Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

skkn PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.69 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11

Người thực hiện: NGÔ XUÂN SƠN

Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục:

- Phương pháp dạy học bộ môn: NGỮ VĂN

- Lĩnh vực khác: ................................................. 

Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình  Phần mềm
 Phim ảnh
 Hiện vật khác

Năm học: 2011- 2012
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

1


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: NGÔ XUÂN SƠN
2. Ngày tháng năm sinh: 22- 7 -1978
3. Giới tính: Nam
4. Địa chỉ: 29/142B, Khu phố 3, Phường Tân Mai, Biên Hòa, Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613834289 (CQ)/ 0613812913 (NR); ĐTDĐ: 0909383022
6. E-mail:
7. Chức vụ: giáo viên tổ Ngữ văn.
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị cao nhất: Cử nhân.
- Năm nhận bằng: 2000.
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn Ngữ văn.
- Số năm có kinh nghiệm: 12 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
CHUYÊN ĐỀ NGOẠI KHÓA VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN

Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

2


PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN
NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngữ Văn là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ Văn (nhất là phân môn Giảng
văn) là học cách khám phá cái đẹp của thế giới tự nhiên, của cuộc sống và con
người. Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, việc đổi mới phương

pháp dạy học Ngữ Văn sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng bộ
môn, cho nên mối quan tâm của giáo viên Ngữ Văn nâng cao hiệu quả giáo dục
thẩm mỹ, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập bộ môn Ngữ Văn cho học sinh.
Trước đây, văn bản nghị luận ít được đưa vào chương trình phổ thông do
nhiều người cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến những tư tưởng trừu tượng,
diễn đạt khô khan nên không gây được sự hứng thú, hấp dẫn đối với học sinh.
Hiện nay, văn nghị luận đã được đánh giá đúng với vai trò, ý nghĩa đích thực
của nó. Văn nghị luận không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất
nước, thời đại như công cuộc dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước, mà còn rất
gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay.
Xét theo tiêu chí nội dung luận bàn, người ta phân văn nghị luận thành hai
thể:
- Văn chính luận (luận bàn về các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức...) như
Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh, Về luân lý
xã hội ở nước ta (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây”) – Phan Châu Trinh, Tiếng
mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức – Nguyễn An Ninh…
- Văn phê bình văn học (luận bàn các vấn đề văn học nghệ thuật) như Một
thời đại trong thi ca – Hoài Thanh, Mấy ý nghĩ về thơ – Nguyễn Đình Thi.
Xét theo tiêu chí hình thức thể loại, người ta chia ra: văn nghị luận thời trung
đại (chiếu, cáo, hịch, bình sử, điều trần, ...) và văn nghị luận hiện đại (tuyên ngôn,
lời kêu gọi, phê bình, xã luận....)
Mặc dù khác nhau về thời điểm ra đời, về thể loại, về nội dung luận bàn
nhưng các văn bản nghị luận đều có điểm chung là bộc lộ tính trí tuệ uyên bác, tình
cảm sâu sắc của người viết.
Sau đây là bảng hệ thống các văn bản nghị luận phần văn học Việt Nam trong
chương trình Ngữ văn (ban cơ bản) ở trường THPT:
STT

Văn bản


Tác giả
Nguyễn Trãi

Thể loại

Lớp

Cáo

10

01

Đại cáo bình Ngô

02

Tựa “Trích diễm thi Hoàng Đức Lương
tập”

Tựa

10

03

Hiền tài là nguyên khí Thân Nhân Trung
của quốc gia (trích “Bài

Bia


10

Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

3


kí đề danh tiến sĩ khoa
Nhâm Tuất, niên hiệu
Đại Bảo thứ ba”)
04

Hưng Đạo Đại Vương Ngô Sĩ Liên
Trần Quốc Tuấn (trích
“Đại Việt sử kí toàn
thư”)

Sử kí trung
đại

10

05

Thái sư Trần Thủ Độ Ngô Sĩ liên
(trích “Đại Việt sử kí
toàn thư”)

Sử kí trung

đại

10

06

Chiếu cầu hiền

Chiếu

11

07

Xin lập khoa luật (trích Nguyễn Trường Tộ
“Tế cấp bát điều”)

Điều trần

11

08

Về luân lý xã hội ở Phan Châu Trinh
nước ta (trích “Đạo đức
và luân lí Đông Tây”)

Văn
nghị
luận hiện đại


11

09

Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải Nguyễn An Ninh
phóng các dân tộc bị áp
bức

Văn
nghị
luận hiện đại

11

10

Một thời đại trong thi ca Hoài Thanh
(trích)

Văn
nghị
luận hiện đại

11

11

Tuyên ngôn Độc lập


Tuyên ngôn

12

12

Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng
ngôi sao sáng trong văn
nghệ của dân tộc

Văn
nghị
luận hiện đại

12

13

Mấy ý nghĩ về thơ Nguyễn Đình Thi
(trích)

Văn
nghị
luận hiện đại

12

14

Nhìn về vốn văn hóa Trần Đình Hượu

dân tộc (trích “Đến hiện
đại từ truyền thống”)

Văn
nghị
luận hiện đại

12

Ngô Thì Nhậm

Hồ Chí Minh

Các văn bản nghị luận thường khô khan, đặc biệt các tác phẩm nghị luận
trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá, xã hội phong kiến nên chịu sự chi phối của
hệ tư tưởng chính thống, quan niệm văn chương của thời đại nên học sinh tiếp
nhận tác phẩm rất khó khăn. Khi giảng dạy, giáo viên cần kết hợp nhiều phương
pháp dạy học tích cực để học sinh trở thành chủ thể tiếp nhận trong việc tìm hiểu
cái hay, cái đẹp của tác phẩm về nội dung, quan điểm tư tưởng và hình thức nghệ
thuật.
Trong phạm vi của đề tài, tôi xin trao đổi về “Phương pháp giảng dạy văn
bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ Văn 11”.
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

