Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tổng quan dân tộc Si La (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Si La ..................................................................................................... 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 5

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 6

2.5.



Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 7

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 7
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 7

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 8

3.3.

Y phục, trang sức ............................................................................................................. 9

3.4.

Ẩm thực .......................................................................................................................... 10

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 11

3.6.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 11

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................................................... 12

3.8.

Lễ hội.............................................................................................................................. 14

3.9.

Gia đình, dòng họ ........................................................................................................... 16

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 17

3.11.

Tập quán sinh đẻ và nuôi con nhỏ .............................................................................. 19

3.12.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 20

3.13.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 21

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần


1. Vài Nét Về Dân Tộc Si La

Dân số : 709 người (2009)
Ngôn Ngữ: huộc nhóm ngôn ngữ
Tạng - Miến, ngữ hệ Hán - Tạng
Tên gọi khác: Cú Dé Xử, Khả Pẻ
Nhóm địa phương:
Địa bàn cư trú: Lai Châu, Điện Biên,

Địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Si La ở Việt Nam có dân số
709 người, có mặt tại 17 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Si La cư trú tập
trung tại các tỉnh: Lai Châu (530 người, chiếm 74,75% tổng số người Si La tại
Việt Nam), Điện Biên (148 người, chiếm 20,87% tổng số người Si La tại Việt
Nam), các tỉnh khác mỗi tỉnh có không quá 10 người .

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Nguồn lương thực chính của dân tộc Si La là cây lúa nương. Ngoài ra người Si La còn
trồng ngô, cây cao lương. Lúa và ngô đều có giống cơ bản là lúa nếp, lúa tẻ và ngô nếp,
ngô tẻ. Trong bộ giống cây lương thực của người Si La, cũng như các dân tộc khác ở Tây
Bắc nước ta, giống nếp thường phong phú hơn lúa tẻ. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy
giống lúa nếp ở Tây Bắc không hoàn toàn giống với giống lúa nếp ở miền đồng bằng, bởi
ăn nếp ở Tây Băc không bị nóng cổ như ăn nếp ở đồng bằng; nếp ở Tây Bắc đồ từ sáng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần


đến chiều ăn vẫn dẻo. Phải chăng sự khác nhau này là do khác nhau về giống: nếp ở rẫy
Bắc là nếp trồng trên nương khô cạn, còn nếp ở đồng bằng là nếp cấy ở ruộng nước.
Sinh sống ở vùng rừng núi, đất dốc, đồng bào Si La thực hiện việc gieo trồng lúa nương
theo hai cách: chọc lỗ tra hạt, hoặc vãi hạt giống ra nương. Cách chọc lỗ tra hạt được thực
hiện nhiều hơn, vì nương của đồng bào chủ yếu là nương trên đất có độ dốc khá cao.
Thực hiện theo phương thức này, sau khi đã chuẩn bị đất xong, người ta bắt đầu tra hạt
giống. Thông thường có hai người, một người chọc lỗ đi trước và một người tra hạt giống
xuống lồ rồi dùng chân gạt đất lấp kín hạt giống.
Trong gia đình, thông
thường người chồng đi
trước chọc lỗ, người
vợ đi theo sau tra hạt
và lấp đất. Cách gieo
trồng thứ hai được áp
dụng cho những mảnh
nương định canh:
nương dùng cày, dùng
cuốc đế làm đất, là
nương trên bãi hay

Trồng rau xanh (Ảnh sưu tầm)

trên những sườn đồi

thấp. Sau khi đã cày bừa làm đất xong, người ta tiến hành gieo vãi hạt giống đều ra khắp
nương, sau đó dùng cành cây kéo để lấp đất cho những hạt giống vừa được vãi xuống đất
đó. Cây cao lương được trồng với số lượng ít. Cao lương thường được rang ăn như ăn
ngô rang, hoặc làm rượu, sắn là loại cây trồng mới được người Si La trồng từ nửa sau của
thế kỷ XX. Cây sắn dễ trồng, không kén đất, lại cho năng suất khá, cho nên nó được phát
triển khá nhanh. Củ sắn được đồng bào sử dụng để ăn tươi, làm thức ăn cho gia cầm, cho

lợn, hoặc thái lát phơi khô để ăn dần, nấu rượu.
Ngoài cây lương thực, người Si La còn trồng một số loại cây khác như cây bông, cây
chuối, cây rau xanh: đậu đỗ, bầu bí.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Người Si La và nhiều dân tộc khác ở nước ta đều thành thạo kỹ thuật trồng xen canh, gối
vụ. Trừ nương lúa, tất cả các nương khác đều được trồng xen canh gối vụ. Dưới gốc cây
ngô, đồng bào thường trồng xen canh các loại cây: bí đỏ, bí xanh, hành, tỏi, rau cải,...
vừng, gừng, .đậu đen, khoai lang, khoai sọ. Trước đây người Si La cũng trồng cây thuốc
phiện trên các nương vào mùa đông. Đồng bào không làm vườn trồng rau.
Người Si La lao động sản xuất bằng những công cụ thô sơ. Những công cụ chính sử dụng
trong sản xuất của đồng bào là chiếc gậy chọc lỗ, chiếc cuốc, con dao cũ bẻ quặt lại để
cào đất.
2.2. Chăn nuôi
Dân tộc Si La chăn nuôi gia súc, gia cầm. Con trâu, con bò, con dê,... được đồng bào
chăn nuôi từ lâu đời, nhưng sự phát triển của chăn nuôi rất chậm chạp. Vị trí của chăn
nuôi luôn đứng sau trồng trọt lrou| quan hệ của nền kinh tế và không mang ý nghĩa hỗ trợ
trực tiếp cho sự phát triển của nghề trồng trọt, vì trong truyền thống, người Si La không
dùng trâu, bò để kéo cày. Tuy nhiên con trâu lại có giá trị rất quan trọng trong việc cung
cấp thực phẩm cho các dịp thực hiện các nghi lễ lớn trong cộng đồng như cưới xin, ma
chay, làm nhà mới và bán,..., sau khi Nhà nước thực hiện cuộc vận động định canh định
cư, đồng bào xuống núi, trong cơ cấu sản xuất có làm thêm nương định canh làm ruộng
nước, con trâu bước đầu tham gia vào việc kéo cày.
Người Si La chăn nuôi theo công thức chăn thả vào khu rừng cun bản. Mùa nông nhàn,
trâu được thả rông tự nhiên trong rừng. Mùa mưa đến, cũng đồng nghĩa là mùa sản xuất
bắt đầu, ban ngày đồng bào chăn thả trâu, bò ở trong rừng, ban đêm, lùa đàn trâu bò về
bản, từng đình cột những con trâu, bò của gia đình vào các gốc cây xung quanh nhà. Họ

