Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý Thực tiễn thực hiện tại Công ty Luật TNHH Á Châu Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.58 KB, 45 trang )

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................4
1 Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................................6
2 Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.....................................................7
3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài..............................................8
3.1 Đối tượng nghiên cứu............................................................................................8
3.2 Phạm vi nghiên cứu...............................................................................................8
4 Mục đích nghiên cứu của đề tài...............................................................................9
5 Phương pháp nghiên cứu đề tài...............................................................................9
6 Kết cấu khóa luận.....................................................................................................9
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ,
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ VIỆC KÍ KẾT VÀ THỰC THI HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ PHÁP LÝ..................................................................................................10
1.1.1 Khái niệm hợp đồng..........................................................................................10
1.1.2 Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý...............................................................11
1.2 Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý.............................................................12
1.2.1 Chủ thể của HĐDVPL......................................................................................12
1.2.2 Hình thức của HĐDVPL..................................................................................13
1.2.3 Nội dung của HĐDVPL....................................................................................13
1.3 Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý...................................................................14
1.3.1 Căn cứ vào nội dung của hợp đồng dịch vụ pháp lý.......................................14
1.3.2 Căn cứ vào loại hình tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý...............15
1.3.3 Căn cứ vào loại chuyên gia thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý..................16
1.4 Pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý 17

1


1.4.1 Pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý..........................17
1.4.2 Pháp luật điều chỉnh vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ thỏa thuận ghi


nhận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.......................................................................19
CHƯƠNG II............................................................................................................... 22
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ............................................................................22
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết và thực hiện
HĐDVPL.................................................................................................................... 22
2.1.1 Tổng quan tình hình về giao kết và thực hiện HĐDVPL...............................22
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết và thực hiện HĐDVPL........................23
2.2 Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp
đồng DVPL................................................................................................................. 24
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ pháp lý..................................24
2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ pháp lý...........................................25
2.3 Các biện pháp chế tài do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dịch vụ pháp lý............26
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TẠI CÔNG TY LUẬT TNHH Á
CHÂU VIỆT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO VỀ VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC THI HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................................29
3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật điều chỉnh về việc giao kết và thực
hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại công ty Luật TNHH Á Châu Việt....................29
3.1.1 Thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng dịch vụ
pháp lý tại công ty Luật TNHH Á Châu Việt..........................................................29
3.1.2 Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về thực thi hợp đồng dịch vụ
pháp lý tại Công ty.....................................................................................................30
3.2 Một số nhận xét và đánh giá về thực trạng giao kết và thực thi hợp đồng dịch
vụ pháp lý tại công ty Luật TNHH Á Châu Việt.....................................................31

2



3.2.1 Những thành tựu mà công ty đạt được trong quá trình giao kết và thực thi
hợp đồng dịch vụ pháp lý..........................................................................................31
3.2.2 Một số bất cập trong quá trình giao kết và thực thi hợp đồng dịch vụ pháp
lý.................................................................................................................................. 32
3.3 Một số đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật về HĐDVPL..............................33
3.4 Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và hiệu quả áp dụng tại công ty Luật
TNHH Á Châu Việt...................................................................................................35
3.4.1 Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện
hợp đồng dịch vụ pháp lý..........................................................................................35
KẾT LUẬN................................................................................................................. 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................41

3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Pháp luật về giao kết và thực
hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý- Thực tiễn thực hiện tại Công ty Luật TNHH Á
Châu Việt”. Bên cạnh sự nổ lực của bản thân em còn nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt
tình của anh chị trong công ty và các thầy cô giáo Trường Đại học Thương Mại
Qua đó, em xin chân thành cảm ơn tới Ban lãnh đạo, toàn thể các anh chị trong
Công ty. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.S Đỗ Hồng Quyên- người đã
tận tâm giúp em hoàn thành bài khóa luận này.
Trong quá trình làm khóa luận, mặc dù em đã cố gắng nhưng do trình độ của
bản thân và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót, em
mong nhận được sự đóng góp, nhận xét từ phía các thầy cô để bài khóa luận của em
được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện


Tống Thị Mai

4


DANH MỤC VIẾT TẮT
Trách nhiệm hữu hạn
Dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý
Đại học quốc gia hà nội
Bộ luật Dân sự 2005
Luật Thương mại 2005
Hợp đồng dịch vụ thương mại
HĐDVTM
Điều ước quốc tế
Luật Luật sư
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao

TNHH
DVPL
HĐDVPL
ĐHQGHN
BLDS 2005
LTM 2005
HĐDVTM
CBNV
ĐƯQT
LLS
TAND

TANDTC

5


LỜI MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên tất yếu và cấp bách
đối với Việt Nam. Trong bối cảnh đó, các tổ chức và cá nhân cần có sự trợ giúp pháp
lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch
của mình. Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của dịch vụ pháp
lý cho các tổ chức và cá nhân ở tầm quốc tế. Các chủ thể tham gia nhiều giao dịch liên
quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước và pháp luật quốc
tế. Hình thức pháp lý của các giao dịch đó là hợp đồng. Để các giao dịch của các chủ
thể diễn ra an toàn và hiệu quả thì cần phải có sự trợ giúp pháp lý từ phía các nhà cung
cấp dịch vụ pháp lý (DVPL). Việc trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ pháp lý
đối với bên sử dụng DVPL được thể hiện dưới hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý
(HĐDVPL). Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể HĐDVPL, đặc biệt
là của bên sử dụng DVPL và phòng ngừa tranh chấp xảy ra, đòi hỏi pháp luật về
HĐDVPL phải không ngừng hoàn thiện. Đồng thời hệ thống pháp luật quốc gia về
HĐDVPL phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Ở Việt Nam, dịch vụ pháp lý mới khởi động và phát triển từ những năm 90
của thế kỉ 20 trở lại đây. So với bề dày truyền thống nghề luật ở các nước phát triển
như Anh, Pháp, Hoa Kì.... thì kinh nghiệm hành nghề của giới luật gia Việt Nam là
quá ít và chưa bài bản. Các tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quên sử dụng DVPL
cho các hoạt động của mình.Tình trạng quan liêu, cửa quyền của một bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước ở Việt Nam vẫn còn, với sự thiếu hiểu biết về mặt pháp lý của
một bộ phận người dân nên rất cần tới sự giúp đỡ của nhà cung cấp dịch vụ pháp lý.
Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở Việt Nam hiện nay được thể hiện ở rất nhiều
văn bản pháp luật khác nhau như: Bộ luật dân sự 2005; Luật Thương mại 2005; Luật

Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012); Nghị định số 87/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 7
năm 2003 về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài tại Việt
Nam; Luật Công chứng 2006; NĐ 61/2009/NĐ- CP ngày 24/7/2009 về thí điểm thực
hiện Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh. Bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt
động dịch vụ pháp lý của các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý kí kết HĐDVPL với các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý.
Các văn bản pháp luật nêu trên mới chỉ quy định về hợp đồng; Hợp đồng dịch
vụ và dịch vụ pháp lý chứ chưa quy định trực tiếp về HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một
thực tế là trong một số trường hợp cùng một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng

6


nhiều quy định của các văn bản khác nhau và những quy định đó lại chồng chéo, mâu
thuẫn với nhau.
Nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và tạo ra cơ sở pháp lý vững mạnh
cho việc giao kết và thực hiện HĐDVPL, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp HĐDVPL thì pháp luật về
HĐDVPL cần phải được hoàn thiện hơn nữa.
Tại Công ty Luật TNHH Á Châu Việt, hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý phát
triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Công ty Á Châu Việt là một trong những
công ty tư vấn luật được nhiều người biết đến, đặc biệt là những dịch vụ pháp lý. Công
ty đã chọn HĐDVPL là một hình thức chủ yếu và quan trọng nhất để đưa các sản
phầm tới khách hàng, mở rộng thị trường, do đó, HĐDVPL là một loại hợp đồng quan
trọng của Công ty. Trong thời gian thực tập, làm việc và được tiếp cận các vấn đề pháp
luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của Công ty, em đã nhận thấy được tầm quan
trọng của HĐDVPL.
Đứng trước những khó khăn trong quá trình giao kết và thực hiện HĐDVPL và
một số bất cập liên quan đến HĐDVPL, em xin chọn nghiên cứu đề tài “pháp luật về
giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý - Thực tiễn thực hiện tại Công ty

Luật TNHH Á Châu Việt” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của mình.
2 Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng 8/1945, dịch vụ pháp lý đã được ghi nhận,
cho phép thành lập và hoạt động, tuy nhiên nó chỉ được xác lập trở lại và phát triển
khá mạnh mẽ từ hơn hai thập kỉ qua. Trong khoảng thời gian đó, đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp lý ở các khía cạnh khác nhau
với phạm vi nghiên cứu khác nhau như giáo trình, sách chuyên khảo, chuyên đề,
nhưng chủ yếu tồn tại dưới hình thức những bài viết đăng trên tạp chí, đăng trên kỉ yếu
hội thảo và đề tài nghiên cứu của một số cá nhân, tổ chức về dịch vụ pháp lý. Sau đây
là một số các công trình nghiên cứu khác nhau liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp
lý:
- Thạc sỹ Nguyễn Như Chính (2011) “Pháp luật về dịch vụ về thương mại pháp lý
-những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn thạc sĩ luật học. Trường Đại học Luật Hà
Nội.
- Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ - Khoa Luật, Trường ĐHQGHN
(2011) “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn giải quyết tranh chấp
về hợp đồng dịch vụ”. Ngoài việc tìm hiểu những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ,
đề tài đi sâu vào phân tích những vụ việc thực tế về giải quyết tranh chấp hợp đồng
dịch vụ.
7


- TS. Hoàng Thị Vịnh (2014) “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam”, luận văn TS
luật học. Học viện khoa học xã hội.
- Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Chiều- Khoa Luật kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân (2010) “Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư
vấn thiết kế trang trí nội thất- thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Mộc Dũng”. Đề tài
tập trung phân tích về hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn thiết kế trang trí nội thất
và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Mộc Dũng.
- Bài viết của Th.s Hà Công Bảo Anh (2013 “Hợp đồng thương mại dịch vụ và vai trò

của nó đối với doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại. Bài viết đưa ra một khái
niệm mới về thương mại dịch vụ, từ đó phân tích vai trò và tầm quan trọng của loại
hợp đồng này đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
- TS. Hoàng Thị Vinh (2013) “Phương thức thực hiện dịch vụ pháp lý của luật sư tại
giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 3 năm 2013
- Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của
TS. Nguyễn Văn Tuân đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số Chuyên đề Pháp luật
về Doanh nghiệp.
Hầu hết, các công trình nghiên cứu liên quan đến HĐDVPL đã đưa ra những
khái quát về hoạt động thương mại dịch vụ và nêu lên thực trạng tại Việt Nam và đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thương mại dịch vụ song
việc nghiên cứu các quy định pháp lý đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý còn hạn chế.
Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng các quy định pháp luật về hợp
đồng dịch vụ pháp lý vào thực tiễn là tất yếu.
3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là: các quan điểm, tư tưởng luật
học về dịch vụ pháp lý và HĐDVPL, các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về
HĐDVPL,cam kết của Việt Nam trong các ĐƯQT về dịch vụ pháp lý, pháp luật nước
ngoài và pháp luật quốc tế về HĐDVPL, thực tiễn xây dựng,áp dụng pháp luật
HĐDVPL ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài khóa luận chỉ tập trung vào các
phạm vi sau:
Thứ nhất, những quy định hiện hành của pháp luật về lĩnh vực hợp đồng cung
ứng DVPLtrong các văn bản pháp luật: BLDS 2005 (BLDS), LTM 2005 (LTM), Luật
Luật sư 2012 (LLS)… và các văn bản pháp luật khác.

