Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tổng quan dân tộc Cơ Ho (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.73 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO

MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Cơ Ho ................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 5

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6


2.5.

Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 7

3.3.

Gia Đình ........................................................................................................................... 8

3.4.

Trang phục, trang sức ....................................................................................................... 8

3.5.

Ẩm thực ............................................................................................................................ 8

3.6.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................... 9

3.7.


Lễ hội (Lễ tết) ................................................................................................................. 10

3.8.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 10

3.9.

Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 11

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 13

3.11.

Tục lệ tang ma ............................................................................................................ 14

3.12.

Văn học nghệ thuật ..................................................................................................... 14

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Cơ Ho
Dân số : 166.112 người (2009)

Ngôn Ngữ: thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á,
nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer
Tên gọi khác: Cờ Ho, Kơ Ho, hoặc
Kơho
Nhóm địa phương: Cơ Ho: Xrê, Nộp
(Tu nổp), Cơ Dòn, Chil.
Địa bàn cư trú: Lâm Đồng, Bình
Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Ho ở Việt Nam có dân
số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Ho cư
trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (145.665 người, chiếm 12,3% dân số toàn
tỉnh và 87,7% tổng số người Cơ Ho tại Việt Nam), Bình Thuận (11.233 người),
Khánh Hòa (4.778 người), Ninh Thuận (2.860 người), Đồng Nai (792 người),
thành phố Hồ Chí Minh (247 người).

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Dân tộc Cơ Ho sinh sổng bằng nghề trồng trọt: trồng trọt lúa nương và lúa nước.
Người Chin, Nộp, Cơ Dòn,.. làm lúa nương là chính; còn người Srê, làm ruộng
nước là chính. Trước đây có tài liệu người Pháp viết, người Chin thường sinh
sống ở trên núi cao, làm rẫy theo lối hoàn toàn du canh. Nay loại hình canh tác
này không còn ở vùng người Chin nữa. Tất cả các nhóm của dân tộc Cơ Ho đều

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần


Người Cơ Ho đang
chăm sóc lúa nước
(Ảnh minh họa)

làm rẫy du canh theo chu kỳ. Mảnh rừng khai phá thành nương trồng trọt được
vài ba năm, sau đó đê hóa và chủ mảnh nương hóa đó sẽ trở lại canh tác khi cây
rừng đã mọc cao.
Ở những vùng làm rẫy thì rẫy vừa là nơi trồng cây lương thực, vừa là nơi trồng
cây thực phẩm. Trên một đám rẫy, người ta trồng xen canh nhiều loại cây: lúa,
bắp, sắn, bâu, bí, mướp, đậu,... Ở những vùng làm ruộng, trên rẫy đôi khi có trồng
thêm lúa nương, nhưng chủ yếu là trồng các loại cây thực phẩm để cung cấp thực
phẩm cho bữa ăn hàng ngày..
Kỹ thuật làm rẫy của người Cờ Ho về cơ bản khác với k ỹ thuật làm rẫy của các
dân tộc khác ở Tây Nguyên. Người ta chặt cây rừng vào giữa mùa khô, để cây
khô, rồi đốt, trỉa hạt vào đầu mùa mưa và thu hoạch vào cuối mùa đó. Dụng cụ
chặt cây là rìu - sung và chà gạc - yoas. Dụng cụ chọc lồ là cây gậy nhọn đầu chrmul. Riêng người Chin làm rẫy dùng một dụng cụ chọc lỗ gọi là p 'hơl. p 'hal
có lười dẹp bằng sắt, dài khoảng 28cm, bề rộng khoảng 3,5cm. Với loại công cụ
này người sử dụng vừa chọc lỗ, vừa tra hạt, tay trái cầm p’hal vừa đi vừa đâm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

xuống đất, day ngang p’hal để tạo ra lỗ, tay phải lấy hạt giống đựng trong gùi nhỏ
- kriết đeo bên hông để bỏ vào lỗ. Người Chin khi trồng bắp thường dùng một cái
cuốc nhỏ - vãng đê cuốc lỗ, đồng thời cuốc này cũng dùng đê làm cỏ luôn. Chà
gạc là công cụ chặt cây, phát rẫy được dùng phổ biến. Dân tộc Cơ Ho gọi loại rẫy
canh tác theo phương pháp này là mir và loại rẫy này vẫn tồn tại ở nhiều nơi, có
người Cơ Ho sinh sống, nhất là nhóm Nộp, Cơ Dòn, Chin. Tuy nhiên cũng có nơi
như Đạ me, đất làm mir trở nên cằn cỗi dần, đồng bào Cơ Ho đã tạo ra một loại