không làm chuồng trại cho trâu, bò. Mùa trâu thả rông trong rừng khá lâu, nhưng trâu của
các gia đình không bị nhầm lẫn, bởi, mặt con trâu có đặc điểm là rất bám đàn của mình từ
lúc mới sinh ra, mặt khác, đồng bào thoả thuận cách đánh dấu riêng cho đàn trâu của gia
đình mình: có gia đình như đeo mõ tre cho trâu, có gia đình dùi tai trâu, cụt lông đuôi...
Nhờ vậy mà hầu như không thấy có sự nhầm lẫn, tranh chấp trâu, bò trong bản người Si
La.
Lợn, gà, vịt là những con vật nuôi mang tính phổ biến hơn. Gia đình nào cũng nuôi vài ba
con lợn, một đàn gà vịt. Cách nuôi lợn, gà, vịt cũng thực hiện chủ yếu theo cách chăn thả.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Tuy nhiên những con vật chỉ thả ban ngày, còn ban đêm thì nhốt trong chuồng. Hàng
ngày cho lợn, gà, vịt ăn hai bữa: bữa thứ nhất vào lúc sáng sớm, khi chúng mới thả từ
chuồng ra và bữa thứ hai lúc chiều tối, khi chúng sắp lên chuồng ngủ đêm.
Đồng bào Si La nuôi nhiều lợn, gà, vịt để sử dụng làm vật hiến sinh trong các dịp lễ tết,
các nghi lễ thờ cúng và làm thực phẩm khi có ngoài ra còn để bán.
2.3. Khai thác tự nhiên
Sống trong môi trường tự nhiên rừng núi, đồng bào Si La quan tâm khai thác các nguồn
lợi từ tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình.
Hái lượm lâm thổ sản là việc được làm thường ngày và là công việc của mọi thành viên
trong gia đình. Sản phẩm thu hái trong rừng gồm nhiêu chủng loại, đáp ứng nhu cầu hỗ
trợ lương thực và nhu cầu thực phẩm. Lâm thổ sản hỗ trợ lương thực như củ mài, cây
báng; còn hỗ trợ thực phẩm nhiều nhất là măng, các loại rau rừng: rau ngót rừng, dương
xỉ, lá chua, lá lốt. Vì đồng bào không làm vườn, cho nên rau rừng được thu hái thường
xuyên và tham gia vào bữa ăn hàng ngày của đồng bào. Ngoài măng, rau rừng người Si
La còn thu hái mộc nhĩ, nấm hương, mật ong. Đây là sản vật quý, không chỉ sử dụng cho
bữa ăn hàng ngày, mà còn có thể đem bán ở các chợ.
Người Si La cũng như nhiều dân tộc khác sinh sống ở trên vùng rừng núi, thường xuyên

hoạt động săn bắn. Việc săn bắn lúc nào cũng vừa có mục đích kiếm thịt cải thiện đời
sống, vừa có mục đích bảo vệ mùa màng, nhất là mùa màng đến kỳ thu hoạch. Đối tượng
săn bắn là các loại muông thú trên rừng và các loại thuỷ sản ở dưới sông, suối. Có nhiều
cách săn bắn như đánh bẫy. Công cụ dùng cho săn bắn là khẩu súng kíp, nỏ, bẫy các loại
săn rình cá nhân, săn đuổi tập thể. Gần đến mùa thu hoạch các gia đình thường đặt bẫy
trên đường mòn con thú vào nương. Trong hoạt động khai thác tự nhiên, người Si La còn
làm thêm nghề đãi vàng sa khoáng bên bờ sông Đà. Công cụ đãi vàng là chiếc máng gỗ
tự tạo, chiếc cân tiểu ly và một ít thuỷ ngân lỏng để thu gom vàng sa khoáng. Vào mùa
nước, một người có thể đãi được một phân vàng cám trong một ngày, cả năm có thể thu
được số vàng sa khoáng tính bằng chai.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

2.4. Ngành nghề thủ công
Ngành thủ công có tính phổ biến trong
đồng bào Si La là nghề đan lát mây tre
và đan móc sợi.
Đan lát được coi là công việc của
người nam giới. Con trai trong gia đình
lên 7-8 tuổi đã được bố chú ý dạy cho
đan lát. Do vậy khi đến tuổi trưởng
thành hầu như tất cả nam giới đều biết
đan mây tre. Khéo tay, có tài đan lát
được coi là một tiêu chí đánh giá người

Đan mây tre (Ảnh minh họa)


chủ gia đình tương lai. Nguyên vật liệu
dùng để đan lát chủ yếu là mây tre, nứa. Những thứ nguyên vật liệu này không cần mua,
mà chỉ cần chịu khó đi vào rừng tìm kiếm lấy về đan. Đồng bào rất có kinh nghiệm khai
thác các nguồn nguyên vật liệu. Thông thường người Si La khai thác các cây mây, tre,
nứa vào mùa thu đông, khi khí hậu khô, mùa rét đến, chu kỳ sinh trưởng của cây tạm bị
hạn chế, cây không ngậm nước. Những sản phẩm đan từ mây thường là chiếc gùi, mồi
người trong gia đình thường cân có hai, ba chiếc gùi, để sử dụng hàng ngày vào những
việc khác nhau. Nhìn từ góc độ kỹ thuật đan, có hai loại gùi: loại gùi đan bằng kỹ thuật
ba dùng vào việc gùi thóc, ngô, gạo,... còn gùi đan băng kỳ thuật đan mắt cáo, đan lóng
mốt thường dùng vào việc gùi khoai lang, săn, rau, củi. Nguyên liệu mây còn được dùng
đế đan chiếu đan hòm đựng quần áo, giỏ đựng cơm,...
Ngoài ra nhiều đồ gia dụng được đan bằng nan như: tấm trãi để đập lúa, cót để phơi thóc,
các loại nong, nia, mẹt, giàn, sàng...
Bên cạnh các đồ gia dụng, người Si La còn đan công cụ để đánh bắt cá như đan chài,
lưới. Nguyên liệu để đan chài, lưới chủ yếu dây gai hoặc sắn dây rừng.
Trong một số bản của người Si La có lò rèn, nhưng chưa có người làm nghề rèn chuyên
nghiệp, mà học làm việc sửa chữa dao, cuốc, liềm, khi có nhu cầu và cũng chi sửa chữa
cho trong bản.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

2.5. Trao đổi, mua bán
Kinh tế tự túc, tự cấp, cho nên việc trao đổi, mua bán có phần trầm lắng. Tuy nhiên, do
nhu cầu cuộc sống, việc trao đổi, mua bán vẫn diễn ra. Do cư trú ở vùng sâu, vùng xa,
việc trao đổi mua bán thường được thực hiện ở chợ xa nơi đồng bào cư trú như chợ thị
trấn Mường Tè, chợ thị xã Lai Châu (Mường Lay). Đồng bào Si La thường đưa các sản
phẩm của mình làm ra như các đồ đan mây tre, các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò, lợn,
gà,... cùng một số sản phẩm thu hái được từ tự nhiên mã nấm hương, mộc nhĩ, mật ong,

thậm chí cả vàng sa khoáng. Đồng bào thường mua các mặt hàng nhu yếu phẩm như
muối ăn, dầu thắp, nồi xoong, Quần áo, vải, một số loại nông cụ, giấy vở học trò, những
đồ dùng trang điểm cho chị em phu nữ. Một mặt hàng quen thuộc cho nam giới là họ mua
súng kíp của người Mông về để săn bắn muông thú, bảo về mùa màng.