8



Thứ hai, việc thực hiện pháp luật về HĐDVPLtại Công ty Luật TNHH Á Châu
Việt.
4 Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về HĐDVPL tại Việt Nam.
Thứ hai, phân tích thực trạng giao kết và thực hiện HĐDVPL tại công ty Luật
TNHH Á Châu việt. Từ đó, đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp
luật của công ty.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra
một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện
HĐDVPL tại công ty Luật TNHH Á Châu Việt nói riêng và ở của Việt Nam nói
chung.
5 Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, khóa luận vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của CN Mác- Lê nin. Đây là phương pháp luận được vận
dụng nghiên cứu trong toàn bộ khóa luận để đánh giá khách quan sự thể hiện của các
quy định của pháp luật về HĐDVPL. Khóa luận cũng được nghiên cứu dựa trên đường
lối, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, phát triển thương mại dịch vụ và hội nhập
kinh tế của Đảng và nhà nước ta.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học cụ thể khác nhau như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp lịch sử cụ thể và phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế nhằm
minh chứng cho những lập luận, cho những nhận xét đánh giá, kết luận khoa học của
khóa luận và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử được sử
dụng xuyên suốt khóa luận để phân tích, đối chiếu so sánh những quy định pháp luật
về HĐDVPL để thấy sự phát triển của pháp luật về HĐDVPL của nước ta cũng như
những điểm tương đồng và khác biệt, những hạn chế, bất cập của pháp luật về
HĐDVPL của Việt Nam so với các quy định của WTO và pháp luật quốc tế.
6 Kết cấu khóa luận
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ lục, nội dung của bài khóa luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về hợp đồng dịch vụ pháp lý và pháp luật điều
chỉnh về việc kí kết và thực thi hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện HĐDVPL
Chương 3: Thực tiễn thực hiện tại Công ty Luật TNHH Á Châu Việt. Một số kiến ghị
góp phần hoàn thiện và nâng cao về việc giao kết và thực thi HĐDVPL ở Việt Nam
hiện nay.
9


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ,
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ VIỆC KÍ KẾT VÀ THỰC THI HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ PHÁP LÝ.
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm hợp đồng
Hợp đồng là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu và hiện tại có khá nhiều khái
niệm về hợp đồng. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống
pháp luật cũng khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem
hợp đồng như là một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc
pháp lý cơ bản của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel: “Khái niệm hợp đồng trong hệ
thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng được xem là kết
quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên lập ra
ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng không chỉ là
hiệu lực pháp lý được dữ liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm bảo bởi
pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách
nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự
do hợp đồng: các bên được tự do trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công
cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thạm chí điều đó có thể là vô lý theo cách
nhìn nhận của một người khác”.[1]

Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống
Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các
cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau này
“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng ở Anh đã xem xét hợp đồng như là một
nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên”.[2]
Bộ luật Dân sự Pháp qui định về hợp đồng như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
của hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc
nào đó”. Theo định nghĩa này, hợp đồng chính là sự thống nhất ý chí giữa hai hay
nhiều người, không giới hạn số người tham gia vào quan hệ hợp đồng, trong đó liên
quan tới việc mua bán một vật hoặc không được làm một việc gì đó.
Trong khi đó, Bộ luật Dân sự Nga năm 1994 qui định “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự’. Bộ luật Dân sự Trung Quốc quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác
lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên nhân,
pháp nhân và các tổ chức khác”. Điểm khác biệt của Bộ luật Dân sự Trung Quốc có

10


nhấn mạnh tới yếu tố bình đẳng giữa các chủ thể của hợp đồng, các chủ thể ở đây gồm
có các cá nhân, pháp nhân.
Có thể nói, thuật ngữ “hợp đồng” là một phạm trù đa nghĩa và có thể xem xét ở
nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm “hợp đồng”
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan “hợp
đồng” là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui
phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau”. Theo
nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa
các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí
của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và nghĩa vụ mỗi bên

để có cơ sở cùng nhau thực hiện”.
Ở Việt Nam, khái niệm hợp đồng không được định nghĩa cụ thể trong văn bản
pháp luật nào, BLDS 2005 định nghĩa về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự
là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đồi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thảo thuận của các bên, là kết quả
của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét
về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân
sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy: hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa
vụ. Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của
hợp đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
1.1.2 Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý có bản chất chung của một hợp đồng, là sự thỏa thuận
nhằm xác nhận, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cung ứng
dịch vụ pháp lý. Theo nguyên tắc luật chung và luật chuyên nghành trong trường hợp
cùng điều chỉnh quan hệ HĐDVPL thì các nguyên tắc và quy định đối với hợp đồng
dịch vụ trong BLDS 2005 và LTM 2005 cũng được áp dụng cho HĐDVPL.
Theo định nghĩa tại Điều 518, BLDS 2005 thì “Hợp đồng dịch vụ trong dân sự
là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên làm dịch vụ thực hiện một công việc cho
bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên làm dịch vụ”.

11


Luật Luật sư 2012 quy định “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng
dịch vụ pháp lý, trừ trường hợp luật sư tham gia tố tung theo yêu cầu của cơ quan tiến

hành tố tụng và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân được làm việc theo hợp đồng
lao động cho cơ quan, tổ chức. HĐDVPL phải được làm thành văn bản” (Điều 26).
Như vậy, đối với hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý của luật sư, pháp luật đã có quy
định chính thức về việc quan hệ giữa luật sư và khách hàng là quan hệ HĐDVPL và
phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Các luật chuyên nghành về HĐDVPL như: Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung 2012); Bộ luật Dân sự 2005; Luật Thương mại 2005… tuy không đưa ra nhận
định về HĐDVPL nhưng căn cứ vào bản chất kinh tế và bản chất pháp lý của các quan
hệ cung ứng dịch vụ pháp lý cụ thể cũng như xem xét các quan hệ cung ứng này trong
sự so sánh với quan hệ cung ứng dịch vụ pháp lý của luật sư, có thể khẳng định quan
hệ giữa bên cung ứng dịch vụ pháp lý và bên sử dụng các loại hình dịch vụ pháp lý
khác là quan hệ HĐDVPL.
Các quy định của BLDS 2005, LTM 2005 và các luật chuyên nghành về dịch vụ
pháp lý, từ đó có thể khẳng định HĐDVPL là một dạng của hợp đồng dịch vụ thương
mại. HĐDVPL mang đầy đủ các dấu hiệu của HĐDVTM đó là: sự thỏa thuận giữa hai
bên (bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ); nôi dung HĐDVPL chứa đựng
quyền và nghĩa vụ của các bên. Đa số HĐDVPL là loại hợp đồng song vụ, quyền của
bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Một số HĐDVPL là loại hợp đồng vì lợi
ích của người thứ ba (trường hợp thân nhân của bị can, bị cáo bị tạm giam mời luật sư
bào chữa cho họ). Theo đó, bên cung ứng dịch vụ thực hiện cho bên thuê dịch vụ pháp
lý một hoặc một số công việc có liên quan đến pháp luật thuộc lĩnh vực hành nghề đã
đăng ký hoạt động cho bên thuê dịch vụ pháp lý còn bên sử dụng dịch vụ pháp lý có
quyền sử dụng dịch vụ pháp lý theo thỏa thuận và có nghĩa vụ thanh toán; Mục đích
của bên cung ứng dịch vụ pháp lý là nhận thù lao còn mục đích sử dụng của bên sử
dụng dịch vụ pháp lý là nhằm thỏa mãn nhu cầu về dịch vụ pháp lý.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng dịch vụ pháp lý
như sau: “Hợp đồng dịch vụ pháp lý là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cung
ứng cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ pháp lý cho bên thuê dịch vụ để nhận thù lao,
còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận”.
1.2 Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý

1.2.1 Chủ thể của HĐDVPL
Để có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ HĐDVPL với tư cách là bên cung
ứng DVPL, bên cung ứng DVPL phải là tổ chức hành nghề tồn tại hợp pháp, có thẩm

12


quyền cung cấp dịch vụ pháp lý và có quyền cung ứng các loại hình dịch vụ pháp lý đã
đăng ký. Cụ thể, bên cung ứng DVPL phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, được tổ chức dưới hình thức các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL
hoặc người cung ứng DVPL hành nghề với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức cung
ứng DVPL);
Thứ hai, đã đăng ký hoạt động cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép hoặc cấp giấy phép hoạt động DVPL;
Thứ ba, cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình DVPL của tổ
chức hành nghề. Ví dụ: Tổ chức hành nghề luật sư chỉ được đăng ký hành nghề đối với
một số hoặc cả bốn lĩnh vực hành nghề luật sư quy định tại LLS 2012 là: tham gia tố
tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác, không được
đăng ký và cung ứng các DVPL thuộc loại hình DVPL (lĩnh vực hành nghề) của công
chứng viên hoặc của thừa phát lại và ngược lại. Ngoài ra, tổ chức cung ứng DVPL
không được đăng ký kinh doanh để hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ đối
với bất kỳ ngành, nghề nào khác.
1.2.2 Hình thức của HĐDVPL
Theo khoản 1, Điều 74 của LTM 2005 quy định “hợp đồng dịch vụ được thể
hiện bằng lời nói, bằng văn bản, hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể”, tuy nhiên
đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý chỉ được thể hiện dưới một hình thức nhất định, đây
cũng chính là một điểm riêng khác biệt khá nổi bật so với hợp đồng dịch vụ nói chung.
Hình thức thể hiện của HĐDVPL bắt buộc là văn bản.
1.2.3 Nội dung của HĐDVPL
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thỏa thuận và phù hợp với

quy định của pháp luật đối với một hợp đồng. Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những
nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc vào quy định của pháp luật từng quốc gia. Việc
pháp luật quy định nội dung của hợp đồng dịch vụ pháp lý có ý nghĩa hướng các bên
tập trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi
để thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp
đồng
Các bên trong hợp đồng dịch vụ pháp lý luôn có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
định, quyền và nghĩa vụ trong HĐDVPL do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, quyền và
nghĩa vụ đó phải không trái pháp luật, đạo dức xã hội và được pháp luật công nhận và
bảo vệ.
Hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được làm thành văn bản và có những nội dung
chính sau đây:

13


- Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ
chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân
- Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng
- Quyền, nghĩa vụ của các bên
- Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản chi phí (nếu có)
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
- Phương thức giải quyết tranh chấp
1.3 Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý
1.3.1 Căn cứ vào nội dung của hợp đồng dịch vụ pháp lý
HĐDVPL có thể chia thành 8 loại: hợp đồng dịch vụ tranh tụng; hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật; hợp đồng dịch vụ công chứng; hợp đồng dịch vụ lập vi bằng; hợp
đồng dịch vụ tống đạt giấy tờ của tòa án và cơ quan thi hành án; hợp đồng xác minh
điều kiện thi hành án; hợp đồng thi hành án và HĐDVPL khác.
• Hợp đồng dịch vụ tranh tụng

Là một loại hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó bên cung ứng dịch vụ là người
đại diện theo ủy quyền của bên thuê dịch vụ, thay mặt bên thuê dịch vụ làm việc với
cơ quan nhà nước để giữ hoặc đòi lại quyền lợi cho bên thuê dịch vụ.

• Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Là một loại hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó bên cung ứng dịch vụ sẽ hướng
dẫn và giải đáp các khúc mắc của bên thuê dịch vụ về một công việc mà bên thuê dịch
vụ mong muốn hoàn thành


Hợp đồng dịch vụ công chứng

Là một loại hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó bên cung ứng dịch vụ sẽ chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giấy tờ, tài
liệu mà bên thuê dịch vụ muốn công chứng.

• Hợp đồng dịch vụ lập vi bằng
Là hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó Bên A thực hiện việc lập văn bản do Thừa
phát lại lập để ghi nhận sự kiện, hành vi theo đề nghị của Bên B và là một bộ phận
không tách rời của hợp đồng này đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của Bên B.


Hợp đồng dịch vụ tổng đạt giấy tờ của tòa án và cơ quan thi hành án

Là hợp đồng dịch vụ để thực hiện việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa
án và Cơ quan Thi hành án dân sự do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp
luật.

14



Văn phòng thừa phát lại ký hợp đồng dịch vụ tống đạt với Tòa án và Cơ quan Thi
hành án dân sự. Việc giao nhận văn bản tống đạt được thực hiện hằng ngày và ghi vào
sổ giao nhận theo mẫu do Bộ Tư pháp ban hành

• Hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án:
Khách hàng và Văn phòng Thừa phát lại tiến hành ký hợp đồng xác minh điều
kiện thi hành án. Trong đó, xác định rõ và cụ thể yêu cầu xác minh về điều kiện tài sản
hay các điều kiện khác của đương sự; thời gian thực hiện việc xác minh; quyền, nghĩa
vụ của các bên; hình thức xác minh và mức phí xác minh tương ứng các trường hợp
thanh lý hợp đồng.
Hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01
bản. Thư ký nghiệp vụ ghi vào sổ theo dõi hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án.
• Hợp đồng thi hành án
Là hợp đồng thực hiện những bản án, quyết định có hiệu lực của pháp luật của
Tòa án nhân dân trong cuộc sống, biến các quyết định của Tòa án trong những bán án,
quyết định đó thành hiện thực thực tế.
1.3.2 Căn cứ vào loại hình tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý
HĐDVPL có thể chia thành 5 loại: HĐDVPL của tổ chức hành nghề luật sư;
HĐDVPL của tổ chức hành nghề công chứng; HĐDVPL của tổ chức hành nghề Thừa
phát lại; HĐDVPL của Trung tâm tư vấn pháp luật và HĐDVPL của các tổ chức khác.
• HĐDVPL của tổ chức hành nghề luật sư
Là sự thỏa thuận giữa các bên,theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc
cho thuê dịch vụ còn bên thuê dịch vụ trả tiền cho bên cung ứng
• HĐDVPL của tổ chức hành nghề công chứng
Là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên cung ứng dịch vụ sẽ chứng nhận tính xác
thực, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giấy tờ, tài liệu mà bên
thuê dịch vụ muốn công chứng.
• HĐDVPL của tổ chức hành nghề Thừa phát lại
Là hợp đồng của các tổ chức hành nghề thừa phát lại với các công việc: thực

hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan Thi hành án dân sự; lập vi
bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi hành án theo
yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối
với các bản án, quyết định của Tòa án.

HĐDVPL của trung tâm tư vấn pháp luật
Là hợp đồng dịch vụ pháp lý, theo đó tư vấn pháp luật cho tổ chức, cá nhân
góp phân nâng cao ý thức phap luật và giúp công dân ứng xử theo đúng quy định của
pháp luật, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối vơi hoạt động tư vấn pháp luật.
15


1.3.3 Căn cứ vào loại chuyên gia thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý
HĐDVPL được chia thành 5 loại: HĐDVPL của Luật sư; HĐDVPL của công
chứng viên; HĐDVPL của thừa phát lại; HĐDVPL của tư vấn pháp luật và HĐDVPL
của chuyên giá pháp lý khác.
• HĐDVPL của Luật sư:
Theo Điều 26 Luật luật sư quy định, luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp
đồng dịch vụ pháp lý. Hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được làm thành văn bản và có
những nội dung chính sau đây:
- Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc người đại diện của khách hàng, đại diện của
tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân;
- Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng;
- Quyền, nghĩa vụ của các bên;
- Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản chi phí (nếu có);
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
- Phương thức giải quyết tranh chấp
* HĐDVPL của công chứng viên
Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên
quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia

có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các
bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện
trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị
Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
• HĐDVPL của thừa phát lại
Là hợp đồng cung cấp các dịch vụ pháp lý mang tính chất công. Bốn dịch vụ
pháp lý công mà Thừa phát lại đươc phép thực hiện bao gồm:
- Thi hành án
- Xác minh điều kiện thi hành án
- Lập vi bằng
- Tổng đạt văn bản, giấy tờ của Tòa án và cơ quan thi hành án
• HĐDVPL của tư vấn pháp luật
Là hợp đồng mà Luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các
giấy tờ liên quan đến việc thực thi quyền, nghĩa vụ trong quan hệ dịch vụ pháp lý.

16


1.4 Pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý
1.4.1 Pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý
Giao kết hợp đồng là một nội dung quan trọng cần phải xem xét khi nghiên cứu
pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý. Việc giao kết HĐ DVPL cũng tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản đối với một hơp đồng dân sự thông thường. Cụ thể như sau:
• Nguyên tắc về giao kết HĐDVPL
Giao kết hợp đồng có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên
theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận
nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ giữa các bên.
Việc giao kết được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa
các bên. Quá trình giao kết diễn ra với hai yếu tố: sự bày tỏ ý chí và sự chấp nhận ý

chí. Quá trình này diễn ra nhanh chóng hay kéo dài; đơn giản hay phức tạp; diễn ra
đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố như: ý
chí của các bên về nội dung, hình thức biểu hiện của hợp đồng…Các bên sử dụng
phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau, thương lượng…) hoặc phương thức giao
tiếp gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào hàng…) để thỏa thuận, thống nhất ý chí
với toàn bộ nội dung của hợp đồng.
Theo Điều 389, BLDS 2005, thì việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các
nguyên
tắc: tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; Tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội:
Tham gia vào quan hệ hợp đồng, các chủ thể nằm đạt được những lợi ích nhất
định. Pháp luật tôn trọng sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể và ghi nhận thành
nguyên tắc. Theo nguyên tắc này, các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng có sự tự do ý
chí trong việc lựa chọn hợp đồng mà mình giao kết, tự do lựa chọn chủ thể giao kết, tự
do lựa chọn các quyền và nghĩa vụ trong quá trình giao kết. Không chủ thể nào được
phép can thiệp trái pháp luật vào sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia
hợp đồng.Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 4 BLDS 2005: “Quyền tự do cam kết,
thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam
kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội…”. Điều này có nghĩa các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có sự tự do nhưng
sự tự do đó phải trong một khuôn khổ nhất định, đó chính là điều cấm của pháp luật và
tính trái đạo đức xã hội.

17


Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng:

Theo nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên toàn tự nguyện.
Khi giao kết hợp đồng, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn
cản bên nào. Mọi hành vi tác động làm ảnh hưởng đến sự tự nguyện của chủ thể có thể
làm cho hoạt động mà các chủ thể giao kết bị vô hiệu.
Nguyên tắc bình đẳng là một trong những nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến
pháp 1992. Trong quan hệ hợp đồng, sự bình đẳng luôn luôn được pháp luật của các
quốc gia thừa nhận. Theo nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên đều
bình đẳng, không được lấy lý do khắc biệt về dân tộc, giới tính, tôn giáo, trình độ văn
hóa…để đối xử không bình đẳng với nhau.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực được quy định tại Điều 6 BLDS 2005. Khi các
chủ thể tự nguyện giao kết hợp đồng thì phải thể hiện sự thiện chí trước các chủ thể
khác. Ngoài việc thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình thì cũng cần tạo điều
kiện để bên kia thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ.
Nguyên tắc trung thực, thẳng thắn cũng là yêu cầu đặt ra đối với các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng. Trong việc tham gia giao kết hợp đồng, một bên không
được lừa dối bên kia, không được cố ý đưa ra các thông tin không đúng để bên kia
giao kết hợp đồng của mình.
• Căn cứ giao kết HĐDVPL
Căn cứ để giao kết HĐDVPL đó là: theo định hướng kế hoạch của nhà nước,
các
chính sách chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành; căn cứ theo nhu cầu thị
trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng; căn cứ vào khả năng phát triển
sản
xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của đơn vị mình; căn cứ vào tính hợp
pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo đảm về tài sản của các bên
cùng ký kết hợp đồng.
• Ðề nghị giao kết HĐDVPL
Ðề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu
sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể
(khoản 1 Điều 390 BLDS 2005).

