dựng
đập Nha Trinh. Hệ thống gồm một đập trên sông Cái (huyện An Sơn), bốn đậ p
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

nhỏ và hai con mương: mương Cái, dài 60 km và mương Đực, dài 50km. Hệ
thống này có thề cung cấp nước cho trên một vạn ha gieo trồng.
Đập Marên trên sông Biêu do vua Pô Rômê (1627 - 1651) cho xây dựng. Ngoài
đập chính, còn có bảy đập nhỏ và một hệ thống các mương con.
Với hai đập nêu trên cùng hệ thống mương, hầu như các cánh đồng ở Phan Rang,
Phan Rí và Phan Thiết đều được đảm bảo nước cho việc gieo trồng lúa nước . Để
hệ thống thủy lợi hoạt động hiệu quả, mỗi thôn có một người chuyên trách về
thủy điện. Người này có nhiệm vụ trông coi, tu sửa đập và mương nước, đồng
thời đề xuất những vấn đê liên quan đến thủy lợi hàng năm. Ruộng của người
Chăm được chia thành ba loại: thủy điền (hamu thoòn), ruộng trầm thủy (hamuya)
và sơn điền (hamu rilon).
Ngoài cây lúa, đồng bào còn trồng bắp, đậu, mè và các loại khoai, bầu, bí...
về kỹ thuật canh tác, đồng bào Chăm sử dụng sức kéo trong nông nghiệp, dùng
hai con bò để kéo cày, bừa và trục. Đối với ruộng thủy điền - chờ mưa hoặc chủ
động tưới tiêu, sau khi khi cày, bừa, trục tơi đất, người Chăm có thế dùng kỷ

thuật sạ lúa. Khi mưa đến hạt giống ngậm nước rồi nẩy mầm.
Vùng đồng bào Chăm ở Ninh Thuận. Ninh Thuận cư trú là vùng ven biển , với bờ
biển dài đến 300km, nhưng hầu như đồng bào rất ít làm nghề đánh bắt thủy hải
sản.
Người Chăm Hroi cư trú ở miền núi các tỉnh Phú Yên, Bình Định, sinh sống bằng
nghề làm nương rẫy ở vùng cao và làm ruộng nước ở vùng thấp. Đồng bào làm
nương theo phương pháp cổ truyền: phát cây, đốt, tỉa; khi làm ruộng đồng bào
dùng hai bò kéo cày. Cây trồng chính là cây lúa nương, lúa ruộng. Con vật được
nuôi nhiều là con bò.

2.2. Khai thác tự nhiên
Tuy là cư dân có truyền thống làm nghề nông, người Chăm vẫn tranh thủ khai
thác tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống con người. Điều rõ rà ng nhất là đồng bào
khai thác gỗ từ tự nhiên để làm nhà, khai thác đất để làm mài phụ của nhà chính.
Đông bào cũng hái lượm các loại rau rừng, thu nhặt con tôm, cua, cá ở ngoài
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

đồng ruộng về làm thức ăn. Đồng bào Chăm Hroi rất chú ý khai thác nguồn lợi
kinh tế từ rừng. Đông bào lấy gỗ làm nhà, rào vườn, làm các công cụ sản xuất,
thu hái những rau, hoa quả, củ cây rừng làm thức ăn, làm thuốc phòng chữa bệnh.
Nguồn lợi kinh tế tự nhiên này đã đóng góp phần rất đáng kể cho thu nhập gia
đình.
Đánh bắt cá. Sinh sống ở hai bên bờ sông Hậu tại Châu Đốc và trên các cánh
đồng ngập nước vào tháng 7, tháng 8 âm lịch là nơi có điều kiện thuận lợi cho
phát triển ngư nghiệp, có thể tổ chức đánh cá quanh năm. Tuy nhiên, nhìn chung
ngành nghề đánh cá cũng có thời vụ. Thời vụ đánh cá phụ thuộc vào thời vụ con
nước và từng loại cá. Vụ mưa từ tháng 4, tháng 5 âm lịch lúc nước sông bắt đầu

dâng, người ta dùng chài rà, lưới bao để bắt cá chày, cá cóc, cá he, tôm trê n sông;
Vụ nước “đổ”, tháng 6 đến tháng 8 là lúc mưa đều, nước sông dâng cao ngập
đồng, cá vào sâu trong cánh đồng lúa tìm chỗ đẻ, đồng bào dùng chài để đánh bắt
nhiều loại cá khác nhau; Vụ mùa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau là mùa nông
nhàn, nước sông rút, các loại cá trẳng và cá có ngạnh theo con nước xuống sông,
các loại cá đen (cá róc, cá rô, cá trê) ở lại rút vào chỗ trũng và các đầm, đồng bào
có thể đánh bắt cá trên các đường cá rút và ở các đầm
2.3. Ngành nghề thủ công
Đồng bào Chăm ở Ninh, Bình Thuận có hai nghề thủ công truyền thống. Đó là
nghề làm gốm ở Bầu Trúc và nghề dệt Mỹ Nghiệp (tỉnh Ninh Thuận).
Nghề gốm có một sổ đặc điểm đáng chú ý là đồng bào làm gốm không cần bàn
xoay. Nghề gốm cũng là nghề nặng nhọc. Thông thường nam giới đảm nhiệm việc
này, nhưng ở Bầu Trúc, việc làm gốm lại do phụ nữ đảm nhiệm. Do không dùng
bàn xoav, cho nên, khi tạo hình gốm, người phụ nữ chạy vòng quanh sản phẩm
gốm đang thực hiện.
Phụ nữ là lao động chính trong tạo hình, tạo dáng, trang trí hoa văn cho sản phẩm
gốm; còn nam giới chỉ giúp việc lấy đất hoặc lúc nung. Nghề gốm ở Bầu trúc
không nung trong lò nung, mà xếp gốm mộc thành khối lò trên mặt đất, rồi dùng
nhiên liệu là rơm, rạ, trẩu, phân trâu, bò đã phơi khô để đun nung. Người ta phủ
phân trâu, bò lên gốm, rồi đến lớp rơm rạ. Thời gian nung chỉ trong vài giờ là
xong. Với thời gian nung rất ngắn như vậy, nhiệt độ và thời gian chưa đủ làm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