3. Văn hoá truyền thống
3.1. Làng
Dân tộc Si La đến vùng Tây Bắc cư
trú tương đối muộn, khi làm hết đất
đai Tây Bắc thuộc chủ sở hữu là các
quý tộc phong kiến, từ đó đất dựng
bản cũng phụ thuộc vào chủ sở hữu
đất là người Thái. Ban đầu người Si
La đến ở Mường Mô, sau lại ngược
lên Mường Toong, Mường Nhé, sang
nửa sau của thế kỷ XX mới chuyển
xuống khu vực Tà Tổng và Can Hồ để
lập bản. Đến lập bản ở Can Hồ, người
Si La hoàn toàn lệ thuộc vào người

Một gốc làng dân tộc Si La
(Ảnh sưu tầm)

Thái về đất đai, rừng rú, sông, suối, sản vật tự nhiên, về mặt xã hội, người Si La được
quyền chiếm hữu và sử dụng nương do họ khai phá, nhưng phải nộp tô thuế và thực hiện
những công việc lao dịch khác, đồng thời phải tuân theo luật tục Thái.
Tập quán người Si La thường chọn đất bám dọc theo các dòng sông để dựng bản. Khi ở
bên Lào, họ cư trú ở dọc sông Nậm u, đến Việt Nam, đồng bào cũng chọn vùng đất dọc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

theo sông Nậm Mức, Nậm Xin. Nậm Tè (tên sông Đà ở thượng nguồn). Sự lựa chọn nơi
dựng bản của người Si La có lợi thế vừa gần rừng, vừa gần sông, do đó vừa có thể khai
thác tài nguyên rừng, vừa có thể khai thác thuỷ sản ở sông, lại thuận tiện về giao thông
liên lạc đi lại. Cách chọn đất dựng làng này có nét tương đồng với người Cống - một dân
tộc cũng có gốc từ Lào và khác với người Hà Nhì, người La Hủ - các dân tộc có nguồn
gốc từ Trung Quốc, luôn chọn nơi núi cao để dựng bản. Nhìn hình thức bên ngoài làng, ta
thấy, làng được dựng ở chân núi, nhìn ra thung lũng sông suối. Nhưng, nhìn vào vị trí
cổng làng, ta thấy cổng làng của đồng bào luôn được dựng ở phía Tây của làng. Phải
chăng, hướng Tây mới là hướng của làng nhìn từ phía tâm linh, hướng về cội nguồn nước
Lào ở phía tây. Trong làng, nhà ở được bồ trí theo kiểu mật tập.
3.2. Nhà ở
Người Si La ở nhà đất. Nguyên vật liệu làm
nhà là gỗ, tre nứa, lá. Những nguyên vật liệu
này sẵn có ở trong rừng, không phải mất tiền
đi mua, mà chi mất công đi vào rừng lấy.
Đồng bào thường làm nhà hai gian với hai
chái nhỏ. Nhà có hiên ở phía trước và chỉ mở
một cửa ra vào nhà ở một trong hai gian chính
đó.
Bố trí trong nhà ở được quy định chặt chẽ. Theo phong tục dân tộc, trong nhà ở có nơi đặt
bàn thờ để cúng bố mẹ, bàn thờ này thường đặt ở góc trái trong cùng. Bàn thờ đơn giản
chỉ là một tấm phên nan tre treo lên vách sau, trên đó, có một chén rượu nhỏ và một quả
bầu khô. Gian thờ được ngăn thành buồng riêng. Chủ nhà ngủ ngay gian buồng sát gian
thờ. Còn bàn thờ của cả dòng họ người Si La được đặt ở cột chính của nhà trưởng họ.
Nhà ở của người Si La có hai bếp. Bếp chính đặt ở giữa nhà, bếp này đồng bào kê ba hòn
đá làm ba ông đồ rau. Trong đó ông đồ rau quan trọng nhất - xì xhi kho lọ (đá thờ) quay
lưng về phía bàn thờ tổ tiên. Người Si La quan niệm rằng, tổ tiên thường ở đó để trông

coi bếp lửa của gia đình.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

3.3. Y phục, trang sức
Người Si La không duy trì được
nghề dệt truyền thống, cho nên,
họ đã sử dụng vải của người Thái
hoặc vải công nghiệp để làm
quần áo mộc Y phục của phụ nữ
có nhiều nét độc đáo. Phụ nữ
mặc váy kín, dài đến mắt cá
chân, màu đen hay màu chàm,
không hoa văn trang trí, khi mặc,
giắt mối váy phía sau lưng. Do
vậy, người Thái còn gọi người Si
La là Khả pẻ - người mặc váy giắt mối ở đằng sau. Chị em phụ nữ Si La mặc áo ngắn hở
bụng, cài cúc dưới nách phải, không chần cổ áo. Nét đặc trưng của áo phụ nữ Si La thể
hiện ở vạt ngực áo. Đâv là miếng vải công nghiệp khác màu với màu áo, đính vào nửa
thân trước áo. Trên miếng vải đó gắn 72 đồng xu bằng bạc hay nhôm thành 9 hàng
ngang, cồ áo, ống tay áo được trang trí bằng cách đắp thêm những dải vải màu khác nhau.
Khăn đội đầu của phụ nữ Si La được làm bằng vải trắng có hình chữ nhật, chiều dài
chừng 80cm, chiều rộng khoảng 20cm. Trên khăn đó những đường thêu kẻ dọc, ngang,
tạo thành những ô vuông lớn bằng du đỏ. Hai đầu khăn trang trí bằng tua chỉ màu và
những đồng xu bằng bạc hoặc nhôm. Khi đội, một đầu khăn được giắt trước trán, còn đầu
kia buông lửng phía sau lưng. Chiếc khăn đội đàu màu trắng cũng là dấu hiệu về người
con gái chưa chồng . Sau khi cưới các cô gái phải bỏ chiếc khăn trắng để đội chiếc khăn

đen. Chiếc khăn màu đen là chiếc khăn chứng tỏ người phụ nữ đã có chồng. Cách đội
chiếc khăn đen có phần phức tạp hơn về kỹ thuật đội. Chiếc khăn phải được quấn, sao
cho tạo hình hai chiếc sừng mới nhú ở trên đầu. Phụ nữ Si La thường đội nón kín ra
đường. Nón được đan bằng nan giang, gồm hai lớp: lớp bên trong đun mắt cáo để làm
khung, lớp bên ngoài đan lóng ba rất khít, dày. Bên ngoài nón được quang một lớp nhựa
thông đdể chống nước thấm.
Y phục nam giới Si La không khác y phục nam giới các dân tộc trong vùng: cũng áo xẻ
ngực, ngắn, cổ đứng, có hai hoặc ba túi; chân què, cạp lá toạ. Tuy nhiên chiếc khăn đội
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

đầu của nam giới Si La hoàn toàn khác với chiếc khăn đội đầu các dân tộc cùng cư trú
trong vùng. Nam giới Si La bao giờ cũng đội đầu bằng khăn màu trắng, vần theo kiểu đầu
rìu của người Kinh trước đây.
Ngoài trang trí trên y phục, người Si La còn mang đồ trang sức bằng bạc, nhuộm răng. Ở
lứa tuổi trẻ em. nam, nữ đều đeo vòng cổ. Vòng cổ được đeo mang ý nghĩa một thứ bùa
hơn là một đồ trang sức. Khi lớn lên, nam giới không đeo vòng cổ nữa, nhưng phụ nữ vẫn
đeo và còn đeo thêm cả nhẫn và hoa tai nữa. Người Si La xưa có tục nhuộm răng. Cả nam
và nữ đều nhuộm răng. Nam hay nhuộm răng màu đỏ sậm còn nữ thường nhuộm răng
màu đen tuyền. Nguyên liệu để nhuộm răng gồm bồ hóng, cánh kiến và một số thảo mộc
khác. Việc nhuộm răng, ngoài ý nghĩa làm đẹp, còn có ý nghĩa bảo vệ răng, giúp cho răng
chắc lâu bền.
3.4. Ẩ m thực
Nguồn lương thực chính của người Si La là lúa gạo, ngô. Trước đây gạo nếp được ưa
thích hơn gạo tẻ, khi tiếp khách quý thường dùng gạo nếp đồ xôi ăn với thị gà, cá. Ngoài
cách nấu cơm đồ xôi thông thường, người Si La cũng có cách làm cơm lam. Với lương
thực là ngô, người Si La cũng xay thành bột, rồi đồ hai lần như mèn mén, mà người
Mông vẫn làm. Ngô non còn

luộc hoặc ngô già đem rang
ăn như ăn quà.
Người Si La có chế biến một
số loại bánh từ gạo nếp, như
bánh giầy, từ cao lương chế
biến thành bánh cao lương,
làm bánh ngô,... Bánh giầy
thì đồ xôi chín mới đem ra
cối giã, nhưng bánh cao

