Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tổng quan dân tộc Cơ Tu (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 17 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Cơ Tu ................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 3

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 3

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 4


Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 5
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 5

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 7

3.3.

Gia đình ............................................................................................................................ 8

3.4.

Trang phục........................................................................................................................ 8

3.5.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 9

3.6.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 10

3.7.

Ngôn ngữ. ....................................................................................................................... 10

3.8.


Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11

3.9.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................... 13

3.10.

Sinh đẻ ........................................................................................................................ 14

3.11.

Tang ma ...................................................................................................................... 15

3.12.

Văn học nghệ thuật ..................................................................................................... 15

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Cơ Tu
Dân số : 61.588 người (2009)
Ngôn Ngữ: thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á,
nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Tên gọi khác: người Ca Tu, Gao, Hạ,
Phương, Ca-tang

Nhóm địa phương: Ka Tu, Ca Tu, Gao,
Hạ, Phương, Ca tang.
Địa bàn cư trú: Quảng Nam, Thừa Thiên
Huế, Đà Nẵng, Tp.Hồ Chí Minh

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Tu ở Việt Nam có dân
số 61.588 người, cư trú tại 38 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Tu cư trú
tập trung tại các tỉnh: Quảng Nam (45.715 người, chiếm 74,2% tổng số người Cơ
Tu tại Việt Nam), Thừa Thiên-Huế (14.629 người, chiếm 23,8% tổng số người Cơ
Tu tại Việt Nam), Đà Nẵng (950 người), thành phố Hồ Chí Minh (54 người).

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Dân tộc Cơ Tu sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy. Việc làm rẫy
bắt đầu từ chọn đất. Theo kinh nghiệm của đồng bào chọn đất căn cứ vào màu
đất. Đất tốt nhất là đất có lớp mùn dày và xốp. Mùa chọn rẫy thường vào tháng 12
và tháng 1 theo lịch của đồng bào. Cách tính lịch phổ biến ở trong vùng là theo
chu kỳ mặt trăng mọc và lặn. Mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, cũng
có tháng đủ, tháng thiếu, năm nhuận, năm không. Khi chọn đất làm rẫy, đồng bào
kiêng chọn nơi có cây đa hoặc cây cổ thụ nào đó. Đồng bào quan niệm, làm rẫy ở
nơi có gổc cây cổ thụ thì sẽ bị ma (a vưu) gây bệnh dịch làm hại mùa màng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

Công cụ sản xuất của đồng bào còn tương đổi thô sơ, chủ yếu là rựa (aco), rìu
(achặt), cuốc, gậy chọc lồ (apắt), cào cỏ (avinh). Công cụ dùng tu ốt lúa là hai

thanh gỗ kẹp với nhau, hoặc dùng tay.

Dân tộc Cơ Tu trồng đậu trên
nương rẫy
(Ảnh: sưu tầm)

Cây trồng chính là cây lúa
nương. Ngoài cây lúa, đồng bào còn trồng các loại ngô, khoai, sắn, đậu, bầu, bí,
ớt, rau...; trồng các loại cây hoa quả xung quanh rẫy như chuối, mít, đu đủ. Người
Cơ Tu cũng đã chú ý làm vườn, các loại cây trồng ở vườn như: mít, dứa, cam,
chanh, quít. Đặc biệt ở huyện Giàng có loại cây đặc sản là bòn bon - một loại cây
ăn quả có giá trị kinh tế cao.
2.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi là nguồn thu nhập quan trọng của người Cơ Tu. Những con vật nuôi
phổ biến là trâu và các loại gia súc, gia cầm khác như lợn, chó, gà, dê. Phương
thức chăn nuôi chủ yếu là thả rông. Những năm gần đây đồng bào làm chuồng trại
và nuôi nhiều gia súc hơn. Có nhà nuôi tới chục con trâu, bò. Người Cơ Tu chăn
nuôi trâu không phải để phục vụ việc kéo cày sản xuất, mà chủ yếu phục vụ cho
cúng giàng.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sống trong vùng rừng núi âm u, bạt ngàn, đồng bào Cơ Tu đã tận dụng khai thác
rừng phục vụ cho đời sống của nhà mình. Người Cơ Tu khai thác gồ rừng để làm
nhà ở, làm gươl (nhà rông), rào làng, làm củi đun; ở trong rừng, đồng bào hái
măng, nấm hương, mộc nhĩ; hái các rau rừng, củ rừng góp vào bữa ăn hàng ngày.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