“chín” hoàn toàn gốm. Chính vì nhiệt độ nung thấp mà thành ph ẩm của gốm
thường có màu đỏ, không bền. Những đồ dùng gốm có đồ đựng, đồ dùng nhà bếp
và đồ dùng để xây tường. Với tư cách là nghề phụ gia đình, cho nên gốm chỉ được
sản xuất trong mùa nông nhàn.

Nghề dệt. Nghề thủ công truyền
thống của người Chăm là nghề
dệt. Nghề dệt thổ cẩm ở Mỹ
Nghiệp được phát triển từ nghề
dệt truyền

thống của người

Chăm tại Ninh Thuận. Là một xí
nghiệp dệt thủ công, nhưng cơ
sở sản xuất này làm ra nhiều sản
phẩm có giá trị sử dụng như
những miếng thổ cẩm đính trên khăn hoặc áo của các tu sĩ. Một số hàng dệt thổ
cầm Mỹ Nghiệp đã là hàng hóa, có mặt ở thị trường khắp cả nước, thậm chỉ có
mặt ở thị trường nước ngoài.
Ở Châu Đốc và thành phố Hồ Chí Minh nghề dệt cũng khá phát triển. Sản phẩm
dệt đã trở thành hàng hóa, buôn bán với nhiều nơi trong nước. Nhiều gia đình
thuê công nhân dệt. Người Chăm làm nghề dệt ở đây đã học hỏi kinh nghiệm dệt
của người Khmer và người Hoa để cải tiến khung dệt cổ truyền, nâng cao chất
lượng sản phẩm dệt.
2.4. Trao đổi mua bán
Trao đổi, mua bán. Ở thành phố Hồ Chí Minh có một bộ phận người Chăm
chuyên sinh sống bằng nghề buôn bán. Họ buôn bán nhỏ các mặt hàng: bán vải,
quần áo trẻ em, mỹ phẩm, bán kem; một số khác làm thợ hàn, lái xe, đạp xe ba
gác.
Nhìn chung, từ lâu những thương lái người Chăm đã có quan hệ đổi chác, buôn
bán với các dân tộc ở Tây Nguyên, các dân tộc Kinh, Lào, Căm - pu - chia và cả
một số nước ở Đông Nam Á. Một địa điểm điển hình nói lên sự phát triền buôn
bán của dân tộc Chăm là cảng Đại Chiêm trên cửa sông Thu Bồn (tỉnh Quảng
Nam).

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng người Chăm cư trú ở miền núi
Phú Yên, Bình Định ở ven đường quốc
lộ 19 (Quy Nhơn đi Plâyku, đường 7
(Tuy Hòa đi Cheo Reo), hai bờ thượng
lưu sông Đà Rằng, một số ít buôn làng
ở trên cao nguyên Vân Hòa. Cao
nguyên Vân Hòa là cao nguyên đất đỏ
khá lớn với những đồng cỏ khá rộng
thuận tiện cho việc chăn nuôi đại gia
súc (bò).
Làng người Chăm ở Ninh, Bình Thuận được dựng chủ yếu dọc theo phía Tây quốc lộ 1,
còn những lăng mộ - một thành tố văn hóa gắn kết với làng, thì được dựng trên những
giồng đất ở ven biển phía đông quốc lộ. Trong làng dân tộc Chăm có nhiều dòng họ, mỗi
dòng họ thường cư trú ở một khu vực. Đồng bào thường cư trú theo huyết thống, tính
theo dòng mẹ. Không gian làng thường ít cây cối. Đồng bào quan niệm, có cây cối, nhiều
loài chim, cú đen đậu. Tiếng cú kêu đêm là báo hiệu điềm dữ.
Làng người Chăm Bà ni thường có thánh đường ở trung tâm làng và nghĩa địa ở phía
bắc... Nghĩa địa và thánh đường là hai đặc trưng quan trọng của Chăm Bani. Tuy Chăm
Bà ni có tiếp nhận một số nét của Hồi giáo, nhưng trên thánh đường của họ khó tìm thấy
ảnh hưởng của Hồi giáo Ả Rập.
Người Chăm ở Châu Đốc (An Giang) cư trú ở hai bên bờ sông Hậu, trên các cù lao sông,
gần các trục quốc lộ. Đây là những nơi thuận tiện cho việc làm ăn: đánh cá, buôn bán của
đồng bào. Mỗi làng có một thánh đường là trung tâm sinh hoạt tâm linh và đời thường

của dân làng. Thánh đường ở đây mang dáng dấp của thánh đường Ả Rập.
Nét đặc trưng trong quan hệ xã hội người Chăm được thê hiện qua quan hệ giữa các
nhóm tôn giáo: nhóm Chăm Bàlamôn, nhóm Chăm Bà ni và nhóm Chăm Hồi giáo; và
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