4


II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận:
Theo lý luận dạy học cộng tác của G.S Nguyễn Ngọc Quang, quá trình dạy

học là một hệ toàn vẹn gồm: khái niệm khoa học, học và dạy.“Học là quá trình tự
điều khiển việc chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của
giáo viên”. Còn “dạy là sự điều khiển tối ưu hóa quá trình người học chiếm lĩnh
nội dung học (...) làm sao cho người học đi tới đích là chiếm lĩnh khái niệm khoa
học một cách tự giác, tích cực, tự lực” (Bản chất quá trình dạy học - sách GD học
đại học Hà Nội, năm 2000).
Mỗi giáo viên khi giảng dạy các tiết đọc văn đều vận dụng sáng tạo, linh hoạt,
kết hợp nhiều phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh.
Mỗi tác phẩm văn chương có một số yếu tố nghệ thuật đặc biệt quan trọng
theo đặc trưng thể loại vì đó là một chỉnh thể nghệ thuật, nghĩa là một thế giới hình
tượng bao gồm nhiều yếu tố quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau, tạo cho tác phẩm
tính chỉnh thể sống động và thống nhất. Do hình tượng văn học mang tính cảm
tính, cụ thể, khái quát nên tư duy người cảm thụ là tư duy tổng hợp. Khi giảng dạy,
giáo viên cần định hướng cho học sinh cảm nhận, khám phá, chiếm lĩnh được hình
tượng nghệ thuật và giá trị nội dung, tư tưởng, cái đẹp của hình thức nghệ thuật
văn bản.
Còn nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng
cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật…). Là
sản phẩm của tư duy lô gíc, văn nghị luận“viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc
nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa… Mục
đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một
tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng
lớp, một giai cấp nhất định… Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận
thuyết – khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và
thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ…” (Từ điển thuật ngữ Văn học
- Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) - NXB Đại học Quốc gia,
1999). Khi giảng dạy các văn bản nghị luận, giáo viên không chỉ giúp học sinh
khám phá bằng lí trí những tư tưởng, đạo lí … được thể hiện mà quan trọng hơn là
phải giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn.

2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Vẻ đẹp của văn nghị luận được bộc lộ ở sự sâu sắc của tư tưởng, sự mạch lạc
trong lập luận, sự chặt chẽ trong lí lẽ, sự xác thực trong chứng cứ, sự chính xác,
hàm súc trong ngôn từ, giọng điệu thuyết phục. Dạy văn nghị luận giáo viên cần
nắm vững đặc trưng của từng thể loại, khai thác những thông tin ngoài văn bản,
liên văn bản như tiểu sử tác giả, ngữ cảnh sản sinh văn bản, so sánh các văn bản
cùng thể loại, cùng đề tài để soi chiếu vào nội dung tác phẩm, góp phần giải mã
các lớp ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản.
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

5


Sau đó phân tích văn bản dựa trên yêu cầu chung của văn nghị luận (thao tác
quan trọng nhất):
Về nội dung: phải nêu rõ vấn đề đang được bàn tới; phân tích mặt đúng, mặt
sai, mặt lợi, mặt hại; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của
người viết và quan điểm, thái độ tư tưởng, tình cảm của tác giả.
Về hình thức: hệ thống luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lập luận sắc bén,
lời văn sinh động, thuyết phục
Cuối cùng đánh giá được những đóng góp cơ bản của tác phẩm về nội dung tư
tưởng cũng như nghệ thuật biểu hiện.
2.1. Tìm hiểu những điều ngoài văn bản có liên quan đến tác phẩm:
Nếu người tiếp nhận không hiểu ngữ cảnh sẽ không cắt nghĩa được mạch
ngầm văn bản, đặc biệt là các văn bản trung đại thường có tính chất giáo huấn,
ngôn chí sâu sắc (vì có sự gián cách về thời gian và môi trường văn hóa tiếp nhận).
Soi chiếu vấn đề từ ngoài văn bản kết hợp với góc nhìn bên trong văn bản sẽ mang
lại một hiệu ứng tổng hợp, toàn diện đối với thông điệp tác giả muốn hướng tới
người tiếp nhận.
2.1.1.Văn bản “Chiếu cầu hiền” – Ngô Thì Nhậm.

Với văn bản nghị luận khá đặc biệt như “Chiếu cầu hiền” cần lưu ý: nội dung
tư tưởng, chủ trương cầu hiền tài (tập hợp trí thức) để xây dựng đất nước là của
vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta nhưng người soạn
thảo văn bản này là Ngô Thì Nhậm nên trước khi học văn bản, GV yêu cầu học
sinh thảo luận nhóm ngoài giờ học (4 nhóm) với đề tài “Vai trò của vua Quang
Trung trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và triều đại Tây Sơn”, thời gian chuẩn bị
cho đề tài là 7 ngày.
Đến tiết học văn bản “Chiếu cầu hiền”, 2 nhóm sẽ cử đại diện lên thuyết trình
ngắn gọn về đề tài, các nhóm còn lại sẽ nhận xét, bổ sung.
Mục đích của việc thuyết trình là giúp học sinh hiểu được tư tưởng, tài năng
và tấm lòng của một vị vua sáng. Trong quá trình tìm tư liệu thì học sinh sẽ nắm
được hoàn cảnh ra đời của “Chiếu cầu hiền” để hiểu được vì sao vua Quang Trung
lại quan tâm tới vấn đề cầu hiền, tầm quan trọng và ý nghĩa của việc cầu hiền tại
thời điểm bàn luận. Sau đó giáo viên chốt lại vấn đề thuyết trình thật ngắn gọn.
- Ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn lật đổ chế độ phong kiến nhà Nguyễn ở Đàng trong, đánh tan quân
xâm lược Xiêm và thế lực của Nguyễn Ánh (1784 – 1785), lãnh đạo nghĩa quân lật
đổ chế độ phong kiến họ Trịnh ở Đàng ngoài, xóa bỏ triều đại phong kiến nhà Lê
mục nát (1786). Trước sự xâm lược của phong kiến Mãn Thanh, ngày 22-12-1788
(25-11 Mậu Thân), tại kinh đô Phú Xuân (Huế), Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế,
lấy niên hiệu là Quang Trung, thống lĩnh quân đội mở cuộc hành quân thần tốc ra
Thăng Long. Đến đầu xuân Kỷ Dậu (1789), quân đội của Hoàng đế Quang Trung
đã quét sạch 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc
lập, thống nhất của nước ta làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử. Chiến thắng
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