Ở vùng người Cơ Tu săn bắn khá phát triển. Đồng bào thường tổ chức săn tập thể

vào mùa xuân. Vũ khí dùng cho săn bắn là nỏ, mũi tên tẩm thuốc độc, giáo, mác.
Đồng bào có tập quán ăn chia thành quả săn bắn được là để dành phần thịt ngon
của con vật cho người hạ thủ con vật và chủ làng. Phần thịt còn lại của con vật
được nấu chín, cánh đàn ông tổ chức ăn uống tại nhà rông, hò reo vui vẻ. Tuy
nhiên trước khi ăn thịt thú rừng, họ đã dành một phần theo cách chia đều cho các
thành phần thuộc gia đình trong làng.
Ngoài săn bắt tập thể, đồng bào Cơ Tu còn có cách đánh bẫy để săn bắt thú rừng.
Việc đánh bẫy muông thú được thực hiện theo từng gia đình. Đánh bẫy được con
thú nhỏ, gia đình tự sử dụng, ăn không hết có thể sấy khô hoặc ướp chua để dành
ăn dần. Trường hợp đánh bẫy được con thú to, chủ bẫy cũng chỉ g iữ lại một phần,
còn lại trao cho làng để ăn uống tại nhà gươl và phân phối cho dân làng.
Ngoài săn bắt muông thú rừng, đồng bào còn đánh bắt cá ở các sông, suối. Công
cụ đánh bắt cá có nơm, chì, lưới, thuốc duốc cá. Vào mùa đánh bắt cá, đồng bào
thường bắt được khá nhiều cá, ăn cá tươi không hết, người Cơ Tu thường sấy khô,
phơi khô để dành làm thức ăn dự trữ.
2.4. Ngành nghề thủ công
Ngành nghề thủ công ở đây có nghề đan lát các đồ đựng bằng mây, tre. Trước đáy
đồng bào đan gùi, đan chiếu, tước vỏ cây làm quần áo. Ngày nay công việc đan
gùi vẫn tiếp tục. Trong nghề thủ công, người Cơ Tu nổi tiếng với nghề dệt thổ
cẩm. So với nhiều dân tộc khác sinh
sống ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên,
thổ cẩm của người Cơ Tu được dệt với
nhiều màu sắc sặc sỡ hơn, nhiều mô típ
hoa văn hơn, do đó gây ấn tưcmg mạnh
hơn với người ngoài cuộc. Có thể nói
rằng, thổ cẩm của người Cơ Tu là nét
văn hóa đặc trưng nhất, mang tính bản
sắc dân tộc
Nghề đan lát truyền thống của dân tộc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 17



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

rõ nhất. Đồng bào Cơ Tu còn làm nghề rèn, nghề gốm phục vụ cho nhu cầu bà
con trong làng.

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng (vel) của dân tộc Cơ Tu được
xây dựng trên vùng đất tương đối
bằng phẳng, rộng rãi, gần nguồn
nước. Mỗi làng có một địa cực riêng.
Trong làng có đất riêng của từng hộ
gia đình. Đó là đất làm nhà ở, làm
nương rẫy của họ. Ngoài đất riêng
còn có đất chung của làng. Đó là đất
để làng chăn nuôi thả rông trâu, bò;
để làng săn bắn và thu hái lâm thổ sản. Thông thường các làng có ranh giới rõ ràng và
làng này cách làng kia cả ngày đường đi bộ. Trong làng có nhà kho để chứa thóc. Kiến
trúc nhà kho luôn đảm bảo chuột không thể trèo lên ăn thóc được.
Làng của người Cơ Tu nói riêng và người Tây Nguyên nói chung được xây dựng theo
kiểu làng phòng thủ. Mỗi làng đều có hàng rào xung quanh bằng thân cây gỗ, xếp chồng
lên nhau, khoảng 2 - 3m lại có cột chôn sóng đôi (một cột bên trong, một cột bên ngoài).
Hàng rào cao từ 1,5 - 2m. Cả hàng rào được cột bằng những sợi mây hoặc dây rừng rất
chắc chắn. Hàng rào khá kiên cố, có hai cửa ra vào, kẻ thù cướp bóc khó vào được. Ngày
nay hàng rào làng vẫn còn nhưng ý nghĩa của nó đã thay đổi. Chức năng chính của hàng
rào là ngăn không cho gia súc vào làm bẩn làng, phá phách làng. Hàng rào làng ngày nay
cũng được thu hẹp lại, thường là sát với ngôi nhà ở.
Làng của dân tộc Cơ Tu thường được xây dựng theo hình tròn hoặc hình ô van. Giữa làng

hoặc cùng vòng tròn với nhà dân, nhưng ở vị trí trang trọng hơn, là nhà gươl (nhà rông).
Nếu nhà gươl ở giữa làng thì xung quanh nhà gươl là nhà ở của dân làng. Các nhà ở này
được xây dựng tạo thành một vòng tròn hay vòng ô van vây kín lấy nhà gươl. Giữa bãi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