quan hệ thể hiện qua giữa hai khu vực: khu vực Nam Trung Bộ và khu vực Nam Bộ.
Nhóm Chăm ở Nam Trung Bộ đại diện cho xã hội Chăm truyền thống, còn bảo lưu nhiều
yếu tố văn hóa - xã hội cố truyền; nhóm Chăm ở Nam Bộ chịu nhiều ảnh hưởng của văn
hóa - xã hội Hồi giáo.
Trong nhóm Chăm Bà la môn tầng lớp tăng lữ gọi là Pasêh. Họ được coi là trí thức trong
xã hội, họ biết chữ, biết phong tục, tập quán, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn
giáo. Pasêh có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực tôn giáo và cả đời thường của tín đồ Bà la
môn.
Các thôn theo đạo Bà ni, về tổ chức xã hội, cơ bản không khác các thôn Bà la môn. Song,
đương nhiên về quản lý xã hội, tầng lớp tu sĩ Bà ni - thày chang, đứng ra điều hành, quản
lý xã hội, thay cho pasêh của đạo Bà la môn
Trong mỗi làng Chăm Islam đều có một ban hakêm chăm lo từ việc đạo đến việc đời.
Ban hakêm do dân bầu chọn từ các trưởng xóm. Họ là những người có đạo đức, có uy tín
nhờ vào sự hiểu biết và vận dụng giáo lý vào cuộc sống - hướng dẫn tín đồ thực hành một
lối sống phù hợp với đức tin và giáo luật đạo Hồi

3.2. Nhà ở
Nhà ở của đồng bào Chăm ở
Ninh, Bình Thuận là nhà
trệt, được xây dựng từ
nguồn nguyên vật liệu tại
chồ lấy từ tự nhiên: gỗ, tre,

đất, đá. Khuôn viên nhà
gồm nhiều ngôi nhà: từ 2
đến 8 ngôi nhà. Những ngôi
nhà trong khuôn viên được
xây dựng theo một quy định
nghiêm ngặt và từng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

ngôi nhà đều có chức năng của nó như: thang hlam - nhà kho, thang yơ - nhà của vợ
chồng mới cưới, thang gan -nhà ngang, thang mưyaw - nhà sống, thang ging - nhà bếp,
thang tông, thang mblìèng - nhà của con gái còn bé. Mặt bằng các ngôi nhà được thiết lập
theo hình chữ nhật, chia thành ba gian. Thangyơ là loại nhà truyền thống của đồng bào
Chăm ở Ninh, Bình Thuận. Tất cả mọi nghi lễ cưới xin, cúng bái, ma chay đều được thực
hiện trong ngôi nhà này. Điều đặc biệt ở đây là trong khuôn viên nhà ở, có ngôi nhà được
lợp hai mái: mái dưới là mái đất trát, dày khoảng 10 cm; phía trên mái dưới khoảng 20cm
người ta lợp mái nữa bàng cỏ gianh. Lý do lợp hai mái chính là để chổng khí nóng của
mặt trời. Như chúng ta biết, cả nước ta, đây là nơi duy nhất có sa mạc, cho nên nhiệt độ
cao hơn nơi khác.
Nhà ở truyền thống của người Chăm ở Châu Đốc là nhà sàn. Người Chăm ở đây theo đạo
Islam, cho nên trên ngôi nhà cỏ nét trang trí mang tính thẩm mỹ của đạo Islam như: trang
trí các diềm mái, bao lơn gỗ phía trước nhà với các họa tiết chạm hình kỷ hà, hoa lá hoặc
vành trăng khuyết - dấu hiệu của đạo Islam. Khi dựng xong nhà, người ta dán lên cửa hai
lá bùa - hai câu trong kinh thánh Coran để trừ quỷ “say tron
Vốn là người di cư từ Nam Trung Bộ đến An Giang, trong ngôi nhà của người Chăm ở
đây còn giữ nét mẫu hệ thông qua hiện tượng thờ cúng trầu, cau nơi cây cột cái (tính mẫu
hệ) trong nhà sàn. Mặt khác, mặt tiền nhà người
Chăm - phía đầu hồi nhà cũng là đầu cây đòn dông luôn vuông góc với dòng sông rạch

hay đường lộ. Đồng bào giải thích ràng, người Chăm vốn là cư dân sinh sổng trên biển,
trên sông, nên đầu đòn dông được coi như mũi thuyền. Quay đầu đòn dông xuôi theo
hướng nước chảy thì mọi may mắn của cải sẽ trôi xuôi đi mất.
3.3. Y phục
Trong truyền thống nam giới Chăm ở Ninh, Bình Thuận thường mặc xà rông (hoặc quần
váy, tiểng Chăm là bek khăn). Đó là một tấm vải khổ rộng trên một mét, chiều dài gấp
rưỡi vòng bụng. Khi mặc họ dùng thêm một thắt lưng vải dệt bằng chỉ màu (talay khanh),
quấn buộc lại và thả chùng mối xuống phía trước. Áo đàn ông là áo dài chui đâu, không
xẻ tà, thân áo được ghép bàng bốn miếng vải, có viền hoa văn ở trước và sau lưng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Phụ nữ Ninh, Bình Thuận mặc váy (tiếng Chăm là khăn) và áo (ao). Váy dài buông
chùng quá gót chân. Vải may váy thường được chọn màu đen, màu sẫm. Áo dài, không
xẻ tà, mặc chui đầu, khi mặc phủ trùm lên váy.
Đàn ông và phụ nữ khi ra
đường xa, làm ruộng, đều
đội khăn. Khăn phụ nữ
thường dài từ l,2m đến
l,5m có trang trí bằng hóa
văn dệt. Khăn đàn ông
ngắn hơn.
Người Chăm ở An Giang,
đàn ông mặc xà rông
(khăn hoặc xà rông). Đó là
loại váy dài từ hông đến
mắt cá chân. Vải làm xà rông là vải kẻ sọc hoặc ca rô, khổ vải vừa với chiều cao của