Bành giầy trong các dịp lễ (Ảnh minh họa)

lương và bánh ngô thì xay
thành bột mịn, cho bột nhão, rồi gói trong lá chuối, đem đồ.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Nguồn thực phẩm thực vật thường ngày của người Si La là măng, các loại rau, các loại
đậu đỗ, dưa chuột. Cách chế biến đơn giản, phổ biến là nấu canh hoặc luộc chấm muối ớt.
Ngoài cách nấu canh và luộc rau, người Si La còn có cách làm rau. Đồng bào cho rau
ngót rừng, rau tàu bay, đọt báng, măng đắng đã rửa sạch, vo kỹ, cho vào ống nứa. rồi đặt
lên bếp lửa đun cho đến khi vỏ nứa cháy là rau đã chín, chẻ ống nứa lấy rau ra ăn được.
Thực phẩm nguồn gốc động vật cũng có nhiều cách chế biến khác nhau. Thông thường
chúng ta đến nhà người Si La có thể thường gặp các cách chế biến như: luộc, kho, nướng
và nộm chua.
Luộc là cách chế biến chủ yếu đối với thịt lợn, thịt gà nhà, thịt vịt, thịt trâu hò và thịt dê.
Các món thịt luộc thường cần có món chấm. Món chấm rất đặc trưng ở đây là món hạt

tiêu rừng, mà tiếng Thái gọi là “miu khén”. Món thịt kho và món thịt nướng cũng thường
xuyên được chế biến. Phải chăng các món
ăn này phù hợp với cách ăn xôi bốc bằng
tay. Món ăn chua có thể được chế biến từ
rau xanh, hoặc từ thịt, cá.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Cũng như các dân tộc khác, người Si La
sử dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói của dân tộc Si La thuộc về ngôn
ngữ Hán - Tạng, nhóm ngôn ngữ Tạng -

Chiếc gùi (Ảnh minh họa)

Miến. Theo nhiều nhà nghiên cứu ngôn
ngữ, tiếng Si La gần tiếng Miến hơn tiếng Tạng. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu mới của
ngôn ngữ học cho thấy, tiếng nói của người Si La thuộc loại đa âm tiết, có nhiều phụ âm
dính và phụ âm tắc ở cuối mỗi từ. Tiếng Si La hiện nay chịu nhiều ảnh hưởng của tiếng
Thái, tiếng Hà Nhì .Tiếng Si La vẫn được sử dụng phổ biến trong giao tiếp nội bộ dân tộc
trong gia đình. Việc sử dụng tiếng Việt ngày càng nhiều.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

3.7. Tín ngưỡng tôn giáo
Người Si La tin vào đa thần, quan niệm vạn vật hữu linh, mọi vật đều có linh hồn - thần
linh. Con người cũng có phần xác và phần hồn.
Người Si La quan niệm trong vũ trụ có ba thế giới vật chất. Đó là thế giới trần gian, thế

giới trên trời và thế giới dưới đất. Trong hai thế giới đó đều có người sinh sống. Thế giới
trần gian là nơi sinh sống của người trần thế - số dề thế giới trên trời là nơi sinh sống của
người trời nhì vớ so dề; thế giới dưới đất là nơi sinh sống của người dưới lòng đất pì xẻ
né sổ dề. Theo quan niệm của người Si La cuộc sống của con người dưới mặt đất đều
giống nhau. Song thời gian của hai thế giới này lại hoàn toàn ngược nhau. Nếu trên mặt
đất là ban ngày, thì dưới lòng đất là ban đêm, và ngược lại nếu trên mặt đất là ban đêm thì
dưới lòng đất lại là ban ngày. Lúc mặt trời lặn, toả sáng vào lòng đất, cho nên mặt đất tối
om. Người Si La cũng quan niệm rằng, người ở trên trời thường đeo dim ở cổ và lúc nào
cũng mang theo một ống tre, trong đó có cục than để lấy lửa. Thế giới trên trời và thế giới
dưới mặt đất thông với nhau qua| một hố sâu, họ phải qua mặt đất mới đến với nhau
được. Sau này, họ lấp đi, người ở ba thế giới không đi lại với nhau được nữa.
Người Si La cũng quan niệm rằng, ngoài ba thế giới vật chất vừa nêu trên, còn có một thế
giới khác nữa. Đó là thế giới của thần linh, ma quỷ. Chính linh hồn của con người sau khi
chết cũng gia nhập vào thế giới này. Theo người Si l.a, có sự phân biệt giữa linh hồn
người và linh hồn các loài vật khác. Các loài vật, cỏ cây, súc vật chỉ có một hồn và không
có sự phân hiệt linh hồn theo giới tính. Còn con người thì có sự phân biệt rõ ràng về số
lượng hồn đối với giới tính. Nam giới có nhiều hồn hơn nữ giới. Nam giới có 9 hồn - lá tù
ma củ kho, nữ có 7 hồn - lá tù ma xì kho. Người Si La cũng không phân biệt khái niệm
hồn và vía, mà đồng nhất chúng làm một, gọi tên là lá tù. Theo quan niệm của người Si
La, hồn của người thường trú ở hai bờ vai, sau gáy và ở hốc mắt. Trong đó hai hồn ngụ ở
sau gáy và hai mắt là quan trọng nhất. Chính vì vậy, người ta kiêng vồ vào vai, vào gáy
và chọc vào mắt.
Khi người chết, linh hồn trở thành ma - nị, Ngoài ma người, còn có nhiều loại ma khác
tồn tại trong tự nhiên. Ma được chia thành hai loại: ma lành và ma dữ. Ma lành gồm ma
tổ tiên, ông bà, bố mẹ, ma trời, ma đất. Ma lành thường phù hộ cho con người khoẻ
mạnh, mùa màng hội thu, gia súc, gia cầm đầy chuồng; còn ma dữ gồm: ma suối, ma cây
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần


đa, cây sim, ma hang đá, các loại ma do người chết bất đắc kỳ tử biến thành. Ma dữ
chuyên làm hại người, trong đó đáng sợ nhất là ma thần sấm. Khi ma lành hay ma dữ đòi
ăn đều phải cúng với hiện vật khác nhau, địa điểm khác nhau và do thầy cúng chủ trì.
Từ quan niệm về linh hồn và ma như trên, người Si La có một số nghi lễ liên quan đến
thờ cúng như: thờ cúng tổ tiên, Tết năm mới, Lễ mừng thọ, Nghi lễ nông nghiệp,...
Thờ cúng tổ tiên-xì chi nị: Người Si La quan niệm tổ tiên gồm hai lớp: bố mẹ và những
người thuộc thế hệ trên bố mẹ. Bố mẹ được thờ ở từng gia đình. Trên bàn thờ gia đình có
2 cái chén và 1 quả bầu nhỏ.
Theo tục lệ, khi bố mẹ còn sống thì không tách bàn thờ cho những người con trai đã xây
dựng gia đình và đã ra ở riêng. Thường có bao nhiêu con trai thì cúng bấy nhiêu chén và
sau đó đều đặt lên bàn thờ. Những chén này là biểu tượng thờ cha mẹ đã khuất. Chỉ khi
nào cha mẹ mất, con trai dựng nhà riêng, lập bàn thờ để cúng cha mẹ thì mới được chia
chén thờ từ bàn thờ gốc đó. Những người thuộc thế hệ trên của bố mẹ, ông bà, cụ, kỵ,...
được thờ cũng tại nhà trưởng họ. Người trưởng họ thường là người già nhất trong họ,
không phân biệt dòng trưởng hay dòng thứ, cho nên bàn thờ trưởng họ có thể đổi từ nhà
này sang nhà khác. Hàng năm, người Si La cúng tổ tiên hai kỳ: tết tháng 6 và tết tháng
10. Tết tháng 6 là tết Cầu mưa; còn tết tháng 10 là tết Năm mới- ồ xị già. Tết Năm mới:
Người Si La không quy định ngày cụ thể về tết Năm mới. Tết năm mới của họ có thể tổ
chức vào khoảng từ tháng 10 đến tháng 11 hay 12 âm lịch, tuỳ từng năm. Ngoài bánh
chưng, bánh giầy, lễ vật cúng năm mới mang tính đặc trưng nhất là: 2 con cá bong, 2 con
cun, 2 con sóc (nêu bố mẹ còn sống thì chỉ cần 1 con sóc), 1 gói gạo, 1 gói cơm đô, 3 - 4
bông lúa, 2 bông ý dĩ, vài củ khoai sọ và vài ngọn nến, sáp ong. Tất cả những lễ vật cúng
năm mới này được sắp thành hai mâm. một mâm để cúng bố mẹ ở nhà; mâm kia được
dâng cúng các bậc trên cha mẹ ở nhà trưởng họ. Trưởng họ là người chủ trì lễ cúng. Tất
cả anh em họ hàng ăn bữa cơm chung tại nhà trưởng họ.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

3.8. Lễ hội
Lễ mừng thọ: Người Si La có
tập quán làm lễ mừng thọ cho
cha mẹ, khi họ về già - từ tuổi 39
trở lên. Con cái là
người tổ chức cho
cha mẹ. Lễ mừng
thọ được tổ chức
định kỳ theo giáp.
Lễ vật trong lễ
mừng thọ do các
con đóng góp,

Lễ cúng
bản của
người Si
La
(Ảnh
minh
họa)

gồm lợn, gà, rượu, gạo. Trong dịp lễ mừng thọ. chủ nhà mời họ hàng, nội, ngoại và bà
con trong bản đến dự. Những người được mời thường mang theo gạo, trứng, gà sống và
chỉ để buộc tay chúc thọ người được làm lễ mừng thọ.
Lễ cúng bản: Lễ cúng bản thường được tổ chức vào tháng Giêng âm lịch hàng năm, theo
phạm vi từng bản. Để làm lễ cúng bản, bản phải cử ra một số ông thầy cúng - mồ phế của
bản đứng ra làm chủ công. Chủ công là người thạo việc cúng bái, hiểu biết phong tục dân
tộc. Chủ công chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành chuẩn bị lễ vật và thực hiện các nghi

lễ
chính. Lễ vật cho lễ cúng bản do dân bản bàn bạc đóng góp. Sau lễ cúng bản, nếu năm đó
được mùa thì chủ công được tiếp tục tổ chức, điều hành việc lễ cúng bản năm sau.
Địa điểm thực hiện lễ cúng bản là tại một gốc cây to gần cổng mới dựng. Lễ vật cúng
gồm 1 con chó đỏ, 1 con gà trống trắng và 1 bát gạo Người ta cắt tiết chó, gà và lấy tiết
nó bôi lên ta leo - plạ, rồi dọn chó và gà ra mâm lá chuối để cúng. Cúng xong, người ta
nấu nướng ăn tại. Mỗi gia đình chỉ được một người đàn ông tham dự lễ này. Khi đi dự
cúng bản, người ta mang theo cơm nếp và rượu. Sau lễ cúng bản, các gia đình tổ chức ăn
uống vui chơi trong 2 ngày. Mọi người đều nghỉ ở nhà mình, không đi làm, không sang
nhà khác chơi. Nếu gia đình có khách cũng cần giữ khách lại cho hết 2 ngày mới được
cho khách ra đi.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Lễ cúng mu dà, ma suối: Lễ cúng được tiến hành trong gia đình, không phải là nghi lễ
cúng định kỳ. mà thực chất là cúng ma chữa bệnh cho người ốm, mà thầy bói xem và
phán là ốm do con ma đá, ma suối đòi ăn. Lễ cúng ma đá, ma suối được thực hiện vào
buổi chiều tối, cạnh một hòn đá bên bờ suối. Lễ vật cúng là một con gà trống trắng. Cần
có thầy cúng thực hiện lễ cúng này.
Cúng ma người chết bất đắc kỳ tử. Nếu nhà có người ốm, thầy cúng phán là do ma người
chết bất đắc kỳ tử đòi ăn thì phải cúng ma bất đắc kỳ tử. Lễ vật cúng gồm 1 con chó đen,
1 chai rượu và gạo. Mời thầy cúng chủ trì cuộc lễ. Người ta không dùng dao giết chó, mà
dùng gậy đập chết con chó ở trước cửa nhà. Thầy cúng cúng lần 1 ở ngoài cửa chính, khi
con chó mới đập chết. Sau đó thui chó, xẻ thịt, toàn bộ thịt chó đặt vào cái mẹt đã lót lá
chuối, đặt ở gian giữa trong nhà để cúng lần thứ hai. Cúng xong lần thứ hai này, người ta
mới tiến hành nấu nướng, ăn uống.
Nghi lễ nông nghiệp: Người Si La quan niệm, hồn của lúa, ngô là yếu tố rất quan trọng,
có ý nghĩa quyết định cả quá trình sinh trưởng và ra hoa kết trái của cây và dẫn đến sự

bội thu của mùa màng. Do đó cần có một số nghi lễ để đảm bảo cho sự phát triển của cây
trồng để kết quả thu hoạch vụ mùa tốt đẹp hơn.
Lễ gieo hạt - cà si le: Trước khi vào vụ gieo hạt vài ba ngày, người Si La tổ chức làm lễ
gieo hạt tượng trưng. Sáng sớm hôm đó, các chủ nhà mang theo quả bầu đựng nước, một
cục than, gậy chọc lỗ, một ít thóc giống, ngô giống, khoai sọ, gừng cây, hành, bầu bí, 2
con cá khô, 1 cái đầu con dúi, 1 quả trứng, một ít cơm đến nương. Tất cả những thứ này
được bày ra trên mâm, đặt bên cạnh lều nương đã dựng sẵn để cúng. Người trưởng họ
chủ trì nghi lễ chung cho dòng họ. Chủ lễ gieo ít lúa tượng trưng bên cạnh mâm cúng,
diễn lại quá trình gieọ lúa nương trong vòng vài phút. Sau đó nghỉ ngơi, ăn cơm trong
lều. Chiều tối, ngọn lửa được nhóm lên, người hành lễ gieo vài hộc tượng trưng rồi ra về.
Sau nghi lễ này, trước ngày gieo hạt, người Si La còn có một ngày cấm bản, gọi là mìa lô
lô. Trong cả ngày đêm đó, người lạ vào bản, các gia đình không nhóm bếp nấu ăn. Ngày
cấm bản do trưởng bản và các trưởng họ quy định chung cho bản.
Lễ cúng nương - dá mí lổ: Lễ này được tổ chức ở trên nương vào thời điểm sau khi gieo
hạt xong với mục đích cầu cho tổ tiên, thần linh phù hộ cho lúa ngô xanh tốt. Lễ vật cúng
gồm 1 con gà trống đỏ hoặc đen, trồng một cây nêu để ngăn ngừa ma quỷ. Đến ngày
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