đất rộng sân làng thường có một cột để làm lễ hiến sinh trâu. Hình thức làng kiểu phòng
thủ hiện nay có chiều hướng giảm dần. Những làng mới dựng hiện nay thường được xây
dựng dọc theo trục đường giao thông, ven suối hoặc các sườn đồi. Tuy dựng nhà theo
kiểu đường phổ, nhưng ngươi Cơ Tu có điều kiêng kỵ là đòn nóc của các nhà liền kề
không được đâm thẳng vào nhau
Để dựng làng mới, việc chôn đất dựng làng vẫn phải tuân theo phong tục cổ truyền là chủ
làng đảm nhiệm việc chọn đất. Sau khi chọn được bãi đất ưng ý, chủ làng phát một bãi
chỗ rộng chừng 5-6 m2, trên chỗ rộng vừa phát đó chủ làng cắm một cành tre hoặc một
que nứa, đầu trên chẻ làm 4, cài vào đó hai đoạn que nhỏ hình chữ thập để xác định
quyền chiếm hữu theo phong tục. Tuy nhiên trên đường từ nơi đất đã chọn về nhà, nếu
ông ta gặp rắn bò ngang qua đường, chim sẻ bay qua đầu, nghe thấy tiếng mang kêu,
vượn hót, hoặc đêm ngủ mơ thấy nước lũ, cây đâm chồi... thì đó là điềm gở, phải đi tìm
nơi đất khác để dựng làng mới. Khi dựng làng mới, trong thời gian từ ba đến năm ngày
đầu, dân làng phải mổ lợn, gà để cúng thần linh và kiêng không cho khách lạ vào làng,
dân làng không được phát cây, ngả cây.
Làng (vel) là đơn vị xã hội của dân tộc Cơ Tu, cho nên có người đứng đầu làng. Người
đứng đầu làng là chủ làng. Chủ làng là người dân sinh sống ở trong làng. Ông ta là người
có nhân cách được bà con mến phục, có kinh tế khá giả, thông hiểu phong tục tập quán
dân tộc, ăn nói nhanh nhẹn hoạt bát, cư xử với dân làng có tình có lý, phân xử khách
quan trong trường hợp giải quyết xích mích giữa làng mình với làng khác. Vợ con ông
chủ làng cũng phải là những người mến khách. Chủ làng thường là người có tuổi đời
khoảng từ 45 - 50 tuổi. Nhiệm vụ của chủ làng thông thường là tổ chức các buổi hội họp

dân làng, xét xử những vụ cãi cọ, xích mích hoặc vi phạm luật tục của làng. Ông cùng
các chủ làng khác bàn bạc, giải quyết những vụ việc liên quan đến các làng với nhau như
tranh chấp ranh giới làng, gây gổ đánh nhau... Chủ làng được mọi người trong làng kính
trọng. Những dịp vui chung của làng, ông được mời dự, được ăn trên ngồi trước. Vào các
dịp lễ tết, ông được dân làng biếu xén rượu, thịt, được mời ăn uống. Uy tín của chủ làng
được nâng cao, nếu như dân làng an cư, lạc nghiệp, mạnh khỏe, mùa màng bội thu.
Nhưng nếu chẳng may trong làng xẩy ra dịch bệnh, chết chóc nhiều, mất mùa ba vụ liền,
thì chủ làng bị bãi miễn. Tiếp đó hội đồng già làng sẽ được triệu tập để xem xét bầu
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

người khác làm chủ làng. Bên cạnh chủ làng còn có người chỉ huy quân sự. Người chỉ
huy quân sự chịu trách nhiệm về an ninh, an toàn của làng.
Người Cơ Tu còn có tục kết nghĩa (pơ ngoót) giữa hai làng với nhau, nhằm đùm bọc nhau
trong cuộc sống, nhấtt là trong việc bảo vệ, giữ gìn an ninh trong làng. Lễ kết nghĩa được
tổ chức long trọng tại nhà gươl vào ngày có trăng sáng của mùa khô ráo. Trong lễ kết
nghĩa luôn có đâm trâu ăn mừng. Ngoài ra người ta mang lễ vật, thực phẩm đến nhà gươl
để tổ chức ăn uống, các em nhỏ, trai làng nhảy múa vui chơi. Đặc biệt trong dịp lễ này
người ta dựng một cột, trên đó treo cái “chuông” tạo ra âm thanh trong gió làm cho
không khí lễ kết nghĩa thật sự vui nhộn khó quên. Sau khi kết nghĩa, tình cảm giữa hai
làng được người Cơ Tu giữ gìn từ đời này qua đời khác.
3.2. Nhà ở
Nhà ở dân tộc Cơ Tu là nhà
sàn, kiểu mái hai đầu hồi uốn
tròn. Đồng bào làm nhà nhỏ,
sàn thấp, cả ngôi nhà cũng
thấp. Dưới gầm sàn không đủ
cao để người đi lại, thường họ

để củi. Nhìn đống củi dưới
gầm sàn biết được phần nào về
đức hạnh của con gái chủ nhà.
Dưới gầm sàn nhà nào có
nhiều củi đẹp, chứng tỏ con gái gia đình đó chăm chỉ làm ăn. Nhà ở người Cơ Tu bao giờ
cũng có một cột cái ở chính giữa đỡ cây đòn nóc, có nhiều cột xung quanh nối với cây
đòn nóc bằng các vì kèo gồ. Phần che xung quanh nhà chỉ cao khoảng 1,5 m từ sàn đến
mái, được làm bằng tre, nứa. Mặc dù nhà có cửa ở phía trước và hai đầu hồi, nhưng ấn
tượng khi vào nhà của đồng bào là nhà bị tối tăm, chật chội, do mái nhà thấp và nhà nhỏ.
Khi chọn gỗ làm nhà ở, đồng bào Cơ Tu không dùng gỗ ha lèm, gỗ đa (bnứt, rari) và gỗ
gạo (krol) để làm nhà. Đồng bào tin ràng dùng các loại gỗ đó làm nhà sẽ có ma đến ở và
làm hại người. Khi dựng nhà đồng bào cũng chọn ngày tối và phải mổ lợn cúng giàng.
Trước ngày dọn đến nhà ở mới, người Cơ Tu có tục cử hai thanh niên lên nhà mới, hai
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