người, bề ngang vải gấp đôi vòng bụng, khi mặc mối được dắt bên hông. Mặc áo chiva
màu trắng - chiếc áo dài quá mông, rộng, xẻ ngực, đính khuy đồng. Ở nách áo nối thêm
vải khiến áo thêm rộng.
Trong các nghi lễ Hồi giáo, các vị chức sắc Hồi giáo còn mặc áo achuba, màu trắng thân
dài gần chấm gót. Áo mặc với xà rông trắng và đầu đội khăn haji cũng màu trắng.
Phụ nữ An Giang mặc loại váy tiếng Chăm gọi là khăn. Váy dài khi mặc phủ kín chân.
Thiếu nữ mặc áo bà ba, sơ mi với váy. Chỉ trong các dịp lễ tết, chị em mới mặc trang
phục truyền thống.
Phụ nữ Chăm Hroi mặc loại váy quấn, có một miếng đóp ở đằng sau như váy phụ nữ Ba
Na.
Đàn ông và phụ nữ khi ra đường đều dùng khăn vải đội đầu.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

3.4. Trang sức
Trang sức. Ở Ninh, Bình Thuận, trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy. Một số người
còn xăm mình, xăm trên cánh tay, trên ngực, trên đùi như một cách trang trí độc đáo. Phụ
nữ ở Ninh, Bình Thuận búi tóc thành lọn, cài trâm hoặc kẹp tóc, đội khăn khi đi ra ngoài
đường. Phụ nữ còn hay đeo một loại nhẫn bằng kim loại có khảm mặt đá đen (karah
mưta). Đây là loại trang sức mang tính dấu hiệu của những người đồng tộc nhận ra nhau.
Trong các dịp hội hè, lễ lạt, tết nhất, con trai, con gái Chăm còn dùng đồ trang sức bàng
chiếc thắt lưng do người Chăm tự dệt. Đóp là một dải vải hẹp có nhiều hoa văn trang trí,
màu sặc sỡ.
Ở An Giang, nam giới trang trí đơn giản, họ đeo nhẫn bằng bạc hoặc mã não. Phụ nữ An
Giang đeo vòng tay bằng vàng, bạc được chạm trổ tinh vi, khéo léo. Thiếu nữ mới lớn
còn đeo cả vòng chân. Các thiểu nữ còn rất thích đeo bông tai bằng vàng, cài trâm vàng,
bạc, đồi mồi trên mái tóc. Và những chiếc thắt lưng dệt bằng kim tuyến.

3.5. Ẩm Thực
Người ta nói rằng, phải ngồi bên mâm cơm của người Chăm thì mới thấy hết được những
nét đẹp văn hóa trong ứng xử của họ.
Nếu người Kinh "ăn trông nồi, ngồi trông hướng" thì với người Chăm, ăn uống hàng
ngày hay ngày đình đám đều phải tuân theo các phép ứng xử có từ lâu đời.
Hàng ngày, người Chăm trải chiếu hoặc cà tăng theo chiều Đông - Tây để dọn ăn.
Thường thường buổi sáng và buổi chiều ăn ngoài sân còn buổi trưa trong hiên nhà. Thức
ăn được dọn trên mâm và ngồi theo thứ bậc trong gia đình. Người phụ nữ (mẹ, chị)
thường ngồi gần nồi niêu vừa ăn vừa múc bổ sung thức ăn cho mọi người.
Người Chăm không cầu nguyện trước khi ăn, và bữa ăn bắt đầu khi người lớn tuổi cầm
đũa. Trong lúc ăn không được nói chuyện nhảm hoặc cãi cọ, không để rơi vãi hạt cơm và
nếu vào buổi chiều phải thắp đèn dù trời hãy còn mờ sáng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Ngoài ruộng rẫy, nếu không phải là buổi cúng thì bữa ăn không cần dọn trên mâm mà bê
đặt dụng cụ đựng thức ăn chính giữa, mọi người dùng chung. Trường hợp không mang
theo đũa chén thì họ vót cây rừng hoặc có khi dùng lá cây làm muỗng. Và mọi thành viên
ngồi quanh không theo bậc.

Tung Lò Mò – Một món ăn độc đáo của dân tộc Chăm (Ảnh : sưu tầm )
Tùy theo tính chất và đạo giáo Bàlamôn hay Bàni mà người Chăm có cách dọn ăn khác
nhau.
Nếu là đám tang ở cả hai đạo giáo dọn ăn theo chiều Bắc - Nam, còn nếu là các đám khác
như đám cưới, hoặc lễ cúng thần thánh, họ dọn ăn theo chiều Đông - Tây.
Một cô gái Chăm ở xóm Lama, Vĩnh Trường trong một lễ đặt tên. Đám đặt tên, cưới hỏi,
người Chăm có ăn uống, nhưng nói họ ăn nhậu như một số phương tiện truyền thông là