Về thời hạn của hợp đồng: Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu
rõ thời hạn giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả
lời thì phải bồi thường cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có
thiệt hại phát sinh (Khoản 2 Điều 390 BLDSVN 2005). Đề nghị giao kết hợp đồng
18


không quy định thời hạn trả lời sẽ có hiệu lực trong thời hạn do pháp luật quy định nếu
người đề nghị không nêu rõ đề nghị giao kết hợp đồng sẽ được thu hồi trong mọi thời
điểm.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: Bị từ chối,
hoặc sự trả lời của người được đề nghị trở thành một giao kết hợp đồng mới hoặc hết
thời hạn được bên đề nghị hoặc pháp luật quy định trong chào hàng; bị thu hồi.
• Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị giao kết
với bên đề ngị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị và đúng thời hạn được
bên đề nghị quy định hay do luật định. Sự chấp nhận phải rõ ràng và không được thay
đổi bất cứ điều kiện nào của đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 396, 397 BLDSVN
2005). Theo quy định Điều 404 BLDS thì: hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên
đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Hợp đồng cũng được giao kết khi hết
hanh trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả
lời chấp nhận giao kết. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên
đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là
thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Sự trả lời được coi là chấp nhận nếu như nó thể hiện sự đồng ý với đề nghị của
người đề nghị. Điều này có nghĩa là người được đề nghị phải đồng ý với tất cả các
điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng và không được đưa ra bất kỳ một điều kiện bổ
sung, thay đổi hay hạn chế nào ngay cả khi những bổ sung đó là điều khoản có lợi cho
người đề nghị. Pháp luật các nước khác nhau có sự đánh giá khác nhau về vấn đề này.
Theo quy định của BLDS Việt Nam 2005, khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị

giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi, bổ sung đề nghị thì coi như
người này đã đưa ra đề nghị mới, không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của những
thay đổi, bổ sung đó.
Theo nguyên tắc, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không có giá trị pháp lý
nếu bên đề nghị chấp nhận được sự chấp nhận đó sau khi hết thời hạn chờ trả lời và
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng mới trừ trường hợp bên đề nghị thông báo ngay
cho bên được đề nghị về việc chấp nhận của mình.
1.4.2 Pháp luật điều chỉnh vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ thỏa thuận ghi
nhận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý
* Quyền, nghĩa vụ của bên cung cấp dịch vụ pháp lý
- Nghĩa vụ của bên cung cấp DVPL
Khi thực hiện công việc theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ
cần phải thực hiện các nghĩa vụ cơ bản sau:
19


Thứ nhất, bên cung ứng dịch vụ pháp lý sau khi giao kết hợp đồng phải có nghĩa
vụ cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc đúng số lượng, chất lượng, thời
hạn, địa điểm và các thỏa thuận khác. Đây là nghĩa vụ cơ bản và quan trọng nhất của
bên cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, tùy theo tính chất và yêu cầu của mỗi công việc, nếu
các bên có thỏa thuận khác liên quan đến việc thực hiện công việc thì bên cung ứng
dịch vụ phải thực hiện theo đúng thỏa thuận đó. Nếu vi phạm nghĩa vụ này thì bên
thuê dịch vụ có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Thứ hai, không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không
có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ. Đây là một quy định đặc thù của HĐDVPL. Do đó
bên cung ứng dịch vụ phải có trách nhiệm về việc thực hiện công việc trước bên thuê
dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ không được bàn giao công việc cho người khác khi
không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ. Nếu vi phạm nghĩa vụ này thì bên thuê dịch
có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phải bảo quản và giao lại cho khách hàng những tài liệu và phương tiện

được giao để thực hiện dịch vụ. Nếu bên thuê dịch vụ đã giao cho bên cung ứng dịch
vụ các giấy tờ, tài liệu hoặc các phương tiện, thiết bị cần thiết cho việc thực hiện công
việc, thì sau khi hoàn thành công việc nếu các bên không có thỏa thuận khác, bên cung
ứng dịch vụ có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ các tài liệu, phương tiện đó cho thuê dịch vụ.
Nếu mất mát, hư hỏng tài liệu hoặc phương tiện thì bên cung ứng phải bồi thường thiệt
hại đó.
Thứ tư, thông báo ngay cho bên thuê dịch vụ biết về việc thông tin, tài liệu không
đầy đủ, phương tiện không đảm bảo chất lượng để hoàn thành công việc. Trong trường
hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghĩa vụ này, không kịp thông báo cho bên thuê
dịch vụ biết hoặc việc tiếp tục thực hiện công việc và do các nguyên nhân đó mà kết
quả công việc không đạt được theo đúng yêu cầu của bên thuê dịch vụ thì bên cung
ứng dịch vụ phải bồi thường thiệt hại.
Thứ năm, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ giữ bí mật về thông tin của bên thuê
dịch vụ mà mình biết trong thời gian cung ứng dịch vụ nếu các bên có thỏa thuận về
việc bên cung ứng dịch vụ phải giữ bí mật về những thông tin đó hoặc nếu pháp luật
quy định. Đây là quy định có tính đặc thù trong HĐDVPL. Trong trường hợp vi phạm
nghĩa vụ giữ bí mật thông tin mà gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ thì bên cung ứng
dịch vụ phải bồi thường thiệt hại.
- Quyền của bên cung cấp DVPL
Yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện. Để thực
hiện tốt công việc của mình, bên cung cấp dịch vụ pháp lý có quyền yêu cầu khách
hàng cung câp thông tin, tài liệu, phương tiện có liên quan. Hoặc được thay đổi điều
20