rẫy khác, canh tác cố định bằng cuốc, cày, có bón phân. Loại rẫy mới này được
tạo ra trên cơ sở rẫy mir, kiến thiết lại mặt bằng mới cho sản xuất bằng cách đào
hết gốc cây trên mir cũ, đốt gốc cây, làm sạch cỏ, dùng cuốc (hoặc cày) xới đất
lên. Khi tra hạt, người đàn ông cầm “xà bát” cuốc lỗ, ba hoặc bốn người đàn bà đi
theo bỏ hạt bắp vào lỗ rồi dùng chân lấp hạt giống.
Ruộng theo tiếng Cơ Ho gọi là srê. Người Srê trong dân tộc Cơ Ho có nghĩa là
người làm ruộng nước. Ở vùng Srê người ta chia thành hai loại ru ộng: srê bó và
srê gơl. Srê bó là ruộng đầm lầy, nằm ở vị trí thấp, gần sông suối. Ở huyện Di
linh có các khu ruộng đầm lầy như: Klongyang, Nrong lủ, Đa cha, Klong Pơ ô.
Srê gơl là ruộng khô cứng, nhiều cát sỏi, ít màu mỡ. Srê gơl nằm ở vị trí cao hơn
nước sông suối, xa sông suối nên việc cấy trồng phụ thuộc vào nguồn nước mưa.
Do vùng cư trú của dân tộc Cơ Ho là miền núi cho nên ruộng của người Cơ Ho
thường rải rác ở thung lũng các dòng sông.
Về kỹ thuật làm đất, người Srê dùng cuốc cuốc lật đất trên các srê bó sình lầv, vì
trâu, bò không thể lội xuống đất sình lầy để kéo cày được. Theo quy trình kỹ
thuật cần cuốc hai lần, cuốc lần thứ nhất lật cỏ xuống dưới cho cỏ chết (pó chớt ù
chớt nhạt). Khoảng một tuần sau, người ta cuốc lần thứ hai, vừa cuốc chân vừa
giẫm cho đất nhuyễn đều. Công đoạn cuối cùng là kar, tức là chang bằng mặt
ruộng bởi một công cụ gọi là kar. Kar là một khúc cây dầu, dài 4m đẽo tròn và
nối một cái cán vào khúc gồ đó để làm cán kéo. Khi kar mặt bằng ruộng, một
người đi tnrớc cầm cần kéo khúc gỗ, một người đi theo sau ấn tay trên khúc gỗ để
cho mặt ruộng được bằng phang đều. Kar xong, mặt ruộng phủ một lớp bùn
nhuyễn phẳng lì, người ta gieo hạt lúa ruộng. Neu ruộng không thụt người ta đi
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

trên ruộng, vừa đi vừa gieo hạt lúa, nếu ruộng thụt sâu, người ta đi quanh bò'
ruộng từ phải sang trái để gieo.