họ tức giận, vì rượu, bia bị giáo luật cấm uống.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Người Chăm Bàlamôn dọn thức ăn trên mâm cho hai hoặc bốn người, còn người Chăm
Bàni chỉ dọn mỗi mâm có hai vị cao niên hoặc chức sắc ngồi trên cùng, những người còn
lại dọn tiếp diễn đặt trực tiếp chén đãi trên mặt chiếu. Được ăn khi mâm trên cùng đã cầm
đũa.
Các vị chứcs ắc ở hai đạo giáo khi tham gia cúng kính trong nhà lễ (Kajang), mọi lễ vật
(các món ăn - uống) dọn trên mâm cao chân lót lá chuối, gọi là salaw takai, mâm của
người Chăm Bàlamôn có 5 chân, mâm người Bàni 6 chân. Các vị chức sắc ngồi theo kiểu
duỗi tréo (Jauh maiy), và trước khi dùng tất cả đều cắn hạt muối và thực hiện nghi thức
xin phép bằng động tác và lời niệm thầm trong miệng.
Người đàn ông Chăm dùng cơm nơi đình đám cũng như ở nhà đều cùng tư thế (ngồi xếp
bằng), còn người đàn bà tư thế duỗi chéo như các vị chức sắc đó là tư thế chuẩn mực và
bắt buộc.
Điều đáng lưu ý là bất kỳ đình đám nào, người đàn ông cũng được mới ăn uống trước
mới đến phụ nữ.
Trong lễ cưới hai vợ chồng son được cùng ăn trên một cái mâm với nhiều thức ăn thể
hiện sự chung thủy, gắn bó và giàu có.
Có thể thấy, ứng xử trong bữa ăn đã trở thành nếp, ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người
dân Chăm. Qua đó, chúng ta không chỉ thấy được nét đẹp về văn hóa ứng xử , tôn giáo
mà còn thấy được tính cách của mỗi người.
3.6. Phương tiện vận chuyển.
Đồng bào có cách vận chuyên độc đáo
là mang các vật nặng để lên đầu: đội vò
nước trên đầu... và dùng xe hai bò kéo
phương tiện vận chuyển.

Mang vác bằng cách đội lên đầu
của phụ nữ Chăm
(Ảnh : sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

3.7. Ngôn ngữ
Tiếng nói dân tộc Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo, cùng hệ ngôn ngừ với một sổ dân tộc ở
Việt Nam như: Ê Đê, Gia
Rai...
Chữ viết. Dân tộc Chăm
có hai thứ chữ viết khác
nhau tương ứng với hai
tôn giáo và hai vùng cư
trú tập trung: Ninh, Bình
Thuận và An Giang.
Bảng chữ cái và chữ số
của dân tộc Chăm
( Ảnh : sưu tầm )

Chữ viết của người Chăm ở Ninh, Bình Thuận được xây dựng từ thể kỷ thứ 5-7 trên cơ
sở một hệ thống chữ viết Ấn Độ (sanscrit). Thể kỷ thử 9 xuất hiện những bia dùng chữ
Chăm theo kiểu chữ Ấn Độ. Đến thế kỷ thứ 10 xuất hiện hệ thống chừ Chăm mới - Rik
Chăm và được xem là chữ viết chính thức của dân tộc Chăm . Ở Đông Nam Á có một số
dân tộc cùng sử dụng chữ Ấn Độ cổ đại, nhưng chữ Chăm có đặc điểm khác với các chữ
cùng nguồn gốc Ấn Độ là nó gần gũi với chữ Ấn Độ về mặt cấu trúc.
Sự xuất hiện chữ viết Ẩn Độ cổ đại trong dân tộc Chăm đã nói lên quan hệ tiếp xúc giữa

người Chăm và người Ẩn Độ từ thời trước đó; mặt khác việc này cũng là dấu hiệu nói lên
ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cổ đại vào Việt Nam nói riêng và vào Đông Dương nói
chung.
Ở An Giang người Chăm sử dụng chữ Ả Rập trong nghi lễ tôn giáo Islam.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

3.8. Tín ngưỡng tôn giáo
Trong dân tộc Chăm tồn tại 3 nhóm tôn giáo là nhóm theo đạo Bà la môn, nhóm theo đạo
Bà ni và nhóm theo dạo Islam (Tin lành).
Người Chăm làm ăn ở các tỉnh Ninh, Bình Thuận thuộc nhóm Bà la môn và nhóm Bani.
Đạo Bà la môn phát sinh ở Án Độ, trước khi đạo Phật ra đời hàng nghìn năm. Theo quan
niệm của đạo Bà la môn, Brahman là một vị thần. Thần Brahman là linh hồn của vũ trụ.
Brahman còn biểu hiện của tô tem giáo (thờ bò, thờ khỉ, một số cây...). Theo thần thoại
của Brahman, thì con người vũ trụ khổng lồ - purusa sinh ra 4 đẳng cấp: đăng cấp tăng lữ
sinh ra từ miệng, đẳng cấp chiến sĩ từ tay, đắng cấp
thứ dân từ đùi, đẳng cấp cùng dân từ chân.
Đạo Bà la môn tôn thờ ba vị thần: Bà la môn,
Vishnu và thần Shiva. Bà la môn là vị thần sáng tạo,
Vishnu là vị thần bảo tồn, Shiva là vị thần huỷ diệt.

Bà La Môn (Ảnh sưu tầm)

Nhìn tổng thể Bà la môn có ảnh hưởng lớn đến đời
sống tinh thần của người Chăm ở Nam Trung Bộ. Điều
này được thể hiện qua các công trình kiến trúc tháp và


lễ hội của người Chăm..
Đạo Bà la môn dần dần được địa phương hóa - đồng hóa thành các vị thần dân tộc Chăm.
Đó là Pô Naga - mẹ xứ sở, và hai vị vua rất có công: Pô Klong Garai và Pô Rômê. Hàng
năm, tu sĩ và dân chúng tổ chức tế lễ tại lăng, tháp thờ các vị vua - thần này.
Nhóm đạo Bà ni là Chăm theo Hồi giáo, nhưng còn bảo lưu nhiều yếu tố tín ngưỡng dân
gian bản địa và chịu ảnh hưởng của Án Độ giáo như thờ bò, thờ khỉ... tạo nên hình thức
biến thái của Hồi giáo ở nước ta - Hồi giáo Bà ni. Kiến trúc biểu tượng của Bà ni là thánh
đường Bà ni.. Nhóm Chăm Bà ni tìm cách truyền bá kinh Co ran vào vùng người Chăm
bằng các bản viết tay, tìm cách ứng dụng cho thích hợp với môi trường xã hội địa
phương, nhưng ít thành công.
Người Chăm ở An Giang và Tp Hồ Chí Minh đều theo Hồi giáo. Ở đây mỗi làng có một
thánh đường islam. Islam theo tiếng Ả Rập là thuần phục. Đạo Hồi tôn thờ thánh Ala và
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

nhà tiên tri Mohamet. Người Chăm ở đây có xu hướng kết gắn với cộng đồng Hồi giáo
Islam hơn là với cộng đồng dân tộc Chăm . Chăm Islam lại gắn kết với giáo hội nước
ngoài, trước năm 1975, thường xuyên quan hệ với Hồi giáo Mã Lai, cử người sang Mã
Lai học và mang kinh Co ran từ đó về Việt Nam để truyền bá tại Nam Bộ.
3 .9 .