kiện dịch vụ vì lợi ích khách hàng mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của khách
hàng, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho khách hàng, nhưng phải báo ngay cho
khách hàng biết. Đây là trường hợp đặc biệt mà pháp luật cho phép bên cung ứng dịch
vụ được thay đổi điều kiện dịch vụ, nếu trong trường khi thực hiện công việc có những
vấn đề mới phát sinh đòi hỏi phải có sự thay đổi kịp thời về điều kiện dịch vụ để đảm

bảo quyền lợi của bên thuê dịch vụ.
Ngoài ra bên cung ứng dịch vụ cũng có quyền yêu cầu bên thuê dịch vụ cung
cấp thông tin, tài liệu … để hoàn thiện công việc một cách tốt nhất và yêu cầu bên thuê
dịch vụ trả tiền dịch vụ.
* Quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ pháp lý
- Nghĩa vụ của bên sử dụng DVPL
Khách hàng phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền cung ứng dịch vụ như đã
thảo thuận trong hợp đồng. Nếu có yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho
việc thực hiện thì phải cung cấp kịp thời. Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung
ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng
có nghĩa vụ điều phối hoạt động của bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến
công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào.
Ngoài ra, bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng
dịch vụ theo đúng giá tiền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận.
- Quyền của bên sử dụng DVPL
Bên sử dụng dịch vụ pháp lý có quyền yêu cầu bên cung cấp DVPL thực hiện
công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thỏa thuận khác.
Trong trường hợp bên cung cấp DVPL cung cấp không đạt được như thỏa thuận
hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn thì bên sử dụng dịch vụ pháp lý
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
* Về trách nhiệm khi vi phạm HĐDVPL
Trong quá trình thực hiện HĐDVPL, nếu một bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ của mình mà gây ảnh hưởng đến lợi ích của bên còn lại thì
phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm đó. Trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận hoặc hành vi vi phạm đó thuộc trường hợp miễn trách nhiệm, bên bị vi phạm có
thể áp dụng các chế tài quy định tại Điều 292 LTM 2005 đối với bên vị phạm. Các chế
tài bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại,
tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.

21



CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết và thực hiện
HĐDVPL
2.1.1 Tổng quan tình hình về giao kết và thực hiện HĐDVPL
HĐDVPL là một chế định quan trọng trong LTM 2005, nhằm mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ cung ứng dịch vụ
pháp lý, từ đó giúp cho các chủ thể kinh doanh DVPL có được môi trường kinh doanh
lành mạnh và bình đẳng. Khi thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam đang tiến tới trình
mở cửa theo WTO sẽ xuất hiện nhiều cơ hội cũng như những thách thức đối với doanh
nghiệp Việt Nam. Khi đó hợp đồng dịch vụ pháp lý sẽ là cơ hội pháp lý, là công cụ
hữu hiệu cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và
thâm nhập thị trường nước ngoài.
Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan tới hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hoạt động
thương mại được điều chỉnh tương đối toàn diện trong các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành.
Thứ nhất, nhóm các quy định chung về hợp đồng dịch vụ pháp lý: nhóm này
quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc về các hoạt động dịch vụ pháp lý,
các hợp đồng dịch vụ pháp lý. Hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các quy định
chung về hoạt động dịch vụ pháp lý và hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2005.
Thứ hai, nhóm các quy định về chuyên ngành về hợp đồng dịch vụ pháp lý: bên
cạnh những quy định chung về hợp đồng dịch vụ pháp lý trong BLDS 2005 thì LTM
2005 cũng chứa đựng rất nhiều những quy định về HĐDVPL. Ngoài ra còn một số văn
bản dưới luật khác như thông tư 06/2003/TT-BTP ngày 29 tháng 10 năm 1003 quy
định về hành nghề của tổ chức Luật Sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài tại Việt Nam,
Luật công chứng năm 2006 nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 về
thí điểm thực hiện thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh

Thứ ba, nhóm các quy định về hợp đồng dịch vụ pháp lý có yếu tố nước ngoài.
Cùng với tiến trình tự do hóa thương mại, Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế nên việc thực hiện các giao dịch có yếu tố nước ngoài là tương đối phổ biến.
Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy
định khác với quy định của LTM 2005, BLDS 2005 thì áp dụng Điều ước quốc tế. Các
bên trong giao dịch nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập

22


quán quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết và thực hiện HĐDVPL
Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý, Công ty Luật TNHH Á
Châu Việt và các đối tác của mình chịu những ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:


Hệ thống pháp luật

Trong quá trình quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước về giao kết và thực hiện
HĐDVPL thực hiện nhiệm vụ ban hành văn bản, quy định hướng dẫn về giao kết và
thực hiện HĐDVPL, đây là cơ sở cho việc tổ chức thực hiện việc giao kết và thực hiện
HĐDVPL.Thực tiễn cho thấy, hệ thống khung khổ pháp lý giao kết và thực hiện
HĐDVPL bao gồm các luật, nghị định, thông tư và các quyết định quy định về giao
kết và thực hiện HĐDVPL không phải bao giờ cũng bao quát được các vấn đề phát
sinh liên quan đến HĐDVPL trong thực tế. Việc giải quyết các vấn đề, tùy thuộc vào
từng tình huống cụ thể để áp dụng luật và các văn bản có liên quan, tuy nhiên, cũng có
những tình huống nằm ngoài phạm vi hoặc chưa được quy định trong luật, do đó, cần
phải có văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý về giao kết và thực hiện HĐDVPL.

Hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam còn có nhiều quy định chồng
chéo lên nhau, không đồng nhất hoặc quy định không rõ ràng, điều này gây ảnh hưởng
đến hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý của Công ty.
Do vậy, việc ban hành văn bản và các quy định hướng dẫn về giao kết và thực
hiện HĐDVPL của cơ quan quản lý nhà nước là một yếu tố có ảnh hưởng đến việc
giao kết và thực hiện HĐDVPL của các chủ thể tham gia. Yếu tố đòi hỏi phải có tính
chính xác và tính kịp thời, nếu một vấn đề phát sinh liên quan đến giao kết và thực
hiện HĐDVPL không được hướng dẫn giải quyết chính xác thì nó sẽ gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Ngoài ra, nếu vấn đề mang tính chất cấp bách mà không được giải quyết
kịp thời thì cũng đem lại hậu quả không mong muốn.
• Nguồn nhân lực
Trình độ, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của Ban giám đốc có ảnh
hưởng không hề nhỏ đến việc phát triển của Công ty. Họ là người đưa ra phương
hướng phát triển cho Công ty, tận dụng các cơ hội có được và nâng cao hiệu quả kinh
doanh của Công ty. Tiếp đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên
trong Công ty, đây là những người trực tiếp thực hiên hoạt động cung ứng dịch vụ
pháp lý. Họ trực tiếp đi giao dịch ký kết hợp đồng và thực hiện chúng, trong quá trình
thực hiện hợp đồng họ luôn kiểm tra và giám sát công việc cho tới khi hoàn thành.
Chính vì vậy mà họ là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động cung ứng dịch vụ
pháp lý và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý.
23