6


Đống Đa và những chiến công hiển hách khác luôn gắn liền với tên tuối của người

anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài Quang Trung - Nguyễn Huệ. Từ 17881792, vua Quang Trung đã ban 4 chiếu quan trọng: “Chiếu cầu hiền, Chiếu dụ các
quan văn võ triều Lê, Chiếu lập học và Chiếu mở khoa thi”. Cả 4 chiếu này đều
hướng đến lựa chọn, bồi dưỡng người tài làm nền tảng của triều đại.
- Không phải ngẫu nhiên mà Quang Trung có thể tập hợp quanh mình những
trí thức tài năng, thành tâm theo đuổi sự nghiệp “giúp dân dựng nước”. Chính sách
cầu hiền của Quang Trung tranh thủ được sự đóng góp của nhiều sĩ phu yêu nước
có tư tưởng tích cực, tiến bộ trong xã hội đương thời. Thái độ cầu hiền chân thành,
mềm mỏng của Quang Trung thể hiện rõ nhất là đối với La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp - thiếu một tấm lòng chân thành, thiếu một suy nghĩ sâu xa, có lẽ Quang
Trung đã không thể đưa Nguyễn Thiếp trở lại với đời và đem hết tài năng ra phục
vụ đất nước. Quang Trung ra lệnh sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức trong
các chiếu chỉ và giao cho Viện trưởng Sùng chính viện – Nguyễn Thiếp – tổ chức
dịch các sách vở kinh điển từ Hán sang Nôm. Ông còn ghi nhận công lao, trọng
dụng nhiều hiền tài khác như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, ..… Với chính sách
cầu hiền, Quang Trung đã tập hợp sức mạnh toàn dân tộc làm nên những trang sử
hào hùng của thế kỉ XVIII.
Mặt khác, người viết “Chiếu cầu hiền” là Ngô Thì Nhậm nên giáo viên cần
nhấn mạnh để học sinh hiểu rằng Ngô Thì Nhậm làm quan dưới triều Lê - Trịnh.
Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều
cũ. Thời điểm này cả vua Lê, chúa Trịnh đều đã sụp đổ thì Ngô Thì Nhậm cùng vài
trí thức có tư tưởng tiến bộ ra làm quan cho triều Tây Sơn. Ông có nhiều đóng góp
cho triều Tây Sơn, đặc biệt soạn thảo nhiều văn bản giấy tờ quan trọng.
Tiếp đó, học sinh trình bày hoàn cảnh ra đời của “Chiếu cầu hiền”: Sau khi
Lê Chiêu Thống và tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ. Trước sự kiện
trên, một số bề tôi của nhà Lê hoặc mang nặng tư tưởng trung quân, hoặc sợ hãi
nên nhiều người trốn tránh, hoặc đi ở ẩn… Khát vọng xây dựng một Nhà nước
hùng mạnh về mọi mặt đã thôi thúc Quang Trung chú ý đến vai trò quan trọng của
giới nho sĩ, trí thức. Quang Trung giao cho Ngô thì Nhậm thay mình viết “Chiếu
cầu hiền” nhằm mục đích thuyết phục các danh sĩ Bắc Hà hiểu được nhiệm vụ xây
dựng đất nước mà triều Tây Sơn đang dự kiến thực hiện để mời họ ra cộng tác với

nhà Tây Sơn.
2.1.2. Văn bản “Xin lập khoa luật” (trích “Tế cấp bát điều”) – Nguyễn
Trường Tộ:
Giáo viên giao các nhóm thảo luận ngoài giờ học (4 nhóm) với đề tài “Tư
tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ”, thời gian chuẩn bị cho đề tài là
5 ngày.
Đến tiết học văn bản “Xin lập khoa luật”, 2 nhóm cử đại diện lên thuyết trình
ngắn gọn về đề tài, các nhóm còn lại sẽ nhận xét, bổ sung.

Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

7


Mục đích của việc thuyết trình là giúp học sinh hiểu được tư tưởng, tấm lòng
yêu nước của Nguyễn Trường Tộ. Giáo viên chốt lại vấn đề thuyết trình thật ngắn
gọn.
- Tầm nhìn xa trông rộng và tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường
Tộ rất đáng trân trọng, bộc lộ lòng yêu nước của một trí thức có tư tưởng tiến bộ
muốn đem tất cả sức lực, trí tuệ của mình cống hiến cho đất nước. Gần 60 bản di
thảo của ông bộc lộ sự am hiểu sâu sắc trên nhiều lĩnh vực: khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội, quốc phòng, ngoại giao. Ông đề nghị trong hoạt động giáo dục
phải có các môn học thiết thực như khoa nông nghiệp, khoa địa lý, khoa thiên văn
… Ví dụ ngành nông chính, sau khi đã xác định tầm quan trọng của nông nghiệp,
ông kiến nghị xuất bản bộ sách “Nông chính toàn thư” ghi chép tất cả những kinh
nghiệm hay trong dân gian cũng như ở các nước về trồng cấy, chăn nuôi, chế tạo
công cụ. Đề nghị lập Bộ canh nông chăm lo phát triển nông nghiệp, cử quan
chuyên trách về nông nghiệp khảo cứu đất đai, đặc biệt phải dạy cho dân biết trồng
cấy, chăn nuôi. Ông đề nghị phải lo trồng rừng để phòng chống lũ lụt, giao đất cho
dân trồng cấy, chăm sóc.