đắp bờ giữ nước, sau đó cũng cần các công đoạn kỹ thuật như sau: cày, bừa và
kar. Cày và bừa đều do hai trâu kéo. Đồng bào Cơ Ho có tập quán cày ruộ ng từ
giữa ruộng ra ngoài bờ. Cày xong người ta bừa rồi chang phẳng mặt ruộng, nhưng
cái kar do trâu kéo chứ không phải người kéo như ở ruộng sình lầy. Khoảng một
tiếng sau khi gieo hạt lúa (sạ) xuống ruộng, đồng bào tiến hành tháo nước ra khỏi
ruộng. Đen khoảng nửa tháng sau, nước mới được đưa vào ruộng trở lại ở mức
khoảng 6 cm. Giữ nước cho cây lúa từ thời điểm đó đến khi lúa chín rộ thì tháo
hết nước. Người Chin cũng làm ruộng nhưng không dùng cày, mà dùng cuốc chaleng hay xa bát; không sạ lúa mà dùng kỹ thuật gieo mạ, nhô mạ, cây lúa như
người Kinh.
Dân tộc Cơ Ho có nghề trồng vườn. Vườn được khai phá ở gần nhà, diện tích nhỏ.
Trong vườn đồng bào thường trồng một số cây như bo bo, chuối, mít, trầu, mía,
đu đủ. Một số nơi xuất hiện vườn chuyên canh chuối, mía, cà phê. Sống trong
vùng đất có nhiều rừng, thiên nhiên ưu đãi nhiều sản vật, sự xuất hiện nghề làm
vườn đã nói lên trình độ tổ chức cuộc sống của đồng bào khá cao. Nghề làm vườn
không những tận dụng được nhân lực, mà còn tăng thu nhập cho gia đình .
2.2. Chăn nuôi
Dân tộc Cơ Ho chăn nuôi gia súc và gia cầm. Đàn gia súc có trâu, bò dùng để kéo
cày ở những vùng đồng bào làm ruộng; còn ở vùng núi thì chủ yếu dùng làm vật
hiến tế trong các nghi lễ tôn giáo; nuôi lợn, gà, chó, dê để phục vụ nhu cầu cúng
bái trong các dịp lễ tiết, ăn thịt. Trâu, bò thường được nuôi theo cách thả rông
vào rừng tự kiếm cỏ ăn. Sáng thả trâu, bò đi ăn cỏ, chiều tối lùa trâu, bò về
chuông. Chưa thấy nơi nào đồng bào nuôi ngựa, voi.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sinh sống trong môi trường được thiên nhiên ưu đãi, đồng bào Cơ Ho tận dụng
các nguồn lợi tự nhiên. Đồng bào thu hái lâm sản như: măng rừng, nấm hương,
mộc nhĩ, rau rừng các loại; đi săn bắn thú rừng kết hợp với bảo vệ mùa màng trên
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần


nương rẫy; đánh bắt cá trên sông, suối. Nguồn sản vật tự nhiên đã góp phần quan
trọng cho bữa ăn hàng ngày, góp phần cải thiện đời sống của đồng bào.
2.4. Ngành nghề thủ công
Đồng bào Cơ Ho có nghề thủ công
khá phát triển. Nghề đan lát và nghề
rèn hầu như làng nào cũng có. Đồng
bào tự đan lẩy gùi, tự rèn lấy nông cụ
như dao, cuốc. Nghề dệt vải tương
đối phổ biến, tuy nhiên người Srê
trong mấy chục năm lại đây đã không
làm nghề dệt nữa. Một số nơi trước
đây



nghề

gốm

bằng

(không dùng bàn xoay).

tay

Nghề Đan Lát (Ảnh minh họa)

2.5. Trao đổi, mua bán
Việc trao đổi bằng hiện vật với nhau tương đối phố biến ở các vùng xa chợ. Cư

dân cư trú gần thị trấn thì đồng bào dùng tiền để mua bán là chính.

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Làng là đơn vị cư trú của người Cơ Ho. Mỗi làng có không gian riêng với diện tích
khoảng vài ba cây số vuông, dược xây dựng trên núi cao, hoặc trong các thung lũng. Giữa
các làng có ranh giới được xác định bằng các môc tự nhiên như: con sông, con suối, con
đường đi lại, cánh rừng, đỉnh đồi... Ranh giới làng do các chủ làng quy ước với nhau,
song được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Về mặt kinh tế, mỗi gia đình trong làng miền núi được quyền quản lý một số đất đai của
cộng đồng làng theo sự hướng dẫn của người đứng đầu làng và các chủ rừng; còn những
gia đình sinh sống ở vùng thung lũng, vùng canh tác ruộng nước thì thố cư, đất ruộng lại
có xu hướng thuộc về quyền sở hữu và quản lý của từng gia đình.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