thanh niên này tự kéo lửa rồi đốt ở các bếp và giữ ngọn lửa cho đến khi có người nhà vào
ở. Hai thanh niên cắm ở mồi bếp 4 cái cha cho. Cha cho là những que nứa dài khoảng 35
cm, phần đầu trên chẻ làm 4 mảnh, hai mảnh đối diện nhau được uốn xuống thành hai
vòng tròn, hai mảnh còn lại để dựng đứng tự nhiên và cắm trên mỗi mảnh một mâu quả
chuối xanh. Ngày tốt để dọn vào nhà mới theo lịch của người Cơ Tu là ngày “bau ca
lăm”.
3.3. Gia đình
Gia đình dân tộc Cơ Tu là gia đình nhỏ phụ hệ, phụ quyền. Trong quan hệ gia đình ông
bố có toàn quyền quyết định mọi việc quan trọng, con trai được thừa kể tài sản của bố mẹ
để lại, đồng thời có nghĩa vụ chăm sóc bố mẹ khi tuổi già và hương hỏa cho tổ tiên của
gia đình.
3.4. Trang phục

Là cư dân nông nghiệp (trồng trọt), người
Cơ Tu tự trồng bông, dệt vải làm quần áo
mặc. Thông thường đàn ông đóng khố, cởi
trần, đàn bà mặc váy dài đến đầu gối, dùng
miếng vải nhỏ như chiếc yếm (ado) đế che
ngực, hoặc cởi trần. Vào mùa rét, đàn ông và
đàn bà đều dùng tấm chăn (adiu) để choàng
thêm qua vai giữ ấm cho cơ thể. Đặc điểm
nổi bật nhất của bộ trang phục dân tộc Cơ Tu
là hoa văn rất nhiều mô típ với các màu xanh,
đỏ rất sặc sỡ. về trang sức, phụ nữ Cơ Tu
thường đeo chuồi hạt cườm trên cổ, hoặc
đính hạt cườm vào áo. Trên tấm choàng của
đàn ông đôi khi cũng được gắn những hạt
cườm, hoặc các vòng sắt đan lại với nhau với mục đích trang trí cho đẹp. Trước đây, đàn
ông và đàn bà đều để tóc dài và búi tóc. Đẻ giữ búi tóc, người ta cài bằng răng lợn, hoặc
que tre vót nhọn một đầu. Nhiều người còn đội trên đầu những vòng tre có kết nút hoặc
những vòng dây rừng trẳng (rơnok) và cắm thêm một số lông chim làm dáng. Ngày nay,
ở một số nơi nam nữ thanh niên cắt tóc ngắn. Phụ nữ Cơ Tu cũng như phụ nữ các dân tộc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

khác ở Tây Nguyên rất chuộng đồ trang sức như vòng tay bằng đồng (có người mỗi tay
đeo
đến 5-6 chiếc), đeo khuyên tai bằng gỗ, xương, đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt, chuỗi
hạt cườm, mã não, thậm chí chuỗi vỏ sò.
Tục cà răng hình như chỉ tồn tại ở vùng Thừa Thiên (huyện Nam Đông) và tỉnh Quảng
Nam (các huyện Đông Giang, Tây Giang). Tục cà răng được tổ chức thực hiện theo từng

đợt. Mỗi khi làng tố chức cà răng cho nam nữ thanh niên đến tuổi trưởng thành đều làm
lễ đâm trâu và cữ không cho người lạ vào làng.. Sau khi làm lễ xong, khách mới được
đến làng vui chơi và ăn uống. Người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt với các hình
vẽ rất đa dạng. Trên trán thường hay xăm hình vũ nữ (pal đin da da), trên hai mép hay
xăm hình mặt trời, còn ở trên mình thường xăm các hình động vật, ngôi sao và chữ thập.
3.5. Ẩm thực
Cũng như nhiều dân tộc sinh sống ở dọc Trường Sơn và Tây Nguyên khác, nguồn lương
thực chính của dân tộc Cơ Tu là gạo, mì (sắn) và ngô. Gạo được sử dụng thường xuyên,
còn ngô và sắn thường được sử dụng
lúc giáp hạt đói kém. Nguồn thực
phẩm hàng ngày có khoai môn, sắn,
đu đủ, kiệu, các loại rau rừng và thịt
thú rừng săn bắn được. Các loại thịt
gia súc, gia cầm, trước tiên sử dụng
làm lễ vật cúng giàng, sau cúng lề mới
đến lượt người ăn. Đồng bào Cơ Tu
thích dùng thức ăn khô: thịt trâu
nướng, cá nướng, sấy khô rồi bò trong
ống tre có nắp đậy, hoặc ướp chua
trong các ống tre, nứa đặt trên gác bếp
làm thức ăn dự trữ.