Đặc biệt, Nguyễn Trường Tộ đề xướng việc dùng Quốc âm trong học tập và
giảng dạy. Ông khẳng định “Nước nào cũng có chữ của nước ấy, khi nói ra, viết ra
ai cũng hiểu, thế tại sao nước ta lại trọng dụng ngôn ngữ của nước ngoài?”.
Về thuật cai trị, ông chủ trương phải dùng luật pháp. Tuy nhiên, ông cũng
không hoàn toàn thiên về luật để trị nước nhưng cũng không dựa hẳn vào “đức trị”
mà dung hoà mềm dẻo hơn: “Phàm dùng lý chỉ dùng trong việc xử đoán hình phạt
mà khi nào không dùng tình được mới dùng đến lý. Lý là mệnh lệnh gắt gao. Tình
là cái đôn hậu hoà dịu…Người trị nước quý hồ chỗ thấu suốt tình dân, có tình mới
có dân”.
Tiếp theo, giáo viên cần giới thiệu hoàn cảnh ra đời “Tế cấp bát điều”, thể
loại điều trần và nội dung ngắn gọn của văn bản.
- “Xin lập khoa luật” trích từ bản điều trần số 27 “Tế cấp bát điều” (8 việc
cần làm gấp) được viết vào năm Tự Đức thứ hai mươi – 1867.
- Điều trần: văn nghị luận chính trị - xã hội trình bày vấn đề theo từng điều,
từng mục nhằm thuyết phục người đọc, người nghe làm theo đề nghị của người
viết. Tám điều ấy là:
+ Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị.
+ Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh.
+ Xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ (thuế cờ bạc, thuế rượu, thuốc
lá, trà, tơ lụa, thuế người giàu).
+ Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng (Học những gì chưa biết để biết
mà đem ra thực hành). Nay xin lập các khoa sau: khoa nông chính, khoa thiên văn
và khoa địa lý, khoa kĩ nghệ, khoa luật học và đề nghị dùng quốc âm trong học tập
và giảng dạy.
+ Xin điều chỉnh thuế ruộng đất.
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

8



+ Xin sửa sang lại biên giới.
+ Xin nắm rõ dân số.
+ Xin lập viện Dục anh và trại Tế bần.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở:
Vì sao Nguyễn Trường Tộ lại đề xuất xin lập những khoa nông chính, thiên
văn và địa lý ?
Vì nền kinh tế nước ta thời phong kiến chủ yếu là nền nông nghiệp lạc hậu,
nhân dân lao động thủ công và bằng kinh nghiệm là chính, chưa có sự hỗ trợ của
các yếu tố khoa học kĩ thuật nên sản lượng thấp. Các ngành khoa học Nguyễn
Trường Tộ đề xuất với triều đình xin mở đều mang tính thiết thực.
Có thể nêu tình huống có vấn đề giả định:
Giả sử vua Tự Đức phê chuẩn “Tế cấp bát điều” thì xã hội sẽ thay đổi như
thế nào ?
Học sinh có thể nêu ý kiến riêng của bản thân, từ đó nhận thấy rằng tám việc
cần làm nêu trên là vô cùng cấp thiết, thể hiện trình độ trí tuệ uyên bác, tầm nhìn
đúng đắn của Nguyễn Trường Tộ. Những điều này hiện nay nhà nước ta đã và
đang triển khai, điều chỉnh, để ngày một hoàn thiện hơn cho phù hợp với tình hình
phát triển của xã hội trong thời đại giao lưu hợp tác quốc tế sâu rộng.
2.2. Phân tích văn bản dựa trên yêu cầu chung của văn nghị luận:
Sức hấp dẫn của văn bản nghị luận nằm ở sự độc đáo trong cách chọn và triển
khai luận điểm, cách lập luận, giọng điệu, … Do vậy giáo viên cần triển khai phân
tích trên bình diện kết cấu, giọng điệu, ngôn từ để thấy giá trị nội dung và sự hấp
dẫn của tác phẩm.
Luận điểm là tư tưởng, quan điểm của người viết đối với vấn đề nghị luận.
Luận điểm phải đúng đắn, sáng rõ, đáp ứng đòi hỏi của thực tế thì mới có sức
thuyết phục. Thông thường trong văn bản nghị luận bao giờ cũng có một luận điểm
trung tâm đồng thời có một hệ thống các luận điểm bộ phận triển khai theo những
cách lập luận cụ thể làm cho bài văn có sức thuyết phục.
Cần phân tích được vẻ đẹp của ngôn từ, cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật lập
luận. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận rất phong phú, linh hoạt: quy nạp,

diễn dịch, chứng minh, giải thích…hoặc tác giả có thể kết hợp nhiều thao tác lập
luận trong cùng một tác phẩm. Văn nghị luận cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ
thuật để thể hiện cảm hứng của chủ thể sáng tạo và tạo nên tính hình tượng (chỉ thể
hiện ở cấp độ chi tiết, ngôn từ, cách diễn đạt tu từ, ở cách vận dụng thành ngữ, điển
cố) cùng sắc thái trữ tình của tác phẩm.
Giáo viên cần giúp học sinh phát hiện và phân tích được sự mạch lạc, đanh
thép, hùng hồn của lời văn trong việc làm sáng tỏ luận điểm vừa thể hiện được tư
tưởng, cảm xúc của nguời viết và đem lại tính truyền cảm cho tác phẩm.
2.2.1. Văn bản “Chiếu cầu hiền”:
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