Lễ hội

Dân tộc nào cũng có lễ hội của mình. Lễ hội gắn liền những quan niệm tôn giáo. Đồng
bào Chăm theo hai tôn giáo là Bà la môn và Islam là chính, do vậy với người Chăm có
hai lễ hội liên quan đến tôn giáo đáng chú ý là lễ hội Katê, lễ Ramadan và lễ tết Haji.
Lễ hội Katê là lễ hội của người Chăm sinh sổng ở các tỉnh Nam Trung Bộ, theo đạo Bà la
môn. Lễ hội Katê - tết của người Chăm Bà la môn diễn ra ngày 01 - 7 - lịch Chăm

(khoảmg 14 - 15 - 9 âm lịch), trong các tháp Chăm. Trong buổi lễ, ở các tháp lớn trong
vùng như: Po Klông Garai, tháp Pô Rôme, Po Naga... thường có một ban nhạc và một

Lễ hội Katê – Lễ chính
của người Chăm
( Ảnh: sưu tầm )

ban múa nữ trình diễn những điệu múa chúc mừng sau khi các tu sĩ và Bà Bống đã thực
hiện xong các nghi lễ cần thiết và sau mỗi lần có người cầu nguyện xong, ở đây có tục lệ
là mỗi người đến cầu nguyện, van vái xong phải múa đế hiến thần linh. Chính tục này đã
góp phần bảo tồn múa Chăm. Lễ hội Katê tôn thờ vị thần tối cao sinh ra vạn vật và thần
thánh hóa các nhân vật lịch sử của dân tộc Chăm.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Lễ Ramadan là của người Chăm Hồi giáo Islam ở An Giang, diễn ra trong thòi gian một
tháng, bắt đầu từ 01 - 9 Hồi lịch. Vào dịp lễ hội này, người Chăm đi tảo mộ, mời tổ tiên
ông bà về dự tết; bà con họ tộc thân hữu tụ tập chúc phúc lẫn nhau, cầu tổ tiên phù hộ,
làm ăn phát đạt. Trong dịp này, người Chăm ăn kiêng - chỉ ăn trước khi mặt trời mọc và
sau khi mặt trời lặn. Tín đồ người Chăm học kinh thánh Ala. Kết thúc lễ người ta thi đọc
thuộc lòng kinh của vị thánh sáng tạo ra đạo Islam - thánh Ala.
Lễ tết Haji là tết tiễn những người học giỏi, có đức hạnh, có khả năng tài chính hành
hương về đất thánh Mecca. Trong đời tín đồ, ai cũng mong muốn được một lần hành
hương về Mecca. Sau khi hành hương đến Mecca, tín đồ đó sẽ được mang tên Haji trước
họ tên mình. Tín đồ không được đi Mecca thì tổ chức Haji tại thánh đường. Tín đồ và các
chức sắc đều ăn mặc đúng trang phục của đạo Hồi. Phần nghi lễ mang tính giáo dục đạo
đức tôn giáo rất cao. Trong buổi lễ này, các tín đồ tổ chức ăn bừa cơm tại thánh đường,
nhưng phải ăn bốc, không dùng đũa. Sau bữa cơm là thời điểm sinh hoạt của nữ giới. Các

cô gái đã đính hôn thì thăm nhà chồng tương lai; các cô gái chưa đính hôn thì đi thăm
người thân hoặc tiếp bạn bè. Với các bà có con trai thì đây là dịp xem mặt cô dâu.

3.10.

Tục lệ cưới xin

Hôn nhân của người Chăm là ngoại hôn dòng
tộc. Không có hiện tượng quan hệ hôn nhân
giữa những người trong cùng dòng tộc. Nét
đặc trưng nhất của người Chăm Bà la môn
trong cưới xin là gái đi hỏi chồng và cưới
chồng về nhà mình. Tuy cư trú bên nhà vợ,
nhưng khi qua đời, người đàn ông được đưa
về nghĩa địa bên dòng họ mẹ đẻ. Đôi vợ
chồng mới ở với bố mẹ vợ tại nhà thang yơ
cho đến khi cô em gái vợ lấy chồng. Lúc đó, mới được phép dựng ngôi nhà riêng trong
khuôn viên nhà cha mẹ vợ hoặc trong phạm vi cư trú của dòng họ bên vợ.
Người Chăm ở Nam Bộ, chịu ảnh hưởng nặng nề luân lý đạo đức của Hồi giáo, cho nên
tư tưởng cuả Hồi giáo cũng chi phối, coi việc lập gia đình, sự chung thủy và giữ gìn hạnh
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

phúc lứa đôi là hành động tu hành. Trai, gái không có quyền tự do yêu nhau, lấy nhau.
Đám cưới chỉ được tiến hành khi đạt được bốn điều kiện sau: Đôi trai gái không có quan
hệ dòng tộc; được sự đồng thuận của cha, mẹ hai bên gia đình; phải có người bảo hộ (cha
hay anh em trai) của cô gái đứng ra gả; có hai nhân chứng - những người hiểu biết rõ về
gia đình và cô gái đó. Hai nhân chứng thường là hai người đàn ông. Trường hợp không