• Chất lượng và giá dịch vụ
Chất lượng và giá dịch vụ mà Công ty đưa ra có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động cung ứng dịch vụ pháp lý. Chất lượng của dịch vụ có tác động không hề nhỏ đến
việc định giá, lợi nhuận cung như uy tín của Công ty trên thị trường giới Luật gia. Tuy
nhiên chất lượng cao thì chi phí rất lớn, mà nhiều khi không phải khách hàng nào cũng
yêu cầu chất lượng hoàn hảo kèm giá thành cao. Vì vậy, tùy vào từng đối tượng khách
hàng khác nhau mà Công ty đưa ra dịch vụ khác nhau với giá và chất lượng phù hợp.

2.2 Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp
đồng DVPL.
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ pháp lý
* Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ pháp lý
Bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ hoàn thành công việc theo đúng chất lượng,
số lường và thời hạn mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu tính chất của công
việc được cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải đạt được một kết quả nhất định
thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành công việc đó sao cho kết quả phù hợp với
điều khoản và mục đích của hợp đồng, “trong trường hợp hợp đồng không quy định cụ
thể về tiêu chuẩn kết quả đạt được, bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng
dịch vụ với kết quả phù hợp với tiêu chuẩn thông thường của loại dịch vụ đó” (Điều
79, LTM 2005). Bên cạnh đó, “nếu tính chất của công việc được cung ứng yêu cầu
bên cung ứng dịch vụ phải nỗ lực cao nhất để đạt được kết quả mong muốn thì bên
cung ứng dịch vụ phải thực hiện nghĩa vụ cung ứng đó với nỗ lực và khả năng cao
nhất” (Điều 80, LTM 2005), tuy nhiên trong thực tiễn, có rất nhiều trường hợp bên
cung ứng dịch vụ đã nỗ lực cao nhất để hoàn thành công việc nhưng công việc đó vẫn
không đạt được đúng yêu cầu mà bên thuê dịch vụ mong muốn, điều này dẫn đến việc
bên thuê dịch vụ đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng vì lý do bên
cung ứng dịch vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình và việc này cấu thành một
vi phạm cơ bản đối với việc cung ứng dịch vụ đó.
Trong quá trình thực hiện công việc, để hoàn thiện công việc theo đúng yêu cầu
mà bên thuê dịch vụ đưa ra thì bên cung ứng dịch vụ có thể “hợp tác với một bên cung
ứng khác” hoặc “giao cho người khác thực hiện công việc đó nếu như bên thuê dịch
vụ đồng ý” (Điều 522, BLDS 2005 và Điều 81, LTM 2005). Đây là một lợi thế giúp
cho bên cung ứng vừa có thể giữ uy tín đồng thời giúp cho khách hàng của mình đạt
được mục tiêu mong muốn. Bên cạnh lợi ích của việc kết hợp hay bàn giao cho bên
thứ ba thì nó cũng còn có nhiều bất cấp xảy ra, nếu bên thứ ba không hoàn thành nghĩa
vụ thì trách nhiệm sẽ thuộc về bên thứ ba hay bên cung ứng dịch vụ, tuy nhiên pháp
luật Việt Nam chưa có văn bản pháp lý nào quy định về vấn đề này.
24



Ngoài ra, bên cung ứng dịch vụ cần thông báo ngay cho khách hàng trong
trường hợp thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không đảm bảo để hoàn thành
công việc được giao. Sau khi nhận được tài liệu, thông tin và phương tiện của khách
hàng, bên cung ứng dịch vụ cần phải bảo quản, sử dụng đúng mục đích. Khi hoàn
thành công việc bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ bàn giao lại các thông tin, tài liệu,
phương tiện đó cho khách hàng.
Trong quá trình cung ứng dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ “giữ bí
mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu có thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định” (Điều 522, BLDS 2005), do đó nếu không có thỏa
thuận hay pháp luật quy định về việc giữ bí mật thì bên cung ứng dịch vụ chỉ có nghĩa
vụ giữ bí mật của khách hàng trong quá trình thực hiện công việc, và khi công việc kết
thúc thì bên cung ứng dịch vụ có quyền tiết lộ thông tin của khách hàng cho bên thứ
ba mà không bị pháp luật cấm .
• Quyền của bên cung ứng dịch vụ pháp lý
Bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp thông tin, tài
liệu và phương tiện khi nhận thấy rằng nếu thiếu những thông tin, tài liệu và phương
tiện đó thì không thể hoàn thành công việc mà hai bên đã thỏa thuận theo đúng thời
hạn.
Trong quá trình thực hiện công việc, bên cung ứng “được thay đổi điều kiện
dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ, mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên
thuê dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo
ngay cho bên thuê dịch”. Trong trường hợp, bên cung ứng dịch vụ thấy việc thay đổi
điều kiện dịch vụ sẽ đem lại lợi ích cho bên thuê dịch vụ nhưng bên thuê thì không
chấp nhận việc thay đổi đó và cho rằng việc thay đổi này chỉ đem lại lợi ích cho bên
cung ứng mà không có lợi cho bên mình. Chính vì vậy mà bên thuê dịch vụ không còn
tín nghiệm bên cung ứng và yêu cầu chấm dứt hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại vì
sự thay đổi này.
Sau khi hoàn thành công việc, bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu bên thuê

dịch vụ phải thanh toán tiền theo đúng như thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo thói
quen của hai bên.
2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ pháp lý
• Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ pháp lý
Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán tiền cho bên cung ứng dịch vụ khi họ
đã hoàn thành công việc.
Ngoài ra, bên thuê dịch vụ cần phải trung thực hợp tác trong tất cả những vấn
đề cần thiết để bên cung ứng dịch vụ có thể thực hiện việc cung ứng không bị gián
25


×