9


Luận điểm trong “Chiếu cầu hiền” được thể hiện dưới hình thức tiêu đề.
Chiếu thuộc loại văn nghị luận chính trị - xã hội do nhà vua lệnh cho bề tôi, thần
dân thực hiện, nhưng ở đây, đối tượng của “Chiếu cầu hiền” là các bậc hiền tài đã
từng phụng sự nhà Lê, nên khi triều Lê – Trịnh sụp đổ, triều Tây Sơn lên thay, vốn
mang nặng tư tưởng Nho giáo và nhân cách nhà nho “trung thần bất sự nhị quân”
nên vua Quang Trung dùng “cầu” chứ không ra lệnh.
Trong đoạn mở đầu, Ngô Thì Nhậm đã xây dựng một tiền đề vững chắc,
thuyết phục bằng thao tác so sánh với hai lập luận:
- Lập luận 1: người hiền “như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu
về ngôi Bắc Thần”, suy ra “người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Để tạo tiền đề
vững chắc cho lập luận, tác giả lại mượn ý của Khổng Tử trong sách “Luận ngữ”
để tạo sự thuyết phục: lấy đức mà cai trị đất nước, giống như sao Bắc Đẩu giữ
đúng vị trí của mình, các ngôi sao khác sẽ chầu về. Như vậy tác giả vừa tôn vinh
những bậc nho sĩ (như sao sáng) vừa khẳng định rằng triều đại mới là một triều đại
dùng đức để cai trị đất nước.
- Lập luận 2: Sao che mất ánh sáng thì sẽ mất đi vẻ đẹp, người hiền mà không

cống hiến tài năng đó cho nước, cho đời là trái mệnh trời.
Hai lập luận đều hướng đến khẳng định một điều: người hiền muốn được
công nhận phải cống hiến tài năng cho đời. Ngô Thì Nhậm muốn nhắn gửi đến
hiền tài sứ mệnh của chính họ. Từ hai lập luận này, có thể xuất hiện tình huống có
vấn đề giả định:
Giả sử Ngô Thì Nhậm chưa từng làm quan triều Lê – Trịnh thì sức thuyết
phục của lập luận này sẽ như thế nào ?
Với tình huống này, học sinh dựa vào tư liệu đã thu thập được về Ngô Thì
Nhậm để lí giải: nếu Ngô Thì Nhậm chưa từng phụng sự cho triều Lê – Trịnh thì
giới nho sĩ Bắc Hà sẽ cho rằng ông không hiểu được nghĩa tình mà triều cũ đối đãi
với họ nên sẽ không thuyết phục được giới nho sĩ Bắc Hà. Sự thực thì Ngô Thì
Nhậm đã từng làm quan triều cũ, được triều cũ rất trọng dụng. Nay ông nhận thấy
triều đại mới đáng để phụng sự nên bỏ qua tư tưởng ‘trung thần bất sự nhị quân”.
Hoặc giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề không phù hợp:
Ngô Thì Nhậm lập luận “người hiền” có sứ mệnh phục vụ đất nước. Vậy
trong xã hội hiện nay, sứ mệnh đó thuộc về ai?
Hiện nay không chỉ người học rộng tài cao mới có sứ mệnh của “người hiền”
mà tất cả mọi người có năng lực đều cần phải biết rõ mình nên làm gì.
Từ việc giải quyết tình huống trên học sinh nhận ra rằng một cá nhân rụt rè,
nhút nhát hoặc ích kỉ, tự phụ …thì khó mà khẳng định được vị thế của mình trong
xã hội để từ đó học sinh rút ra bài học về cách sống ở đời: sống tự tin, bản lĩnh và
cống hiến hết mọi khả năng của mình. Đó mới là ý nghĩa của cuộc sống mỗi người.
Trong phần 2 (đoạn 2,3,4) Ngô Thì Nhậm nêu lên lòng khát khao người hiền
của Vua Quang Trung.
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

10


Đoạn 2 như một điểm tựa bắt nguồn từ những sự việc của quá khứ gần

“Trước đây thời thế suy vi”, giáo viên có thể tạo ra tình huống có vấn đề không
phù hợp:
Ngô Thì Nhậm mở đầu bằng “Trước đây thời thế suy vi” tức đưa người đọc
ngược dòng lịch sử, trở về với mạt thời Lê Trịnh. Vì sao tác giả lại gọi đó là thời
suy vi trong khi bản thân đã từng phục vụ triều cũ?
Ngô Thì Nhậm vừa thuyết phục trí thức Bắc Hà (theo ý định của Quang
Trung) vừa nêu nhận xét của bản thân. Thời Lê – Trịnh, hiền tài không được trọng
dụng. Vì thế cách hành xử tích cực nhất của họ là giữ gìn khí tiết trong sạch bằng
cách trốn tránh, ẩn dật hoặc là dè dặt, giữ mình ở chốn quan trường. Thời thế
không cho phép họ tự thể hiện mình. Từ đó học sinh thấy rằng trong cuộc sống,
phải thể hiện năng lực của bản thân trong mọi hoàn cảnh.
Hay giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề xung đột, tương phản:
Tại sao trong đoạn 1 tác giả khẳng định sứ mệnh của người hiền tài còn ở
đoạn 2, tác giả lại có vẻ ủng hộ cách ứng xử của họ trong mạt thời Lê Trịnh như
vậy? Bài học em rút ra từ cách nhìn nhận của Ngô Thì Nhậm đối với hiền tài?
Ngô Thì Nhậm đã nhìn họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh sống (hoàn cảnh
rộng - lịch sử xã hội). Chỉ những nhân tài kiệt xuất như Quang Trung Nguyễn
Huệ… mới có khả năng tạo ra thời thế, còn phần lớn con người đều ít nhiều bị chi
phối bởi hoàn cảnh xã hội. Cách ứng xử của các bậc hiền tài trước đây có nghĩa là
họ đã làm chủ được hoàn cảnh hẹp (hoàn cảnh trực tiếp) của bản thân mình.
Bài học được rút ra là cách đánh giá con người, phải nhìn nhận họ trong mối
quan hệ qua lại với hoàn cảnh sống để có thái độ đánh giá đúng mực.
hoặc có thể nêu câu hỏi gợi mở:
Tác giả dùng nhiều hình ảnh gợi cảm để chỉ tình trạng thất thế loạn lạc của
kẻ sĩ (ở ẩn trong ngòi khe, kiêng dè không dám lên tiếng, gõ mõ canh cửa, ra biển
vào sông, chết đuối trên cạn,…) trong thời thế suy vi nhằm mục đích gì?
Mục đích của Ngô Thì Nhậm muốn nhấn mạnh lối sống uổng phí tài năng của
hiền tài (biện pháp kích tướng).
Ở đoạn 3, tác giả thay lời vua để thổ lộ những tâm tư sâu kín, đó là nỗi niềm
canh cánh chờ mong sự xuất hiện của hiền tài “nay trẫm đang ghé chiếu lắng