có hai người đàn ông làm nhân chứng thì có thể thay bằng bốn người đàn bà làm nhân
chứng.
Lễ cưới của người Chăm ở Nam Bộ được tổ chức trong ba ngày: ngày vác chông, ngày
nhóm họ và ngày đưa rể. Mỗi ngày có một nghi lễ khác nhau:
Ngày vác chông - ton - khà - ghề, gia đình chú rể mang một cái giường, một chiếc chiếu
và một tấm đệm đến nhà cô dâu. Đại diện hai gia đình đọc Kinh cầu nguyện trên chiếc
giường, sau đó gia đình cô dâu trang trí phòng cưới với những tấm tigai sặc sỡ, phông sau
màu trắng với dòng chữ chúc hạnh phúc - Selamathersending, với những tấm rèm tuyệt
đẹp, những chiếc gối thêu hạt cườm, xung quanh chỗ ngồi của cô dâu trên chiếc giường
có trải đệm trắng hoặc sặc sỡ.
Ngày nhóm họ - hagây thừng Pgúc là ngày đãi bà con trong họ hàng và những người đến
giúp việc. Gia đình bên nào chiêu đãi bà con họ hàng của gia đình bên ấy. Đêm hôm đó,
bên nhà gái, chỉ các cô gái trong xóm đến chia vui với cô dâu, tuyệt đối không một bóng
con trai. Bên nhà trai cũng tổ chức chiêu đãi, nhưng cũng chỉ có con trai chúc nhau, chứ
không có con gái tham dự. Nhân ngày này người ta tổ chức nhiều món ăn truyền thống
của dân tộc Chăm như: cari, canh thính -pàipging. Cari chua - Yhor cha... và các món
bánh như bánh nghệ - pay - kgah, bánh bông lan - ha pum, bánh gừng - háp p ngừ, bánh 0
chim - pay chàn;
Ngày đưa rể - hep nghênh tênh la kay, theo tục lệ người Chăm, ngày cuối lễ của lễ cưới
không phải là đón dâu, mà là đưa rể về nhà cô dâu. Người Chăm sử dụng lộng - payung
lùn che cho chú rể trên đường đi về nhà cô dâu. Đưa chú rể về nhà cô dâu trong ngày
cưới là tàn dư chế độ mẫu hệ còn bảo lưu trong dân tộc Chăm theo Hồi giáo. Trước khi
chú rể đến nhà cô dâu, tại phòng cưới, cô dâu ngồi trên giường cưới trong tư thế lễ lạy,
bên cạnh cô dâu là những chiêc gối thêu hạt cườm sặc sỡ, xung quanh là những người
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

trong họ hàng và các cô gái cùng nghe vị giáo cả (hoặc người lớn tuổi trong đạo), đọc

kinh cầu nguyện.
Đoàn người đưa chú rể, mang theo các món quà: một mâm trầu, một ô bánh, một ô gạo.
Chú rể vào phòng cưới, chỉ ngón tay vào trán cô dâu và ngồi bên cạnh cô dâu. Cả hai
người cùng nghe lời cầu nguyện: Nguyện cầu chí đại tôn những điều tốt đẹp cho đôi vợ
chồng.
Trong ngày cưới, trang phục của chú rể không khác trang phục của ngày thường bao
nhiêu, nhưng trang phục của cô dâu lại hết sức lộng lẫy. Cô dâu thay đổi nhiều sắc áo
khác nhau trong suốt những ngày cưới. Cô dâu không mặc áo cưới phương tây, mà vẫn
mặc chiếc áo dài không xẻ tà và chiếc xà rông tơ tằm do gia đình tự dệt với các hoa văn
màu sắc sặc sỡ, rất mịn màng, tinh xảo. Ngày cưới, cô dâu thường dùng đồ trang sức:
vòng, chuỗi, vòng cổ, vòng tay, nhẫn (cà rá) và hoa tai, v.v...
Một điểm rất đặc trưng trong tiệc cưới là người ta đưa thức ăn vào phòng riêng cho cô
dâu, chú rể ăn riêng .
3.11.

Tập quán tang ma

Tang ma là nghi lễ dành cho người quá cố,
là sự ứng xử của người sống đổi với người
chết. Người Chăm theo hai tôn giáo khác
nhau, từ đó cũng có hai cách mai táng khác
nhau: hỏa táng và thổ táng. Người Chăm
theo đạo Bà la môn thì hỏa táng, còn người
Chăm theo đạo Islam thì thổ táng. Thổ táng
hay hỏa táng cũng chỉ là xử lý phần xác
chết, còn với phần hồn thì người Chăm có
Hỏa táng (Ảnh sưu tầm)
nghi lễ Dam kakdhong. Dam kak dhong là nghi lễ tiễn linh hồn người chết lên thiên đàng
không về quấy quả người sống nữa và chắc chắn là người chết đã được xóa mọi tội lỗi
trên trần gian.


N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Người Chăm theo Hồi giáo thì thổ táng, nhưng trước khi đi chôn phải làm lễ ở thánh
đường. Nhà thờ phủ lớp vải màu xanh da trời lên người chết, coi miếng vải đó là phương
tiện đưa linh hồn người chết lên trời gặp thánh Ala. Xác người chết không cho vào quan
tài, được chôn trong hầm hàm ếch, mặt quay về phía Mecca (Ả Rập).
3.12.

Văn nghệ dân gian.