cúng nương, chủ nhà mang gà sống lên nương rồi giết thịt tại nương đổ - trời đất và tổ
tiên. Cúng xong người ta dựng một ta leo tại nơi cúng và các ngả đường vào nương để
cấm người lạ và ma quỷ đi lại.
Lễ cơm mới - ồ mí khe: Khoảng tháng 8 âm lịch, khi lúa trên nương bắt đầu chín rộ, các
gia đình Si La tổ chức lễ cơm mới. Lễ cơm mới được tổ chức theo dòng họ. Chuẩn bị cho
lễ cơm mới, mỗi gia đình gặt lấy một ít lúa chín về hong khô, giã lấy gạo để làm cơm
cúng; đồng thời mỗi gia đình cũng lấy vài bông lúa mới về cắm lên bàn thờ ma nhà và
bàn thờ dòng họ. Vào ngày đã định, mỗi gia đình mang theo cơm mới, 2 con SÓI, 2 con
chim, 2 con cá khô (không lấy thịt con vật nuôi), tới cúng tại nhất trưởng họ. Cúng xong

cả họ cùng ăn cơm chung tại nhà trưởng họ.
Lễ thu hoạch lúa - có du mía lo: Nghi lễ này được thực hiện vào dịp trước ngày thu hoạch
lúa đại trà. Đồng bào thịt lợn, gà để vừa cúng tổ tiên ở nhà, vừa cúng tạ ơn trời, đất ở
ngoài nương.
Lễ cúng hồn lúa - à lá khú co: Theo phong tục người Si La, lễ gọi hồn lúa được thực hiện
từ ba đến bảy năm/lần. Trong điều kiện thiên nhiên khác thường, mưa nhiều chảy qua
nương như dòng suối, đồng bào cũng tổ chức gọi hồn lúa. Một khi đã làm lễ gọi hồn lúa
thì phải làm nhiều năm liền. Mỗi năm lễ vật một khác. Năm đầu làm lễ gọi hồn lúa, lễ vật
là con gà trống, năm thứ hai thêm con vịt, năm thứ ba thêm con lợn. Nghi thức gọi hồn
lúa là: người gọi hồn lúa tay cầm một bát gạo, một cái vợt bắt cá và một lá cây bluỷ bỉu,
vừa đi xung quanh nương, vừa gọi hồn lúa. Ông ta vãi ít gạo ra nương và gọi hồn lúa về.
về đến nhà, ông ta mổ gà, lợn cúng để giữ hồn lúa ở lại trong nhà. Người Si La tin rằng
hồn lúa được giữ lại trong bát gạo, do đó bát gạo được chủ nhà cất kỹ vào hòm. Bữa cơm
sau cúng hồn lúa chỉ dành cho người trong nhà. Người trong họ có thể vào ăn cơm,
nhưng không được nói năng gì. Người lạ tuyệt đối không được vào nhà trong lễ cúng này.
3.9. Gia đình, dòng họ
Gia đình của người Si La là gia đình nhỏ phụ hệ. Trong gia đình thường có hai thế hệ là
bố mẹ và con cái sinh sống. Con cái sinh ra lấy họ theo họ bố. Con trai được kế thừa tài
sản do bố mẹ để lại. Con trai cũng là người chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên và chăm sóc
mồ mả của gia đình và dòng họ.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Gia đình Si La là gia đình phụ quyền. Trong gia đình, người bố và người con trai có
nhiều quyền hành trong việc quyết những việc quan trọng như cưới xin, làm nhà mới, ma
chay, trong quan hệ cộng đồng và xã hội. Trong gia đình mọi người bình đẳng trong lao
động, cùng lao động, cùng hưởng thụ thành quả lao động làm ra. Người già và trẻ em
được ứng xử ưu tiên trong việc làm và cái ăn. Người già không phải làm việc nặng nhọc,

trẻ em được người lớn nhường cho những miếng ăn ngon, bổ.
Làng người Si La thường chỉ có người Si La sinh sống và có quan hệ dòng họ với nhau.
Theo tài liệu nghiên cứu dân tộc học, khi mới tới cư trú ở Việt Nam, người Si La có 5 họ
là: Hù, Pờ, Lỳ, Lý Giàng, về sau này có hiện tượng tách họ. Cùng một họ gốc tách thành
họ to. họ nhở. Thí dụ như họ Hù là họ gốc, nhưng về sau tách thành họ Hù to và Hù nhỏ.
Các họ khác cũng có hiện tượng tách họ tương tự. Do vậy, trên thực tế hiện nay người Si
La có nhiều họ khác nhau. Tất cả các dòng họ người Si La đều kiêng ăn thịt mèo. Riêng
họ Hù kiêng ăn thịt thêm một con vật nữa đó là con hổ. Việc kiêng ăn thịt hổ liên quan
đến một truyền thuyết về mối tình của một chàng trai với một cô gái dân tộc Si La. Đôi
trai gái yêu nhau thắm thiết, muốn được xây dựng gia đình chung sống bên nhau suốt đời
nhưng do hai bên gia đình không đồng ý cho lấy nhau, cho nên chàng trai bỏ nhà ra đi.
Chàng trai đi vào rừng và kết bạn với một con hổ. Hổ hiểu mối tình trắc trở của bạn, đã
bắt cóc cô gái về cho chàng trai. Từ đó chàng trai và cô gái chung sống bên nhau hạnh
phúc ở trong rừng. Để cảm ơn hổ, con cháu do họ sinh ra đã mang họ Hù (tiếng Hán là
hổ).
3.10.

Tục lệ cưới xin

Người Si La theo chế độ ngoại hôn dòng tộc, người trong cùng một họ không được lấy
nhau, kể cả khác chi. Tuy nhiên hôn nhân con cô cùng cậu được chấp nhận, nghĩa là con
trai, con gái của cậu có thế lấy con trai con gái của cô, vì chúng khác họ nhau; cũng theo
quan niệm đó con con già cũng có thể lấy nhau, nếu bố của chúng khác họ. Các tục lệ hôn
nhân anh em chồng và tục hôn nhân chị em vợ - sororat đều bị ngăn cấm.
Hôn nhân của người Si La cũng là hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Dàu đỏ có gia
đình một chồng hai vợ, nhưng đó chỉ là những trường hợp cá biệt như lấy vợ cả không có
con, hoặc vị chức sắc nào đó ra oai gặp gái đẹp, lấy thêm vợ bé.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 23