nghe, ngày đêm mong mỏi”, hàng loạt câu hỏi “Hay trẫm ít đức không đáng để
phò tá chăng ? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”.
Giọng văn bình dị như một lời tâm tình làm gần hơn khoảng cách giữa vua với các
hiền tài.
Trong đoạn 4, Tác giả không hô hào, kêu gọi mà đặt ra một câu hỏi day dứt
“Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn này, há trong đó không có lấy một
người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”
vì trọng trách quốc gia không chỉ một mình vua gánh vác được. Như vậy, tác giả
đề cao vai trò của hiền tài trong việc trị nước; mặt khác lại đánh vào tâm lý, khơi
gợi lòng tự trọng của họ. Lời văn nhẹ nhàng mà lí lẽ, lập luận thì sắc sảo, có sức
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

11


thuyết phục cao vừa lay động chí, vừa chuyển tâm ý của người hiền tài. Hòa quyện
trong mỗi lời văn là tình và lí: một bên là sự cần thiết của nước nhà, một bên là tấm
lòng ưu ái của nhà vua dành cho các bậc hiền tài.
Đoạn 3,4 có chung một cấu trúc: kể, liệt kê thực trạng để tìm cách khơi gợi,
kích động những người hiền tài. Từ đó kết đoạn là những câu hỏi tu từ xoáy sâu,
nhấn mạnh, khích lệ họ hãy nhanh chóng ra giúp dân giúp nước. Giọng điệu linh
hoạt, khi mạnh mẽ (gợi cái tầm thường trong cuộc sống ẩn dật), khi thì lắng lại,
khiêm nhường, thành tâm; khi thì khích lệ, cổ vũ người hiền ra giúp chính quyền
buổi đầu…
Phần 3 (đoạn 5, 6) nêu lên chính sách cầu hiền cụ thể, công bằng, mở rộng
cửa cho người hiền giúp vua, giúp nước.
Đối với người có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, lời nói nào dùng được
thì cất nhắc, không kể thứ bậc, không dùng thì gác lại không bắt tội. Đối với người
có nghề hay nghiệp giỏi, cho phép quan văn, quan võ tiến cử, tuỳ tài sử dụng. Đối
với những người tài năng còn bị che kín thì dâng sớ tự tiến cử…

Quan điểm về hiền tài của vua Quang Trung thật tiến bộ, hợp lòng dân, tạo
con đường rộng mở cho người tài ra phò vua trị nước.
Lời kêu gọi ở đoạn 6 của tác giả sôi nổi, nhiệt thành nhấn mạnh lại cơ hội lập
danh, lập thân của người hiền thực sự đã đến làm nức lòng hiền tài bốn bể.
Như vậy, trong văn nghị luận, lí lẽ, hình ảnh, cảm xúc và giọng điệu thường
hòa quyện chặt chẽ đem lại sự thuyết phục cả về lý trí và tình cảm đối với người
đọc, người nghe. "Chiếu cầu hiền" đã kích thích niềm tự tôn, tự hào của các nhân
tài, động viên họ đem đức tài ra giúp dân, giúp nước. Có thể nói vua Quang Trung
đã không nhầm khi đánh giá cao năng lực và giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách
chấp bút thay mình để cầu hiền trong thiên hạ.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi thảo luận nhóm:
Bài học mà chúng ta rút ra được từ nghệ thuật ứng xử của vua Quang Trung
và Ngô Thì Nhậm?
Bài học về cách ứng xử ở đời: lấy chí để thuyết phục chí, lấy tâm để thuyết
phục tâm, lấy sự công bằng, dân chủ để thuyết phục nhân, đây cũng là nghệ thuật
ứng xử của con người trong mọi thời đại.
Hoặc có thể tạo ra tình huống có vấn đề cần so sánh, đối chiếu:
Sau khi học “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” – Thân Nhân Trung (lớp
10) và “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm, em nhận xét về điểm giống và khác
giữa hai văn bản ?
Để giải quyết tình huống này, học sinh nêu những nhận xét, đánh giá riêng.
Từ đó học sinh nhận thức rằng dù ở bất cứ thời đại nào, nhân tố con người phải
luôn được coi trọng, những nhân tài cần được tạo mọi cơ hội để có thể đem hết sức
mình cống hiến cho đất nước.
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

12


2.2.2. Văn bản “Xin lập khoa luật”:

Giáo viên cần phân tích hệ thống luận điểm và cách lập luận của bài điều trần
học sinh hiểu được tầm quan trọng của luật đối với sự nghiệp canh tân đất nước và
thấy được lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trường Tộ.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi dẫn để xác định luận điểm:
Tại sao Nguyễn Trường Tộ lại đề xuất “Xin lập khoa luật” ?
Luận điểm 1 "Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước…Ai
giỏi luật sẽ được làm quan" để nói về tầm quan trọng của “luật”.
Luận điểm 2 "Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một
hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật" chỉ ra tác dụng của luật.
Việc Nguyễn Trường Tộ đề xuất với triều đình "lập khoa luật" đã nói lên sự
quan tâm của ông đến "kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia" để khẳng
định khả năng bao quát của luật đối với xã hội, khẳng định vai trò của luật đối với
việc trị dân của vua có nghĩa là luật bao trùm cả vấn đề đạo đức và trách nhiệm.
Tác giả cũng đề cập đến vấn đề dân chủ trong việc thi hành luật pháp, chỉ có
nhà nước pháp quyền mới đảm bảo nền dân chủ công bằng xã hội. Muốn làm tốt
điều này thì "phàm những ai đã nhập ngạch Bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì
chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không
giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong
trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả". Đây chính là thể
hiện rõ quan điểm tam quyền phân lập. Giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp phải đảm bảo tính độc lập khách quan “thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo
công bằng".
Và giáo viên có thể nêu tình huống có vấn đề so sánh, đối chiếu:
Theo em, quan điểm này của Nguyễn Trường Tộ có gì khác so với tư tưởng
pháp trị phong kiến lúc bấy giờ? Trong xã hội ngày nay, nhà nước ta chủ trương
thực hiện đường lối chính sách pháp luật như thế nào?
Với tình huống này, học sinh dựa vào những hiểu biết về vấn đề hành pháp ở
thời phong kiến để rút ra nhận xét. Sau đó liên hệ xã hội hiện tại để nhận thấy tư
tưởng tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trường Tộ.
Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh sự bình đẳng của luật pháp. Quan và dân,