Về mặt quan hệ xã hội, làng
người Cơ Ho là một công xã
nông thôn với những dấu vết
của công xã thị tộc. Những gia
đinh sống trong làng đều có
quan hệ huyết thống về phía
mẹ, rất gần gũi với nhau, hay
cùng một dòng họ, cùng cư trú
trong các ngôi nhà dài cạnh
nhau. Với các nhóm người
canh tác nương rẫy là chính,

thì có khi làng chỉ là một gia đình lớn mẫu hệ, cả làng đều là con, cháu của một người
đàn bà. Ở những vùng thung lũng phì nhiêu, cư dân sống tương đối đông thì làng lại là
một công xã láng giềng rõ rệt, một làng có nhiều dòng họ cùng sinh sống làm ăn.
Làng người Cơ Ho là một đơn vị xã hội. Đứng đầu làng là chủ làng. Chủ làng vẫn là
người tự lao động sản xuất trên đồng ruộng, trên nương rẫy để tự nuôi bản thân và con
cái. Nhưng về mặt tinh thần, ông ta có uy tín cao với dân làng. Chủ làng có nhiệm vụ
quản lý làng theo luật tục, có quyền xử lý mọi vi phạm luật tục từ hình thức thấp nhất đến
hình thức cao nhất. Hiện nay, làng người Cơ Ho đã có nhiều đổi mới, nhiều nhóm dân tộc
khác nhau, có phong tục, tập quán khác nhau, tín ngưỡng khác nhau cùng cư trú.
3.2. Nhà ở
Dân tộc Cơ Ho ở nhà sàn. Trước đây nhà
sàn dài, nhiều cặp vợ chồng, nhiều thế hệ
cùng cư trú dưới một mái nhà. Trong một
làng thường có vài nhà dài. Phần lớn các gia
đình đó đều có quan hệ huyết thống với
nhau theo dòng mẹ. Nay người Cơ Ho ở nhà
sàn nhưng chủ yếu là nhà sàn nhỏ. Mỗi ngôi
nhà là một gia đình có vợ, chồng cùng các
con cái của họ. Nhà sàn của người Cơ Ho có
đặc điếm là hai mái uốn lợp tranh, có vách
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

phên dựng nghiêng ra phía ngoài, phía trước có cầu thang lên xuống. Trong nhà, trên
vách đối diện với cửa ra vào là hàng ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt khác
của gia đình (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa.
3.3. Gia Đình
Gia đình người Cơ Ho là gia đình tổ chức theo mẫu hệ, con cái sinh ra tính theo dòng mẹ,

con gái kế thừa tài sản. Người Cơ Ho tồn tại hai hình thái gia đình: gia đình lớn và gia
đình nhỏ. Tuy nhiên hình thái gia đình lớn hiện nay dang trong quá trình tan rã và gia
đình nhỏ đang hình thành ngày càng nhiều. Người mẹ có thẩm quyền lớn giải quyết mọi
việc trong gia đình.
3.4. Trang phục, trang sức
Trước đây, trang phục người Cơ
Ho cũng như trang phục truyền
thống các dân tộc khác ở Tây
Nguyên, đàn ông đóng khố, đàn
bà mặc váy. Khố là miếng vải dài
1,5 đến 2m, rộng, có hoa văn theo
dải dọc. Váy là một tấm vải dài
đủ quấn quanh người một vòng
rồi giắt cạp. Nền váy màu đen
trên đó có những dải hoa văn màu
trắng viền dọc thân váy. Khi trời lạnh, nam và nữ đều có thể khoác thêm tấm chăn (ùi).
Các cô gái Cơ Ho thường tập dệt vải từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản
phẩm dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai.
Trang sức gồm những chiếc vòng cổ, vòng tay, hạt cườm và khuyên căng tai.
3.5. Ẩm thực

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

Nguồn lương thực chính là lúa và ngô. Cơm được nấu trong nồi đồng hoặc nồi gang, nồi
nhôm. Đồng bào có thói quen ăn bốc, cho nên các món thức ăn thường chế biến khô để
tiện cho bốc ăn. Thịt, cá được kho là chính, đôi khi cũng luộc hoặc nấu với cây chuối
non. Canh của

đồng

bào

thường

được

nấu từ rau xanh
trộn với tấm,
bỏ

thêm

muối.

ớt,
Thức

uống thường là
nước suối tự
nhiên mang về
nhà đựng trong
các

trái bâu,

ghè. Đồng bào uống rượu cần trong các dịp vui lễ tiệc, hội hè. Đồng bào thích hút thuốc
lá. Lá thuốc phơi khô quấn đại được đồng bào ưa thích.