Thiếu nữ đang leo cây lấy rượu tà vạc

Người Cơ Tu uống rượu nấu từ mía, sắn,

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần


gạo. Rượu đặc thù của đồng bào Cơ Tu là rượu tà vạc - một loại rượu nhạt được chế biển
từ trái cây đoác theo phương pháp riêng của đồng bào.
3.6. Phương tiện vận chuyển
Sinh sống ở vùng rừng núi, đường sá đi lại gập ghềnh
thì phượng tiện vận chuyển phù hợp nhất mà người
Cơ Tu cũng như nhiều dân tộc khác đã chọn là chiếc
gùi. Chiếc gùi được đan bằng nan tre, đeo qua hai vai,
khi đeo giải phóng được hai tay, có thể làm việc khác
khi cần thiết.

Chiếc Gùi
3.7. Ngôn ngữ.
Tiếng nói của dân tộc Cơ Tu thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm Môn - Khmer. Trong lịch
sử dân tộc Cơ Tu chưa có chữ viết riêng của mình. Ngày nay đồng bào dùng chữ quốc
ngữ trong quan hệ xã hội cũng như quan hệ công tác nói chung.

Chữ Khmer
(Ảnh:sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

3.8. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Cơ Tu tin vào vạn vật hữu linh. Mọi vật xung quanh ta đều có linh hồn, con
người, cỏ cây, sông, núi, đất đai, nguồn nước, sấm sét... đều có linh hồn. Linh hồn mọi
vật được gọi bằng một tên chung là giàng. Hàng năm người Cơ Tu có nghi lễ thờ cúng
giàng. Lễ cúng giàng lớn nhất là phải đâm trâu. Trong lễ đâm trâu cúng giàng của người

Cơ Tu rất ấn tượng là cây cột đâm trâu được trang trí lộng lẫy nhất so với cột đâm trâu
của các dân tộc xung quanh.
Tín ngưỡng dân gian là cơ sở ý tưởng cho các nghi lễ trong lễ hội của dân tộc Cơ Tu. Dân
tộc Cơ Tu còn bảo lưu nhiều lễ hội liên quan đến vòng đời người, nghi lễ liên quan đến
sản xuất nông nghiệp như lễ cúng máng nước, lễ cúng ăn mừng lúa mới (cha roo tamêê).
Hàng năm, khi bắt đầu vào mùa thu hoạch lúa mới (tháng 10-11 dương lịch), dân làng tổ
chức ăn mừng một mùa lúa mới bội thu. Khởi đầu của nghi lễ ăn mừng lúa mới, người
phụ nữ Cơ Tu lớn tuổi trong gia đình đeo gùi lên rẫy tuốt những bông lúa vàng đầu tiên
về nhà. Nhũng bông lúa mới này được chia thành hai. Một số được đem giã gạo nấu cơm
ăn trong bữa cơm mới đó; một số khác được bó lại thành chùm rồi treo lên vách nhà.
Ngoài nồi cơm gạo mới, trong lễ mừng cơm mới, người ta còn lấy gạo cũ từ nhà kho
xuống để nấu xôi, làm bánh. Trong
ngày vui cơm mới của gia đình thức
ăn cũng được chú ý cải thiện: mổ
lợn, gà, vịt, bắt ốc, cua, cá ở suối...
Nhà giàu có người ta còn mổ cả trâu
để ăn mừng. Lễ ăn mừng lúa mới
của dân làng không tổ chức cùng
một ngày, mà được tổ chức vào
những ngày khác nhau. Trong lễ ăn
mừng lúa mới chủ gia đình cúng

Lễ mừng lúa mới- (Ảnh sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

khấn tạ ơn giàng cho vụ mùa bội thu, cầu mong giàng phù hộ cho vụ mùa năm tới, cho

đời sống được no đủ, gia đình mang thức ăn chia cho những gia đình xung quanh. Lễ ăn
mừng lúa mới được tổ chức từ gia đình này đến gia đình khác, kéo dài suốt mùa thu
hoạch lúa.
Với các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung và dân tộc Cơ Tu nói riêng,
khi có lễ hội lớn đồng bào thường tổ chức ăn trâu, đâm trâu. Tục lệ đâm trâu có thể tổ
chức 2-3 ngày. Ngày đầu tiên, người ta cột con trâu ở giữa sân, dân làng nhảy múa xung
quanh con trâu, tiếng chiêng, tiếng trống vang lên cùng với những tiếng hú dài. Khi già
làng xuất hiện thì cuộc nhảy múa tạm dừng. Già làng cầm chiếc đũa bằng tre, một đầu vót
tạo thành đũa bông, khấn vái mời gọi tổ tiên, thần linh và các con ma về ăn trâu với dân
làng. Khấn vái xong, già làng cầm cây đũa bông đó nhúng vào rượu, rồi đặt đũa lên đỉnh
cột đâm trâu. Neu cây đũa không rơi xuống nghĩa là lời khấn được tổ tiên, thần linh chấp
nhận đến dự lễ ăn trâu của dân làng. Sau đó già làng rải gạo, muối, rượu ra bốn phía trong
sân và mọi người đến dự lễ lại tiếp tục múa theo nhịp chiêng, trống cho đến khi thấm
mệt. Nấu lễ đâm trâu định kéo dài 3 ngày thì ngày thứ hai tiếp tục vui chơi, nhảy múa, ăn
uống thịt thú rừng săn bẳt được. Đến ngày thứ ba mới tiếp tục đâm trâu. Nếu lễ hội chỉ
kéo dài 2 ngày thì sáng sớm ngày thứ 2 tiến hành đâm trâu. Mọi người vẫn tiếp tục nhảy
múa quanh con trâu (nam múa tung tung, nữ múa ya yá), già làng cầm trong tay ngọn
giáo bất thình lình đâm thẳng vào cổ trâu, rồi hứng lấy ít máu. Sau đó khấn vái thưa
chuyện với thần linh và các loại
ma với nội dung như ngày đầu.
Theo tục lệ, trâu bị đâm không để
chết ngay, mà tất cả người dự lễ
đều lần lượt đâm vào con trâu tế
thần cho đến khi trâu không còn
đủ sức chạy quanh cột đâm trâu
nữa thì mới đâm cho trâu chết
hẳn. Con trâu chết rồi, một số
Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu

người tập trung làm thịt mổ xẻ trâu, một số khác vẫn


(Ảnh sưu tầm)

tiếp tục nhảy múa. Làm thịt con trâu xong mọi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

người cùng ăn uống và chia thịt cho từng gia đình.

3.9. Tục lệ cưới xin
Dân tộc Cơ Tu thực hiện hôn nhân ngoại hôn dòng tộc (cabu), hôn nhân 1 vợ 1 chồng và
cư trú sau hôn nhân ở bên nhà chồng. Những người cùng một cabu không được lấy nhau.
Nếu vi phạm điều này coi như vi phạm tội loạn luân (agăm), khi đó đôi trai gái bị đuổi ra
khỏi làng hoặc chịu tội chết. Đồng bào Cơ Tu cũng thực hiện hôn nhân một chiều, tức là
nếu con gái cabu A lấy con trai cabu B thì con trai cabu A không được lấy vợ ở cabu B
nữa, mà phải lấy vợ ở cabu khác. Theo hôn nhân thuận chiều, quan hệ hôn nhân con trai
cô lấy con gái cậu được đồng bào ưa thích. Nhiều trường hợp con trai cô và con gái cậu
mới sinh ra cũng coi như là vợ, chồng chưa cưới của nhau. Nếu sau này vì một lý do nào
đó họ không thành vợ chồng của nhau, thì họ vẫn coi nhau là những ka la - người con trai
cô coi con gái cậu như “người vợ trước” của mình. Trong trường hợp do nguyên nhân
chủ quan mà con trai cô không lấy con gái cậu, thì người con trai cô phải làm lễ sang tạ
lỗi nhà cậu để được cưới người khác làm vợ.
Nam nữ thanh niên Cơ Tu đến tuổi trưởng thành, khoảng 17-18 tuổi được tự do tìm hiểu
nhau. Thông thường sau khi tìm hiểu, ưng cô gái nào, người con trai tìm cách bày tỏ ý
nghĩ của mình với bố, mẹ. Khi đó gia đình người con trai xem xét nết na của cô gái và
cân nhắc mọi quan hệ giữa hai nhà. Nếu gia đình nhà trai nhất trí thì một mặt, sẽ mượn
một người làm mối. Người làm mối có thể là già làng có uy tín hoặc ông thầy cúng nào
đó; mặt khác đánh tiếng cho nhà gái biết. Vào một ngày lành, thường là ngày aviar, a

pướp theo lịch Cơ Tu, ông mối đến nhà gái để trình bày ý nguyện của nhà trai. Nếu gia
đình nhà gái đồng ý thì thịt một con gà xin ý kiến thần linh và sau đó đãi ông mối. Nếu
được thần linh phù hộ thì bên nhà gái, ông mối có thể thảo luận ngay các khoản liên quan
đến đám cưới như: nghi lễ và ngày cưới, của cải dẫn cưới... Trong lễ cưới dân tộc Cơ Tu
thường giết trâu, lợn để bà con họ hàng ăn uống, vui chơi nhảy múa. Lễ cưới kết thúc,
người con gái trở về sống với bố mẹ đẻ. Khoảng một năm sau cô dâu mới trở lại làm ăn
chính thức ở bên nhà chồng.
Trường hợp trai gái tìm hiểu nhau mà có bầu trước khi làm lễ cưới thì cả hai người đều bị
đuổi ra khỏi làng. Gia đình nhà trai phải lo khoản nộp phạt cho nhà gái và cho dân làng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