quân và thần đều bình đẳng trước pháp luật, đây là điểm tiến bộ rõ rệt so với tư
tưởng pháp trị phong kiến vì ông chú ý đến quyền lợi của nhân dân trước pháp
luật. Từ đó học sinh nhận thấy hiện nay nhà nước ta luôn nêu cao khẩu hiệu "sống,
làm việc theo hiến pháp và pháp luật". Nhà nước và nhân dân ta đang ngày càng
nêu cao vai trò trách nhiệm của ngành tư pháp là phải xử đúng luật, đúng người,
đúng tội, tránh xử oan sai.
Phần 2 (đoạn 2, 3) tác giả khẳng định vai trò của luật. Giáo viên có thể nêu
câu hỏi gợi mở thảo luận nhóm:
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

13


Nguyễn Trường Tộ dùng đạo nghĩa của Nho gia “trung hiếu”, “lễ nghĩa” để
làm điểm tựa cho lập luận nhưng ông phê phán các sách Nho chỉ nói suông trên
giấy”, rồi lại kết bằng lời của Khổng Tử “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi của
mình mà biết tự trách phạt” và “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành
ra làm việc”. Phương pháp lập luận của ông nhằm mục đích gì?
Nho gia giáo dục con người bằng chuẩn mực đạo đức, bằng những tấm gương
đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết suông, không có đủ khả năng làm cho
mọi người tự giác sửa mình. Đưa ra những nhược điểm của việc trị dân bằng lí
thuyết nhà nho, tác giả không nhằm hướng đến mục đích phê phán sách Nho mà để
khẳng định luật cần thiết đối với sự ổn định của xã hội.
Cuối mỗi điều phê phán, Nguyễn Trường Tộ kết lại bằng lời của Khổng Tử
khiến cho lí lẽ của ông càng thuyết phục người nghe, nhất là các nhà nho vốn rất
bảo thủ. Đó là phương pháp “gậy ông đập lưng ông”. Cách lập luận của tác giả vừa
sắc sảo vừa chặt chẽ, vừa ngắn gọn, vừa mang tính chiến đấu mạnh mẽ. “Nguyễn
Trường Tộ (…) đem hình thức đối thoại vào bài văn, luôn luôn đặt giả thuyết, đặt
câu hỏi để lật lại vấn đề, và tự mình phản bác cặn kẽ những câu hỏi mình nêu ra,
làm cho vấn đề càng thêm sáng tỏ. Nhưng điều quan trọng hơn là ông đã nghị luận

bằng tất cả nhiệt huyết và lòng tin vào chân lí (…) Chính phong cách chính luận –
trữ tình này đã tạo nên một giọng điệu riêng, một khả năng cuốn hút đặc biệt đối
với đối tượng mà ông cần thuyết phục” (Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi).
Hoặc giáo viên có thể tạo ra tình huống có vấn đề dung hòa:
Theo em, làm thế nào để vừa có thể vừa bảo vệ đạo làm người vừa dùng
luật?
Cần xây dựng nhà nước pháp quyền, đề cao tư tưởng pháp trị, Trong xã hội
vấn đề khen thưởng, xử phạt phải kịp thời, đúng mức thì mới có ý nghĩa thúc đẩy
sự phát triển của xã hội, sự tiến bộ của mọi người.
Liên hệ với hiện tại, học sinh sẽ nhận thấy nhà nước ta đang thực hiện tất cả
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, các cơ
quan lập pháp đang soạn thảo thêm các điều luật và chỉnh sửa luật cho phù hợp với
hoàn cảnh đất nước trong thời đại mới.
Phần 3 (đoạn 4), Nguyễn Trường Tộ đã lí giải thấu đáo vai trò của luật, đồng
thời giải quyết triệt để những nghi ngờ về khả năng của luật. Ông dùng lập luận để
bác bỏ quan điểm “luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi”. Ông
khẳng định “trái luật là tội, giữ đúng luật là đức”, nhấn mạnh mối quan hệ biện
chứng giữa pháp trị và đức trị "Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử
sự thì mọi quyền, pháp đều là đạo đức”. Để khẳng định, tác giả đã dùng các câu
nghi vấn tu từ “có đức nào lớn hơn chí công vô tư không ?”. Nguyễn Trường Tộ
đề cao việc con người sống đúng luật pháp, làm theo luật pháp là đức trời. Ông viết
“Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng công bằng hợp với đức trời,
như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao?”.
Đoạn trích “Xin lập khoa luật” là một văn bản nghị luận chặt chẽ, thấu tình
đạt lí. “Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là lối văn chính luận, vừa phải bảo
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