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Sau hôn nhân, theo tục lệ của người Si La, người con gái về cư trú tại nhà chồng.
Phong tục người Si La tổ chức cưới hai lần. Cưới lần một và lần hai cách nhau khoảng
một năm. Khi đôi trai gái yêu nhau, đêm đến, người con trai có thể đến nhà cô gái. Sau ba
đêm, nếu thực sự yêu nhau, đêm nào người con trai cũng có thể đến nhà người con gái.
Vài tháng sau, người ta có thể làm lễ cưới lần thứ nhất. Tục lệ cưới diễn ra như sau: Đến
ngày hẹn, vào ba buổi sáng sớm trước khi gà gáy, em gái người con trai tới nhà gái, đứng
ở ngoài vách gọi to: “Bà ơi” hay nói: “Con trai, con gái lớn đến tuổi lấy vợ, lấy chồng,
gia đình cho tôi xin chị cả (hoặc chị hai, chị ba...) về làm dâu. Nói xong cô ta về ngay,
không cần gia chủ đáp lại.
Đến sáng thứ tư, người em gái cùng các bạn gái của mình sang bên nhà cô gái đón dâu.
Em của chàng rể gái lại đứng ở ngoài nhà nói vào nhà gái: ‘"Hôm nay là ngày tốt, thế nào
cũng xin cho đón dâu về”. Bà mẹ cô dâu nói vọng từ trong nhà ra: “Có con gái thì phải có
con rể, con gái không ở mãi với bố mẹ được”. Sau đó, chị dâu hoặc mẹ dắt cô dâu ra cửa.
Các cô gái bên nhà trai dắt cô dâu vào rừng. Họ ở trong rừng suốt một ngày, tới khuya
mới trở về nhà trai, về đến nhà, đoàn đón dâu đứng ở ngoài hiên, không được vào nhà
ngay. Bà mẹ chồng đưa cho cô dâu quần áo mới, vòng tay, vòng cổ và khăn đội đầu ngày
cưới. Cùng lúc đó, ở trong nhà, người trưởng họ ngồi bên bếp thiêng cúng, báo cho tổ
tiên biết gia đình có thêm một thành viên mới. Lễ vật để cúng chỉ gồm một con gà trống,
một con gà mái, một quả trứng gà luộc và một ít xôi chia thành 9 phần nhỏ cỡ bằng ngón
tay bày trên mâm. Lễ vật trên mâm mang ý nghĩa sau: đôi gà một trống, một mái là ước
mong về sự song toàn, chung thuỷ; quả trứng cùng nắm xôi là sự mong mỏi về con đường
tài lộc của đôi vợ chồng trẻ. Cúng xong, trưởng họ trao trứng và xôi cho chàng trai để
thực hiện các nghi thức biểu hiện tình yêu thương chung thuỷ của đôi vợ chồng trước sự
chứng kiến của tổ tiên và gia tộc. Chàng rể đứng bên trong cửa, bắt chéo hai tay, tay trái
cầm quả trứng gà để ở bên trên, tay phải cầm những nắm xôi để ở bên dưới rồi trao cho
cô dâu. Cô dâu đứng ngoài cửa và cũng bắt chéo hai tay như chàng rể, nhận những nắm
xôi và quả trứng do chú rể trao cho. Hai người phải cùng nhau ăn hết quả trứng và nắm
xôi ngay tại cửa. Sau nghi thức này. gia đình bày mâm cơm mời các cụ thuộc vai trên

trong họ cùng nhau ăn uống bên bếp thiêng. Riêng đoàn đón dâu và cô dâu vẫn phải ngồi
ngoài hiên chờ khi nào mọi người ăn xong mới được vào nhà, rồi tiếp tục chờ khi nào
khách khứa về hết mới được ăn cơm. Đêm đó, đôi vợ chồng mới cưới vẫn phải ngủ ở góc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

ngoài, gian bên trái, nơi vẫn dành cho khách hoặc bản thân anh ta khi chưa lấy vợ. Đêm
hôm sau đôi vợ chồng mới được vào buồng ngủ.
Khi tổ chức cưới lần thứ nhất, nhà trai không phải mở tiệc chiêu đãi dân bản, vì công việc
lúc này mang tính chất nội bộ.
Trong lúc đi đón dâu, người Si La rất sợ nghe tiếng hoãng hoặc tiếng chim - sị dê kêu, vì
tiếng kêu của những con vật đó khi đón dâu là điềm gở cho cặp vợ chồng trẻ. Gặp trường
hợp như vậy, đoàn đón dâu phải trở lại nhà để hôm sau mới lại đi đón dâu.
Cưới lần hai cách lần cưới thứ nhất khoảng một năm. Trong lần cưới này, cả nhà trai và
nhà gái đều phải mở tiệc chiêu đãi khách. Nhưng cưới lần hai, nhà trai mổ lợn mang sang
nhà gái một đùi lợn và một phán lá gan làm đồ dẫn cưới. Nhà gái cắt từ thịt đó ra ba
miếng thịt mỡ và hai miếng gan đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên để thông báo cho tổ tiên biết
con gái đã đi lấy chồng, từ nay cô ta không là người gia đình mình nữa. Nhà trai cũng
phải đưa cặp tân hôn đến làm lễ cúng ở bàn thờ tổ tiên mình, với lễ vật tương tự như bên
nhà gái. Sau lễ cúng gia tiên, ông sang nhà gái đưa tiền dẫn cưới và chính thức xin cô dâu
về hẳn bên nhà trai. Sáng hôm sau, hai vợ chồng phải đem theo chai rượu sang nhà gái
lại mặt.
3.11.

Tập quá n sinh đẻ và nuôi con nhỏ

Người phụ nữ mang thai được cả
gia đình quan tâm, chăm sóc chu

đáo, ít phải lao động nặng nhọc như
phát nương, gùi thồ,... Đồng thời họ
hay ăn nhiều trứng gà, nhất là trứng
gà đen, ăn măng đắng. Theo đồng
bào đây là những thức ăn có nhiều
chất bổ dưỡng, nhiều kháng sinh.
Phụ nữ Si La đẻ ngồi ở trong nhà.
Rau đẻ đựng trong ống nứa, phủ một lớp

Con nhỏ được điệu trên lung (Ảnh sưu tầm)

trở lên trên, dựng ở góc bếp cho đến
ngày đặt tên. Theo quan niệm dân của người Si La, đứa trẻ mới sinh ra chưa hoàn toàn
thuộc về thế giới con người. Phải sau một tuần (12 ngày), nếu chúng không có mệnh hệ
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

gì, mới được xem là người thực thụ. Lúc đó, người ta đặt tên cho bé. Không quy định
riêng về đặt tên cho con trai, con gái. Bố mẹ thường mời ông mu đến cúng cầu phúc và
một người già trong bản tới đặt tên cho con để con sống lâu. Người đặt tên cho bé tiến
hành buộc chỉ cổ tay cho bé. Chỉ buộc tay gồm ba màu: đỏ, den, trắng. Ba màu chỉ này
tượng trưng cho thế giới quan của người Si La là: trời- nhì vợ, đất - mí thờ, thế giới trong
lòng đất - a pì xé né. Sau khi đặt tên, người già lấy lá chuối bịt ống đựng rau lại, nếu con
trai thì buộc chín lạt (9 hồn), nếu con gái thì buộc bảy lạt (7 hồn). Sau đó ống rau được
treo ở cạnh chuồng gà hay đem chôn. Ba ngày sau khi đặt tên phải cúng hồn cho đứa trẻ.
3.12.