Rượu cần- thức uống ưa chuộng của đồng bào

3.6. Phương tiện vận chuyển
Sống ở vùng rừng núi, đồng bào Cơ Ho cũng
như nhiều dân tộc miền núi khác, dùng gùi
làm phương tiện vận chuyển. Mỗi người lao
động thường có vài ba chiếc gùi thay nhau
để sử dụng. Mỗi khi bước ra khỏi nhà, người
đeo gùi là người đi làm, người không đeo gùi
là người đi chơi hội hè.
Cái gùi- phương tiện vận chuyển chủ yếu
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

3.7. Lễ hội (Lễ tết)
Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong (theo thời vụ
hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà (Nhô Lir
Bông hay Nhô Lirvong). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một
con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời
trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo
trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Mọi
người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt
trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu
bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu
phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày
Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình.
Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến
tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra

vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa
mới và thực hiện các công việc lớn như làm
nhà, chuyển làng...

Lễ tết của dân tộc Cơ Ho

3.8. Ngôn ngữ
Chữ Khmer
(Ảnh sưu tầm)
Tiếng nói của dân tộc
Cơ Ho thuộc hệ ngôn
ngừ Nam Á, nhóm ngôn
ngữ Môn - Khmer. Vào
đầu thế kỷ 20, người
Pháp đã xây dựng chừ
viết cho người Cơ Ho theo hệ chữ La tinh. Sau này chữ viết đó được cải tiến nhiều lần,
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

được dạy trong trường tiểu học như một môn học để cho học sinh học chữ này làm
phương tiện tiếp cận với tiếng Việt thuận lợi hơn.
3.9. Tín ngưỡng tôn giáo
Dân tộc Cơ Ho tin vào vạn vật hữu linh, coi mọi vật đều có linh hồn. Quan niệm này đã
từng tồn tại và đang tồn tại ở nhiều dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới. Trong cuộc
sống hàng ngày, người Cơ Ho tin rằng, các linh hồn siêu nhiên đó đều có tác động đến
đời sống của con người. Người Cơ Ho chia lực siêu nhiên thành hai loại, một loại chuyên
phù hộ cho con người, loại này được gọi là Giàng (thần linh); còn một loại chuyên gây tai
họa cho con người, được gọi là chà (ma quỷ). Do vậy, trong cuộc sống thường ngày, mỗi

khi cần làm việc gì (làm rẫy, làm ruộng, cưới xin, tang ma...) đều phải cúng bái cầu xin
thần linh phù hộ và cầu xin ma quỷ không phá hại gây tai vạ cho người.
Trong quan niệm người Cơ Ho, thần Nđu là vị thần tối cao khai sáng ra vũ trụ, đồng thời
cũng là vị thần tối cao bảo hộ con người. Mặc dù là vị thần tối cao, nhưng trong các cuộc
tế lễ, người Cơ Ho ít khi cầu đến vi thần này, mà thường cầu xin những vị thần thấp hơn.
Thần Nđu là vị thần tối cao tượng trưng cho sự an lành, nhưng lại không gần gũi với
người Cơ Ho bằng những vị thần khác ở ngôi thấp hơn. Thần linh, ma quỷ rất thích ăn
thịt và uống rượu, nhưng tùy theo tầm quan trọng của của buổi lễ mà dân làng tế sống
trâu, heo, dê, hoặc gà cùng
với rượu.

Lễ cúng thần lửa của dân
tộc Cơ Ho
(Ảnh : sưu tầm)

Từ quan niệm về thần linh
như trên, dân tộc Cơ Ho có
nhiều lễ hội. Là cư dân
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

nông nghiệp, lễ hội người Cơ Ho chủ yếu là những lễ hội liên quan đến nông nghiệp.
Làm rẫy, làm ruộng là nhừrm nghi lễ được quan tâm nhiều nhất.
Người Cơ Ho srê ở huyện Di Linh làm ruộng nước là chính nên các nghi lề ở đây được
tiến hành theo các khâu làm ruộng nước. Đầu tiên là lễ gieo giống - nhô sih srê, cúng
ngay tại ruộng trước khi gieo trồng, cầu xin trời đừng mưa vào lúc mới gieo giống xong,
vì nếu gặp mưa to gió lớn, nước mưa sẽ cuốn trôi hạt giống đi hoặc có thể bị úng, thối hạt
giống.