Sau đó đôi trai gái được chung sống với nhau, không cần làm lễ cưới. Tuy nhiên họ vẫn
bị dân làng khinh rẻ.
Ngoài những quy tắc hôn nhân nêu trên, trong dân tộc Cơ Tu có một số những hôn nhân
ngoại lệ. Đó là hình thức hôn nhân “cướp đoạt”. Hôn nhân “cướp đoạt” thường xảy ra
thông thường do hai nguyên nhân: người con gái quá đẹp, hoặc người con trai muốn thể
hiện tài năng của mình. Việc “cướp vợ” không thể thực hiện một mình, mà người con trai
phải nhờ một số bạn bè cùng đi, có nhiều trường hợp họ mang theo cả vũ khí nhằm bảo
vệ cho việc “cướp vợ” được thành công. Theo phong tục, sau khi cướp được cô gái về,
không được đưa vào nhà ngay mà phải để ở ngoài sàn. Gia đình người con trai mổ gà làm
lễ xin phép thần linh phù hộ. Cúng khấn xong chủ nhà xem chân gà, nếu chân gà báo hiệu
xấu tức là thần linh không chấp nhận phù hộ thì người con trai và bạn bè của anh ta phải
đưa cô gái về tận gia đình cô và phải nộp phạt cho bố, mẹ cô gái khoản phạt lớn. Thường
khoản phạt là một con trâu. Trường hợp được thần linh chấp nhận phù hộ thì bố, mẹ
người con trai ra sàn mời cô gái vào nhà và mời bà con họ hàng, xóm giềng đến chúc
mừng cô dâu mới. Khoảng 3 ngày sau, nhà trai đón họ hàng và bố, mẹ cô gái đến để thỏa
thuận về mọi việc liên quan đến lễ cưới (ptoi).

3.10.

Sinh đẻ

Dân tộc Cơ Tu có tập quán phụ nữ mang bầu vẫn phải làm việc nhà, việc trên nương rẫy,
có lúc phải gùi củi, ngô, sắn khá nặng trên lưng. Tuy nhiên về mức độ nặng nhọc thì được
giảm dần theo thời gian mang thai. Trước đây có một số vùng, phụ nữ phải đẻ ở ngoài
nhà, với sự giúp đỡ của bà mụ vườn. Đứa trẻ được cắt rốn bằng con dao cật nứa. Đẻ xong
sản phụ được đưa về nhà ngay, nhưng đồng thời nhà có người đẻ sẽ kiêng không cho
người lạ mặt vào nhà trong một tháng. Dấu hiệu kiêng cấm là một cành lá treo trước cửa
nhà phía cầu thang lên xuống. Nếu chẳng may sản phụ bị chết trong thời gian sinh nở thì
người Cơ Tu cho rằng, đó là chết độc địa (mốp), hồn của người chết sẽ biến thành ma ác
(apưi), biến thành con chim cơtót sống lẻ loi đơn chiếc trong rừng, hoặc biến thành cái
cầu vồng (m’riêng) thường hiện về làm hại dân làng. Xuất phát từ quan niệm đó, mỗi khi
có sản phụ bị chết trong khi sinh, thì dân làng phải giết trâu để lảm lễ hiển sinh. Cũng có
nơi cả làng phải giết hêt gia súc, tạm lánh vào rừng một thời gian. Nếu trong một năm
xảy ra 2 - 3 vụ như vậy thì phải dời làng đi tìm địa điểm mới để dựng làng.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

3.11.

Tang ma

Từ quan niệm vạn vật hữu linh, người Cơ Tu cho rằng mỗi người khi sống đều có hai
hồn: hồn lành và hồn dữ. Nếu chết bình thường thì hồn lành tiếp tục sống, còn nếu chết
độc địa thì hồn dữ sẽ chế ngự kiểm soát mọi hoạt động. Đối với người chết bình thường,
xác được quàn trong nhà 1 - 2 ngày. Quan tài là khúc gỗ bổ đôi, khoét rỗng ở giữa. Do

quan niệm người chết vẫn có linh hồn sống ở thế giới bên kia, cho nên người Cơ Tu chia
của cho người chết. Khi liệm xác vào quan tài người ta bỏ theo quần áo, vải , chăn và một
ít đồ dùng khác như bát, muối,... Người chết thuộc gia đình khá giả có thể quàn lâu hơn
và mỗi ngày tang chủ giết một con trâu hoặc lợn đế tế thần linh. Con cháu người quá cố
túc trực suốt ngày đêm bên linh cữu, thỉnh thoảng lại nổi chiêng trống lên, mọi người đi
vài vòng hoặc nhảy múa xung quanh quan tài. Khi đưa đi mai táng thì chân đi trước và
khi hạ huyệt thì đầu quay về hướng mặt trời mọc. Có nơi huyệt được lấp cao thành nấm,
nhưng cũng có nơi đế ngỏ. Dù lấp hay để ngỏ thì vẫn làm nhà mồ (ping), lợp bằng ván
hoặc lá mây, cỏ gianh. Chôn cất xong là bỏ mả ngay. Dân tộc Cơ Tu không có tục lệ cúng
giỗ và tảo mộ như một số dân tộc khác. Sau 5-10 năm, phụ thuộc vào kinh tế gia đình
hoặc dòng họ, đồng bào làm lễ dồn mồ (prơ ping). Hài cốt của những nấm mồ cá nhân rải
rác ở nhiều nơi đem về chôn tại nghĩa địa chung của dòng họ hay của làng. Những người
chết độc địa thì không được dồn mồ.
3.12.