Tập quán tang ma


Người chết được đặt lên cót, để gần cột thiêng, đầu quay về phía bàn thờ, chân quay ra
cửa, hai tay buông xuôi, còn hai đầu ngón chân cái buộc lại với nhau, để linh hồn người
này không thể tự do đi lại, bắt thêm người khác nữa. Người ta bỏ vào miệng người chết
mấy hào bạc trắng, một ít cánh kiến; còn ở mỗi bàn tay được bỏ vài hạt thóc. Trên ngực
người chết, người ta đặt một túi lưới, vòng cổ và vòng tay, đặt trên ngực người chết một
chiếc nhạc ngựa (mặc dù người Si La không nuôi ngựa), toàn bộ thi hài được phủ một
tấm vải trắng.
Sau khi khâm liệm xong, gia đình phải mổ lợn đề cúng hồn ma người chết và xin phép
làm nhà mồ. Nhà mồ của người chết trên mảnh đất đã được đánh dấu sở hữu để đào
huyệt. Nhà có hình vuông mỗi chiều khoảng 3m. Nguyên liệu làm nhà là tranh, tre, nứa,
lá. Làm nhà mồ xong mới đào mộ ngay trong nhà mồ. Đầu huyệt nằm ở phía đông và
nhìn về phía tây.
Trước khi khiêng quan tài đi chôn, con cái, anh em trong họ đi quanh quan tài ba vòng.
Con trai cả của người quá cố đeo một chiếc túi vải, trong túi đựng ít gạo trộn lẫn vỏ ốc
(tiền), đứng ở phía đầu thi hài cha (mẹ), bốc từng nắm gạo lẫn vỏ ốc tung ra ngoài. Mỗi
tay anh ta tung hai lần, vừa tung vừa cầu xin bố (mẹ) đừng mang theo lợn. gà, thóc giống
của gia đình đi. Những người trong họ đứng ngoài dùng vạt áo tranh nhau hứng lấy điềm
may mắn - gạo với vỏ ốc.
Trường hợp cha, mẹ chết, con cái phải dỡ vách hồi trái, làm cửa để đưa quan tài ra. Bảy
ngày sau (cha), hoặc chín ngày sau (mẹ), mới được làm lại vách. Nếu cha mẹ còn sống,
con cái chết trước mới được đưa ra cửa chính.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Người Si La không làm quan tài trước, mà khi có người chết mới vào rừng chặt gỗ làm
quan tài. Quan tài là một thân gồ to. bổ đôi khoét rỗng. Trong thời gian quàn trong nhà,
ban đêm, đồng bào tổ chức lễ cúng đưa hồn người chết về quê hương của Mồ . Cũng như

nhiều dân tộc khác ở Tây Bắc, người Si La luôn chú ý đến việc giữ gìn linh hồn của
những người tham gia buổi đưa đám. Sau khi chôn xong, mỗi người tay cầm một lá
xương sống và một hình nhân đan nhỏ bằng ngón tay để gọi hồn của mình về quanh
huyệt, rồi ra khỏi nhà táng. Trên đường từ nghĩa địa về nhà, người con đầu phải đi trước.
Nếu đi qua ngã ba, ngã tư, đi đưa đám lại gọi hồn để hồn khỏi đi lạc đường, về đến gần
nhà, phải đập vỡ một bương đựng nước để hồn ma người chết không theo về. Theo tập
quán, những người con gái không được đưa ma cha mẹ, phải ở lại nhà quét dọn, chuẩn bị
sẵn mấy bương nước để ở trước cửa, rôi nhanh chân về nhà chồng, trước khi những người
đưa đám trở về nhà.
Về đến nhà, tang chủ lấy nước dội tắt bếp, mang hết củi, tro ra ngoài. Người ta đốt lại bếp
mới, cuộc sống mới bắt đầu. Suốt bảy ngày, đối với nữ (hoặc chín ngày đối với nam) sau
khi chôn, người ta đặt manh chiếu nhỏ lên chỗ trước đã quàn người chết để hồn người
chết trở về “lấy các thứ còn lại”. Trong thời gian đó hàng ngày con cháu phải viếng mộ
Đến ngày thứ bảy đối với nữ (hoặc ngày thứ chín đối với nam) người ta cúng tiễn hồn
người chết đi
Người Si La không có tục cải táng và tảo mộ. Bố mẹ chết, con cái ba năm sau mới được
lấy vợ, lấy chồng.
3.13.

Văn nghệ dân gian

Người Si La chỉ có nền văn học dân gian truyền miệng. Kho tàng văn học dân gian của
người Si La bao gồm nhiều thể loại: truyện thần thoại, truyện cổ tích, dân ca, tục ngữ,
thành ngữ,... Một số truyện cổ tích của đồng bào đã được sưu tầm, giới thiệu trong hợp
tuyển văn học dân gian các dân tộc thiểu số (1979). Người Si La có truyện “Trống trâm
con”, giải thích về nguồn gốc loài người tương tự như truyện của nhiều dân tộc khác ở
Việt Nam. Thuở xưa, khi nước ngập hết mặt đất chỉ duy nhất có hai anh em chui được
vào cái trống to sống sót. Đến khi nước rút, hai anh em chui ra khỏi trống, muôn loài đã
chết hết, hai anh em đành phải lấy nhau để duy trì nòi giống. Sau khi lấy nhau được ít
hôm, bỗng từ các ngón chân, ngón tay của người em “mọc” ra những đứa con nhỏ xíu,

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 21 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

chúng lớn lên như
thổi và không lâu
sau đã không còn
đất để ở. Hai người
đành phải chia tay
nhau, đưa các con đi
mỗi người một ngả.
Từ đó hình thành
các giống người với
nhiều dân tộc, nhiều
dòng họ như ngày
nay. Truyện về
Ngọn lửa kể rằng, lúc đầu
người Si La biết bay,

Một điệu hát múa của người Si La (Ảnh sưu tầm)

nhưng chưa biết dùng lửa; còn con cầy bay thì không biết bay, nhưng có lửa. Sau đó
người Si La đổi cái biết bay của mình cho con cầy để lấy lửa. Từ đó con người mới có
lửa, nhưng không biê1t bay nữa. Truvện cổ của người Si La còn có nhiều truyện ngụ
ngôn kể về sự hợp tác giữa người và ác loài thú rừng trong đấu tranh với trời đòi mưa.
Ngày xưa, có một năm trời hạn hán kéo dài, đất đai khô, ruộng nứt nẻ, cây cối không mọc
được, người và muôn vật không có nước uống. Người già trong làng rủ nhau tìm đường
lên trời kiện. Trên đường đi kiện trời, người gặp rắn, cáo. ong, quạ, hổ,... Các con vật này
biết người lên trời kiện cũng tự nguyện đi theo kiện trời. Lên đến trời, thấy nhà trời lợp

ngói, vừa to, vừa rộng, ong và hổ núp sau cánh cửa, người, rắn, quạ đi vào chất vấn trời.
Người hỏi lý do làm sao mà trời không cho mưa xuống, trời trả lời: do người đốt rẫy,
khói mù mịt cả trời nên không cho mưa xuống. Rắn tức quá nhảy lên cắn vào cổ trời, trời
chạy ra ngoài thì bị ong đốt. Từ đó trời mới chịu cho mưa xuống để có nước cho muôn
loài sinh sống... Trong văn học dân gian còn thể loại trường ca. Tuy nhiên thể loại này
hiện nay ít người biết và hầu như không ai có thể kể được trọn vẹn toàn bộ câu chuyện.
Nếu chắp vá những mẩu trường ca lại ta biết được, người Si La trước khi đến Việt Nam,
tổ tiên họ đã từng ở Trung Quốc, di cư sang Lào, rồi mới sang Việt Nam.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 22 | 23


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SI LA | Hoàng Trần

Làn điệu dân ca của người Si La quen thuộc nhất là điệu ế là thế.
Đây là làn điệu dân ca trữ tình, có thể hát tập thể, nhưng cũng có thể hát đối đáp nam nữ.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 23 | 23



×