Cả một vụ cày cấy vất vả, sau khi gieo hạt xong đồng bào tổ chức lễ rửa chân trâu - nhô
rao jang rơpu, trâu được nghỉ ngơi, đồng bào tổ chức lễ cầu cho trâu được mập mạp, có
cỏ ăn, sinh sản nhiều. Lễ này do từng gia đình tổ chức vào buổi tối. Trong lúc khấn vái,
tất cả lửa trong gia đình đều phải tắt để ma quỷ khỏi nghe được những lời chủ nhà đang
cầu xin mà có dụng tâm làm ngược lại. Trong lúc ăn uống đồ cúng, người ta lấy cái lưỡi
cày vỗ nhẹ vào bụng mình 7 lần với ngụ ý là nay đã qua mùa cày bừa vất vả thì nên ăn ít
để khỏi lãng phí lúa gạo, đừng ăn nhiều như lưỡi cày ăn đất. Tiếp đó khi lúa đã xanh
đồng, cả làng cùng làm chung một lễ nhô wer cúng ở chân một ngọn núi. Lễ này nhằm
mục đích tạ ơn trời đất đã cho mưa thuận, gió hòa. Người đứng đầu buối lễ là chủ làng.
Trước khi chủ làng đứng ra cầu khẩn, một thanh niên cho tay vào miệng huýt sáo mời vị
thần ở núi Brahyang về dự. Sau khi cúng xong dân làng làm thịt trâu và ăn uống đến xế
chiều mới về nhà. Đen ngày cây lúa trổ bông, đồng bào làm lễ nhô kep. Ở lễ này dân làng
cúng tại gia đình riêng, mục đích là cầu xin cây lúa ra nhiều bông và chuột không phá
hoại. Khi lúa chín, từng gia đình tự làm lễ trồng cây nêu - nhô tôt đông) cắm ở mỗi thửa
ruộng một con ó nhỏ đan bằng tre. Con ó này cột chung với một cái mõ. Khi gió thổi, con
ó lay động làm cho con ó phát ra tiếng kêu tượng trưng cho tiếng kêu của con ó. Lý giải
về việc làm con ó đan bằng nan tre cắm ở ruộng, đồng bào tin rằng, vào mùa lúa chín
thần linh thường gửi đàn ó đến bay liệng trên cánh đồng lúa làm cho lúa chín rộ hơn.
Lễ cuối cùng trong chu kỳ nông nghiệp một năm là nhô lir bông. Lễ nhô lir bông được tổ
chức trong từng gia đình và vào những ngày khác nhau. Le cúng được tô chức tại kho
thóc mỗi nhà, bắt đầu từ xế chiều, có sự tham gia của chủ làng và các hộ gia đình khác.
Khi thực hiện lễ, người ta lấy tiết gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, cửa kho. Tiết gà
còn được trộn chung với vỏ cây đa, nghệ, đất gò mối, cỏ gianh để bôi lên ngực, lên trán
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

những người trong gia đình và bôi lên những đồ dùng trong nhà. Theo thần thoại người
Cơ Ho Srê, đất ụ mối và vỏ cây đa là những vật liệu mà thần Nđu đã dùng để tạo ra con

người thuở ban đầu, cho nên vào dịp năm mới, người Srê thoa những thứ đó vào cơ thể
để nhớ lại buổi sinh ra loài người.
3.10.