Văn học nghệ thuật

Dân tộc Cơ Tu có vốn văn học nghệ thuật rất phong phú và độc đáo. Trước hết là những
làn điệu dân ca, những truyện thơ, bài thơ với nội dung rất đa dạng. Người Cơ Tu từ lớp
người trẻ đến lớp người trung niên đều biết ca hát, nhảy múa. Họ nhảy múa quanh cột
đâm trâu hàng buổi. Múa Cơ Tu đã diễn ra nhiều lần trên sân khấu cả nước. Điệu múa dà
dạ - múa tập thể nam nữ rất được ưa chuộng; điệu múa tân tung (múa đâm trâu), điệu
múa ta đeng dà dạ (múa săn thú) cũng là những điệu múa quen thuộc của đồng bào Cơ Tu
khấp các vùng.
Trong nghệ thuật dân gian của người Cơ Tu, nghệ thuật điêu khắc và trang trí truyền
thống cũng rất độc đáo. Trong nghệ thuật điêu khắc và trang trí, con trâu có vị trí chủ
đạo. Con trâu nghệ thuật được xuất hiện ở nhà mồ, nhà gươl và ngay cả trên cột đâm trâu.
Tượng con trâu và con người được tạc và đặt ở nhà mồ. Ngoài ra để trang trí cho cột lễ
hội gia đình cũng như cột đâm trâu, nghệ thuật điêu khắc thể hiện rất đa dạng về chủ đề:
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 17



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

có chim grooc, chim tring, có voi, rồng nước... Đặc biệt con rồng nước có cái đầu và đôi
chân của con gà, cái mình mềm mại của con rắn và cái đuôi uốn lượn của con cá. Người
Cơ Tu còn sử dụng nhiều bức vẽ, chạm khắc trong việc trang trí cho nhà gươl, các công
trình kiến trúc cộng đồng và trong nhiều lễ hội với nhiều chức năng khác nhau; những
bức tượng khỏa thân treo ở các cổng làng; những bức tượng rất đa dạng thể hiện nội tâm
buồn, thương... trang trí xung quanh nhà mồ.
Nghệ thuật kiến trúc nhà gươl. Nhà gươl cũng là nhà sàn, nhưng không phải nhà sàn
thông thường như nhà người ở, mà là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo nhất
của dân tộc Cơ lu. Nhà gươl được làm bằng gỗ, lợp bằng lá gồi hoặc lá mây được đan rất
công phu. Nhà gồm một cột chính ở giữa (rmăng), cao khoảng 8 m đến 12 m, các cột
xung quanh (tnol) cao khoảng từ 6 m đến 8 m, không kể phần chôn xuống dưới mặt đất.
Sàn cách mặt đất từ 1,4 m đến 1,6 m. Xung quanh nhà có bưng ván cả tấm, cao khoảng
0,5 m kể từ mặt sàn. Phần giáp mái cũng bưng ván tên đó có khắc các hình cỏ cây hoa lá,
chim muông và những hoa văn hình kỷ hà rất độc đáo. Mặt dưới của mái nhà có gài nhiều
xương sọ của các loại thú rừng do dân làng săn bắn được. Cũng trong nhà gươl còn treo
nhiều loại mặt nạ với các hình thù kỳ dị. Phần trên cột chính giữa nhà luôn treo một đầu
trâu mới làm lễ hiến sinh, về hình dáng và cấu trúc mái
nhà gươl cũng gần giống mái nhà ở, nhưng độ dốc lớn
hơn nhiều. Ở 2 nóc đầu hồi có trang trí nhiều tác phẩm
điêu khác hình động, thực vật bằng gỗ với các hình
chạm khắc tinh tế. Đặc biệt hình tượng con chim mình
to, cánh rộng, mỏ dài, có lẽ là con chim phượng hoàng
đất (tring) thường thấy ở nhà gươl vùng Hiên, Giằng
(tỉnh Quảng Nam). Bên trong nhà gươl thường có hai
bếp. Một bếp xưa kia dành cho phụ nữ, nhưng bấy lâu
nay phụ nữ Cơ Tu tuyệt đối không được bước lên nhà

gươl, trừ trường hợp làng tổ chức lễ hội. Nhà gươl của
dân tộc Cơ Tu không chỉ là nơi tiếp khách quan trọng,
Cột tế thần của Dân tộc Cơ Tu
(Ảnh sưu tầm)

nơi sinh hoạt cộng đồng, mà còn là nơi cất giữ
những đồ quý của làng như: chiêng, ché, thanh la,
và đồng thời cũng là nơi cất giữ vũ khí, đặc biệt là

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 17


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ TU | Hoàng Trần

những lưỡi giáo, mũi tên đã sát hại địch thủ.
Ngoài nhà gươl trong làng Cơ Tu còn có một cây cột “tế thần” hay cột “hiến sinh”. Cột
này được đặt ở vị trí trung tâm làng. Cột được trang trí với các tác phẩm điêu khắc như
chim, gà, rắn, kỳ đà, cá, rùa và các hình chữ thập rất đa dạng, tượng trưng cho mặt trời,
mặt trăng, các vì sao trên trời. Vào những ngày hiến sinh trâu, cột này được gắn thêm hai
cánh chim bằng gỗ, đồng thời có chăng những sợi dây nối từ đỉnh cột đến nóc nhà gươl.
Bấy lâu nay có khá nhiều giả thuyết bình luận về cột này, trong đó không ít ý kiến nói
rằng, đó là tượng trưng cho dương vật

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 17



×