14



đảm sự chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong dẫn chứng nhưng cũng
vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả, nên có sức thuyết phục rất mạnh.
Những lá thư điều trần của ông rất dài, bàn về rất nhiều vấn đề cùng một lúc,
nhưng văn phong mạch lạc, đâu ra đấy, từng vấn đề được bàn hết lẽ và dứt điểm,
lại đều có chứng minh thực tiễn” (Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi).
Để kết thúc bài học, giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở để học sinh thảo luận
nhóm:
“Văn bản “Xin lập khoa luật” có giá trị như thế nào trong xã hội ta ngày
nay?”.
Đến nay bản điều trần vẫn còn nguyên giá trị, đó là những sách lược trị nước
đúng đắn để cho các cấp chính quyền nghiên cứu vận dụng, để cho nhân dân điều
chỉnh hành vi bản thân, sống theo hiến pháp và pháp luật. Được như vậy thì trật tự
xã hội sẽ đi vào kỉ cương, chính lệnh của quốc gia sẽ được thực hiện nghiêm minh
và đất nước sẽ phát triển, cuộc sống của nhân dân sẽ yên bình hạnh phúc.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Học sinh hứng thú tiếp nhận văn bản, có ý thức tự giác sưu tầm tài liệu, đọc
sách và chủ động đưa ý kiến của mình ra đối thoại trước lớp. Tính thời sự của vấn
đề được học sinh tự đánh thức, tránh được lối dạy áp đặt một chiều từ phía giáo
viên.
- Học sinh được tìm hiểu, củng cố thêm về kiến thức lịch sử, có kĩ năng đọc hiểu các văn bản nghị luận theo thể loại đồng thời rèn luyện thêm về kĩ năng tạo
lập văn bản nghị luận.
- Học văn nghị luận giúp học sinh hình thành những quan điểm đúng đắn về
chính trị, xã hội; hình thành năng lực tư duy và thành công trong giao tiếp. Hơn
nữa, học sinh có năng lực phân tích, tổng hợp khám phá vấn đề có sức thuyết phục
trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ, căn cứ xác thực.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
* Đối với giáo viên:
- Vai trò người giáo viên cực kì quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp
thích hợp để giảng dạy. Tùy vào nội dung luận bàn và hình thức thể hiện của văn
bản, đặc điểm tiếp nhận của học sinh, thời gian tiếp nhận mà giáo viên vận dụng

cách phân tích văn bản kết hợp với phương pháp dạy học nêu vấn đề, thảo luận
nhóm.
- Đối với những tình huống có vấn đề, học sinh dựa trên kiến thức bài học và
kiến thức của bản thân để tìm những giải pháp. Giáo viên không nên có kết luận
cứng nhắc với tình huống. Kết luận nên ở dạng là một gợi ý có thể bao quát được
những hướng giải quyết mà học sinh đưa ra. Từ đó, học sinh có thể tranh luận với
nhau về những khả năng cũng như tính khả thi của những phương án có thể lựa
chọn.

Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

15


- Giáo viên cần gợi ý cho học sinh về những tư liệu cần hoặc những địa chỉ
website để các em có nguồn tư liệu chuẩn xác.
- Giáo viên tích lũy vốn tri thức về tác phẩm, về lịch sử, các vấn đề thời sự, xã
hội có liên quan để giúp các em nhận diện được vấn đề nghị luận cũng như hệ
thống lập luận của văn bản.
* Đối với học sinh:
- Có nhu cầu bộc lộ suy nghĩ cá nhân trước tập thể. Nên chủ động tham gia
thảo luận nhóm ngoài giờ học để có những hiểu biết về tác giả, bối cảnh văn học,
hoàn cảnh lịch sử - thời đại ra đời tác phẩm.
- Cần đọc – hiểu văn bản trước khi tiến hành tìm hiểu ở lớp nhằm khám phá
văn bản bằng cả lí trí, tâm hồn.
V. KẾT LUẬN
Sự hấp dẫn của một tác phẩm nghị luận là do nhiều yếu tố tạo nên trong đó
luận điểm và cách lập luận là yếu tố quan trọng. Dạy văn nghị luận giáo viên cần
bám sát văn bản, nắm vững đặc trưng cơ bản của từng thể loại. Trong thực tế, việc
giảng dạy cần có sự kết hợp nhiều phương pháp, phụ thuộc vào từng tình huống

giảng dạy cụ thể nhằm giúp học sinh nắm vững bài học, phát triển tư duy; đồng
thời vừa bồi dưỡng những tư tưởng, tình cảm cao quý cho học sinh. Nếu có sự đầu
tư đúng mực, bài giảng sẽ đạt được hiệu quả.
Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, người viết chỉ nêu một vài kinh nghiệm mà bản
thân tích lũy trong quá trình giảng dạy. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của
quý Thầy, Cô.
Chân thành cảm ơn!
NGƯỜI THỰC HIỆN

Ngô Xuân Sơn

Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

16


1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Ngữ văn 11(tập 1) - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục, 2009.
Sách giáo viên Ngữ văn 11 (tập 1) - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục, 2009.
Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn 11 – Nguyễn Kim Phong (Chủ

biên), NXB 2007.
Từ điển thuật ngữ Văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(chủ biên) – NXB Đại học Quốc gia, 1999.
Vẻ đẹp của văn nghị luận - Đỗ Ngọc Thống - Văn học và Tuổi trẻ số 4,
2005.
Những lưu ý khi đọc văn nghị luận – Phan Thị Thanh Vân.
Phương pháp dạy tích hợp chùm văn bản nghị luận thời trung đại ở
chương trình Ngữ văn lớp 11 – Phan Quốc Thanh.
Một vài suy nghĩ về việc dạy văn nghị luận – Bùi Thị Vui.
Các nguồn tư liệu về Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ trên các báo điện
tử.

Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh

17


SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Đơn vị: THPT Nguyễn HữuCảnh

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Biên Hòa, ngày 30 tháng 10 năm 2011

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011- 2012
–––––––––––––––––

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI

TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
Họ và tên: NGÔ XUÂN SƠN

Chức vụ: giáo viên.

Đơn vị: THPT Nguyễn Hữu Cảnh.
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục 

- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ Văn 

- Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành 
1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây)


-

Có giải pháp hoàn toàn mới

-

Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có



2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây)
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 


- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:
Tốt 
Khá 
Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
TỔ TRƯỞNG

Nguyễn Thị Mai Lan
Ngô Xuân Sơn – THPT Nguyễn Hữu Cảnh


HIỆU TRƯỞNG

Phan Quang Vinh
18



×