Tục lệ cưới xin

Người Cơ Ho theo quy tắc hôn nhân ngoại hôn dòng tộc, hôn nhân 1 vợ, 1 chồng, cư trú
bên nhà vợ. Trong truyền thống người Cờ Ho, người đàn bà đóng vai trò chủ động; trong
hôn nhân: con gái đi hỏi chồng, chịu mọi chi phí trong hôn nhân. Con gái đến tuổi trưởng
thành (15- 16 tuổi) con gái ưng ai thì trình bày với cha mẹ và nhờ người mai mối (lam
gônạ) đến ngỏ ý với gia đình nhà trai. Lễ vật được ông mối mang theo đến nhà trai gồm:
một vòng đồng và chuồi hạt cườm tượng trưng cho tài sản của nhà gái được đem tặng cho
nhà trai. Nếu gia đình nhà trai nhận lễ vật đó, có nghĩa là chấp nhận cuộc hôn nhân. Hai
bên thỏa thuận ngày tổ chức hôn lễ. Vào ngày hôn lễ, cô gái được cha mẹ và người mai
mối dẫn đến nhà trai, tổ chức hôn lễ tại nhà trai. Sau lễ thành hôn, chú rể về cư trú tại nhà
cô dâu. Khi chú rể về nhà cô dâu, cha mẹ chú rể đưa của hồi môn. Thông thường của hồi
môn có giá trị là: chiêng, ché, trâu, bò và một số đồ dùng cá nhân khác, nhưng vì sự tôn
kính công lao cha mẹ cho nên người con trai phải từ chối. Tuy nhiên một số đồ dùng mà
người con trai phải mang theo sang nhà vợ là: quần áo, một thanh gươm, hai chén, một
bát, một đôi đũa và một mâm đồng. Những tài sản này là thuộc quyên sở hữu riêng của
người con rể, gia đình cô dâu không coi đó là tài sản chung của gia đình.
Theo tập quán truyền thống, xã hội Cơ Ho không quan tâm đến quan hệ nam nữ tiền hôn
nhân, việc đó không ảnh hưởng đến hôn nhân. Nhưng ngoại tình sau hôn nhân bị coi là
một tội phạm và bị luật tục trừng phạt một cách nặng nề. Ly hôn là hiện tượng hiếm có
trong người Cơ Ho và muốn ly hôn phải được chủ làng chấp nhận. Trường hợp bị đứt
gánh giữạ đường, chồng hoặc vợ chết, người goá phải để tang một năm. Sau khi vợ chết,
người đàn ông Cơ Ho thường trở về nhà mẹ đẻ nhưng con cái vẫn tiếp tục ở bên nhà mẹ
nó. Nếu anh ta lấy chị em gái của vợ quá cổ hoặc được gia đình vợ cho phép thì có thể
trước mãn tang đã được lấy vợ mới.
Ngày nay, hôn nhân của người Cơ Ho vẫn dựa trên cơ sở tự nguyện của đôi trai gái, cha

mẹ không ép duyên cho con cái. Người con trai thường cư trú bên nhà vợ, nhưng đối với
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 14


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC CƠ HO | Hoàng Trần

những gia đình hiếm con trai, thì con gái vẫn có thể ở nhà chồng. Tuy nhiên con cái vẫn
theo họ mẹ.
3.11.

Tục lệ tang ma

Người Cơ Ho quan niệm, người sống có hồn và xác. Khi chết thì xác bị tiêu huỷ, nhưng
hồn còn tiếp tục tồn tại. Do vậy khi chết phải thực hiện những nghi lễ, có con vật hiến
sinh và có những kiêng cữ nhất định. Người Cơ Ho tắm rửa cho người chết sạch sẽ, thay
quần áo mới đẹp nhất cho người quá cố. Trong tang lễ người Cơ Ho tổ chức giết mổ súc
vật để cúng tế thần linh rồi sau đó thết đãi những người làng đến thăm viếng. Theo tục lệ
Cơ Ho người đến thăm viếng thường mang theo heo, gà hoặc một ché rượu góp vào lễ
hiến sinh cùng với tang chủ. Đây cũng là một tục lệ dân làng giúp nhau mỗi khi có việc
lớn, quan trọng trong cuộc sống của mỗi gia đình.

3.12.

Văn học nghệ thuật

Vốn văn học nghệ thuật dân gian của nsười Cơ Ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và
đầy nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lề hội. Nhạc cụ
truyền thống như bộ cồng 6 chiếc, kèn
ống bầu (kơm buat), đàn ổng tre (kơrla),
trống (sơgor) có khả năng hòa âm với lời

ca hoặc độc tấu.

Kèn ống bầu của người Cơ Ho
(Ảnh: sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 14



×