Vặn học. Văn học dân gian Chăm có nhiều thể loại: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ,
dân ca, ca dao tục ngữ, thành ngữ. Trong truyền thuyết người Chăm có lưu truyền câu
chuyện về hai thị tộc: thị tộc “cau”- pinăng và thị tộc “dừa” - liu . Ngày nay đồng bào thờ
cúng tổ tiên theo hai dòng họ: dòng pinăng - núi (aatu chok) thuộc tầng lớp bình dân và
dòng liu - biên (atau taxi) thuộc tầng lớp quý tộc. Chủ đề lớn của văn chương Chăm là
phản ánh tâm lý dân tộc và các khía cạnh xã hội(1). Truyện thần thoại đáng lưu ý nhất
trong đồng bào Chăm là những truyện nói về các vị thần sáng tạo ra vũ trụ, về nữ thần Pô
Nagar được thờ trong Tháp Bà ở Nha Trang. Đồng bào Chăm có kho tàng truyện cổ tích
phong phú. Truyện cổ tích phản ánh được nhiều mặt quan hệ xã hội như xung đột giữa
Bà la môn giáo và Hồi giáo, về chế độ mẫu hệ. Dân ca, ca dao tục ngữ, thành ngữ đều rất
phong phú. Đáng chú ý ở đây là các bài hát lễ. Khác với nhiều dân tộc khác, các bài hát lễ
thường có nguồn gốc là sử thi, được các tu sĩ lưu truyền, ca ngợi công đức, sự oai linh
của các vị vua, các vị anh hùng dân tộc. Hát lễ được xướng lên trang trọng trong các dịp
lễ làm nao nức lòng người. Đó là loại sinh hoạt tinh thần đặc sắc của dân tộc Chăm.
Trong văn học dân tộc Chăm, thể loại trường ca cũng rất hấp dẫn. Một số trường ca nổi
tiểng như: Sakykay, Ramayana,Umurup. Umưrup là trường ca phản ánh sự xung đột giữ

Bà la môn với Hồi giáo.
Điêu khắc là một loại hình nghệ thuật độc đáo của người Chăm. Nét độc đáo thể hiện ở
điêu khắc bằng đá. Từ đá người Chăm tạc tượng thần: Shiva, Vìshnu, Uma (vợ thần
Shiva), Lakmi (vợ thần Vishnu), Indra, Apsara; tượng người: nhạc sĩ, tu sĩ, chiến sĩ,
người cầu nguyện; tượng động vật huyền thoại: bò Nandin (vật cưỡi của Shiva), chim
Garuda (vật cưỡi của Vishnu), voi Ganeca, quỷ Asura; động vật có thật như: voi, sư tử.
Điều đặc biệt hơn là trong các tác phẩm điêu khắc bằng đá của người Chăm có nhiều hình
ngực phụ nữ, hình linga (vật dương) vầyoni (vật âm).

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

Ngoài các tượng tròn, điêu khắc của đồng bào Chăm còn có nhiêu phù điêu trên tường
tháp, cửa tháp, đỉnh tháp, góc tháp. Các tác phẩm điêu khắc của người Chăm thường gắn
liền với các di tích tôn giáo, phục vụ mục đích tin ngưỡng tôn giáo.
Âm nhạc. Nhạc cụ của người
Chăm khá phong phú. Những
nhạc cụ mang tính đặc trưng
của dân tộc Chăm là các loại
trống như: trống ginăng, trống
baranưng, chiêng đồng và kèn
saranai. Nhạc cụ của người
Chăm chỉ sử dụng trong nghi
lễ, phong tục, không phải chủ
yếu đáp ứng nhu cầu thưởng
thức và giải trí của quảng đại quần chúng.
Nét đặc trưng trong cơ cấu xã hội của dân tộc Chăm là một dân tộc có ba nhóm tôn giáo
khác nhau và cư trú ở hai vùng xa nhau, biệt lập với nhau. Ba nhóm tôn giáo đó là Bà la

môn, Bà ni và Hồi giáo (Itslam); hai vùng xa nhau, biệt lập với nhau là vùng Ninh Thuận,
Bình Thuận và vùng An Giang, Tây Ninh và Tp. Hồ Chí Minh. Người Chăm sinh sống ở
Ninh Thuận, Bình Thuận theo đạo Bà la môn và đạo Bà ni, còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ
truyền, nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu cho đạo Bà la môn và đạo Bà ni; Còn người
Chăm ở An Giang, Tây Ninh và tp. Hồ Chí Minh, theo đạo Hồi, tiếp thu nhiều hình ảnh
của cư dân Ả Rập, sử dụng chữ Ả Rập trong cúng bái, dựng thánh đường Hồi giáo. Cư
dân ở đây tỏ rõ xu hướng gắn với cộng đồng Hồi giáo hơn là với cộng đồng dân tộc
Chăm .
Tùy theo mỗi địa phương, các tín ngưỡng cổ truyền có sự hiện diện ở những mức độ khác
nhau. Ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, người Chăm theo Bà la môn giáo, thờ đa thần thì
tín ngưỡng dân gian được bảo lưu đậm nét hơn; Cũng ở vùng này, nhưng người Chăm Bà
ni, theo Hồi giáo, thì còn bảo lưu nhiều yếu tố tín ngưỡng dân gian ít hơn. Còn người
Chăm ở Nam Bộ - An Giang, tp. Hồ Chí Minh và Tây Ninh, thì tư tưởng Hồi giáo chi

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 22


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CHĂM | Hoàng Trần

phối toàn bộ cuộc sổng tinh thần của người Chăm. Các tín ngưỡng dân gian còn chỉ là
những tàn dư, rất mờ nhạt.
Bên cạnh những sinh hoạt tinh thần thuộc Bà la môn giáo và Hồi giáo, sự tồn tại của tín
ngưỡng dân gian được biểu hiện là tín ngưỡng đa thần, là những kiêng kỵ, tập tục, v.v...

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 22



×