PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế mở cửa hội nhập với kinh tế khu vực và quốc tế tạo ra
những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức đối với phát triển
kinh tế. Chính phủ chủ trương phát triển các loại hình doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm theo hướng đa dạng hình thức sở hữu nhằm thu
hút nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Chủ trương
này đã tạo ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm hiện nay. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông
nghiệp (ABIC) ra đời và phát triển trong hoàn cảnh đó có nhiều
thuận lợi nhưng đồng thời sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.
Vấn đề cấp bách đặt ra cho Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng
Nông nghiệp là làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh trong
điều kiện thị trường có sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước
ngoài và các công ty bảo hiểm đa quốc gia. Một trong các giải pháp
đó chính là nâng cao quả kinh doanh, thúc đẩy phát triển thị trường.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, là một chỉ tiêu
chất lượng tổng hợp. Đánh giá hiệu quả kinh doanh chính là quá
trình so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu về với mục đích đó
được đặt ra và dựa trên cơ sở giải quyết các vấn đề cơ bản của nền
kinh tế như kinh doanh sản phẩm gì, kinh doanh như thế nào… Do
đó việc nghiên cứu và xem xét vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh
là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp trong quá trỡnh kinh
doanh hiện nay. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đang là một bài
toán khó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp đều phải quan tâm đến, đây là
một vấn đề có ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có độ nhạy
bén, linh hoạt cao trong qúa trình kinh doanh của mình. Là cán bộ
đang công tác tại ABIC, nhận thức được vấn đề nêu trên tôi đã chọn
đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty Cổ phần Bảo
hiểm Ngân hàng Nông nghiệp”.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
- Khái quát được những vấn đề lý luận liên quan đến bảo hiểm
và hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Làm rõ thực trạng hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần
Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp.
- Trên cơ sở hệ thống hoá phân tích lý luận và nghiên cứu khảo
sát thực tế, Luận văn sẽ đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
hiệu quả kinh doanh trong bảo hiểm phi nhân thọ.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề trên
tại ABIC thời gian khảo sát nghiên cứu từ năm 2007 đến năm 2009
và định hướng cho thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng kết
hợp với duy vật lịch sử, đồng thời áp dụng biện pháp phân tích so
sánh trong quá trình nghiên cứu phân tích để đạt được kết quả tốt
nhất.
5. Những đóng góp khoa học của đề tài.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về kinh doanh bảo hiểm,
thị trường bảo hiểm, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ.
- Qua nghiên cứu rút đánh giá được thực trạng hoạt động kinh
doanh, khả năng cạnh tranh của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân
hàng nông nghiệp nhằm phát hiện những điểm yếu và nguyên nhân
tồn tại.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tăng hiệu quả kinh
doanh bảo hiểm của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng nông
nghiệp.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được trình bày trong ba chương:
- Chương 1: Tổng quan về bảo hiểm phi nhân thọ và hiệu quả
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm tại
Công ty Cổ phần bảo hiểm ngân hàng Nông nghiệp.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công
ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1.1. Khái niệm, vai trò và các loại hình Bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh
nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì
người ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác. Ý tưởng về bảo
hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi mà người xưa đã nhận
ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ chung phòng
khi mất mùa, chiến tranh... Vì vậy, ngay từ xa xưa, con người đã có
ý thức về những bất trắc có thể xảy đến với mình, và tìm cách phòng
tránh chúng.
Để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể
đưa ra định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của
người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất
mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với
điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo
hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”.
Sự khác nhau trong các quan niệm xuất phát từ việc nhìn nhận
BH ở các góc độ và cách thức tiếp cận khác nhau. BH là một lĩnh
vực rộng và phức tạp hàm chứa yếu tố kinh doanh, pháp lý và kỹ
thuật nghiệp vụ đặc trưng nên rất khó tìm được một định nghĩa hoàn
hào thể hiện được tất cả những khía cạnh đó. Điều có thể chấp nhận
được là xây dựng một khái niệm từ góc độ và cách thức tiếp cận hữu
ích cho mục đích nghiên cứu. Theo cách hiểu chung nhất, BH là một
phương thức chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở quy luật số
đông, theo đó một bên (người tham gia BH) nộp một khoản tiền nhất
định (được gọi là phí BH) cho bên kia (DNBH) để đổi lấy lời hứa
rằng khi rủi ro, sự kiện BH xảy ra, DNBH sẽ bồi thường hoặc trả
tiền BH cho NĐBH hoặc người thụ hưởng BH.
1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là gớp phần ổn định cuộc sống
và sản xuất cho những người tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát
triển kinh tế và xã hội của đất nước. Chính vì vậy, bản chất của bảo
hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những
người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát
sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm.
tuy nhiên, phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều
và phần lớn không mang tính bồi hoàn trực tiếp.
Ngoài ra, bản chất của bảo hiểm còn được thể hiện ở các khía
cạnh cụ thể như sau:
- Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm
- Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực hiện
giữa các bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam
kết bảo hiểm. Theo cơ chế này, bên tham gia phải nộp phí bảo hiểm
và bên bảo hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm khi
đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự
kiện bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải
được thực hiện trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược
lại, khỏa tiền bên bảo hiểm trả cho bên tham gia hay người thứ ba
chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra gây ra
tổn thất.
- Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên
bảo hiểm tính toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình
hình tổn thất, cũng như quỹ bảo hiểm mà họ thiết lập được dựa trên
nguyên tắc số đông bù số ít.
- Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải
là hoạt động sản xuất. Chính vì vậy, lợi ích của các bên được luật
hóa rất cụ thể và vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực này rất
quan trọng.
1.1.1.3. Vai trò của bảo hiểm
Vì vậy, bảo hiểm có vai trò quan trọng trong cuộc sống
của con người. Tham gia bảo hiểm sẽ mang lại những lợi ích cho
người tham gia như sau:
- Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp,
bồi thường những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc
phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi
phục đời sống và sản xuất kinh doanh…
- Nhờ có bảo hiểm những người tham gia đóng góp một số phí
tạo thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thường còn
là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế…
- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thương mại còn đóng góp tích
luỹ cho ngân sách…
- Bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các
biện pháp để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế
hậu quả thiệt hại.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức;
giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh
doanh; bảo hiểm thể hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu
sắc.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế
giữa các nước, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v..
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất
định, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo
thống kê, bảo hiểm các nước thu hút 1% lực lượng lao động xã hội).
1.1.1.4. Phân loại trong bảo hiểm thương mại: bảo hiểm Bảo hiểm
phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ - hai lĩnh vực hoạt động kinh
doanh bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm được ghi nhận với tư cách là một hoạt
động kinh doanh do các doanh nghiệp bảo hiểm chuyên nghiệp tiến
hành. Trong kinh tế thị trường, bảo hiểm được coi là một biện pháp
hữu hiệu mà mỗi cá nhân, mỗi gia đình và mỗi doar nh nghiệp sử
dụng để đối phó với rủi ro của mình.
Bảo hiểm gồm hai lĩnh vực hoạt động lớn là bảo hiểm nhân thọ
và bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảo hiểm nhân thọ là loại bảo hiểm dài hạn liên quan đến tuổi
thọ của con người. Sự sống và cái chết của con người là sự kiện chủ
yếu được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nói cách
khác, trong bảo hiểm nhân thọ, thông thường người bảo hiểm phải
trả tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị chết hoặc còn sống
đến một thời điểm chỉ rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Có ba dạng hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ chủ yếu, đó là: bảo hiểm nhân thọ trong
trường hợp tử vong; Bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp sống và
bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Khác với bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ là loại bảo
hiểm ngắn hạn. Đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm phi
nhân thọ bao gồm các loại tài sản, trách nhiệm dân sự. Bảo hiểm phi
nhân thọ là một lĩnh vực bảo hiểm có phạm vi rất rộng. Nó bao gồm
tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự
và một phần bảo hiểm con người. Như vậy, đối tượng của bảo hiểm
phi nhân thọ đa dạng, phong phú hơn rất nhiều.
Sự phân chia hoạt động bảo hiểm thành hai lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ có ý nghĩa quan trọng cả trong lý
luận và thực tiễn. Sở dĩ như vậy là bởi sự khác biệt giữa hai lĩnh vực
này không những chi phối quá trình nghiên cứu, ban hành các luật
lệ, qui tắc, qui định mà còn chi phối cả quá trình tổ chức, quản lý,
kiểm tra, giám sát hoạt động bảo hiểm trong thực tiễn.
* Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ cơ bản
Nghiệp vụ BH được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ
theo mục đích của các nhà lập pháp và DNBH. Tuy nhiên, liên quan
đến những vấn đề kế toán, các nghiệp vụ BH được phân loại theo
các tiêu thức sau đây:
a. Phân loại theo đối tượng BH
Theo tiêu thức này, chia thành ba nhóm: BH tài sản (BHTS),
BH trách nhiệm dân sự (BHTNDS), BH con người PNT (BHCN).
- BH tài sản: Đây là loại hình BH mà đối tượng được BH là tài
sản (cố định hay lưu động) của người được BH. Ví dụ: BH cho thiệt
hại vật chất xe cơ giới, BH hàng hoá của các chủ hàng trong BH
hàng hoá xuất nhập khẩu, BH tài sản của chủ nhà trong BH trộm
cắp. Giá trị BH là giá trị thực tế của tài sản tham gia BH, nó là căn
cứ quan trọng để tính phí BH và giới hạn thanh toán tiền bồi thường
BH.
- BH trách nhiệm dân sự: có đối tượng được BH là trách nhiệm
dân sự của người được BH đối với người thứ ba theo luật dịnh. Ví
dụ: BH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, BH trách nhiệm dân
sự của chủ lao động, BH trách nhiệm công cộng..,khác với BH tài
sản và BH con người, đối tượng của BH mang tính trìu tượng. BH
trách nhiệm dân sự áp dụng một số nguyên tắc như: nguyên tắc bồi
thường, nguyên tắc thế quyền hợp pháp.
- BH con người PNT: là loại hình BH có đối tượng BH là sinh
mạng, sức khoẻ, khả năng lao động của con người nhưng khác với
BH con người nhân thọ, BH con người PNT là loại hình BH chỉ liên
quan đến rủi ro như: bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và kể
cả tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ
của con người. Ví dụ: BH tai nạn 24/24, BH tai nạn hành khách, BH
khách du lịch..,nguyên tắc khoán được áp dụng chủ yếu khi thanh
toán tiền BH (tức là về nguyên tắc, số tiền chi trả BH sẽ dựa vào quy
định chủ quan của hợp đồng và số tiền BH được thoả thuận khi ký
kết hợp đồng chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Tuy nhiên, có thể
áp dụng kết hợp với nguyên tắc bồi thường khi thanh toán các chi
phí y tế phát sinh nằm trong phạm vi được BH của các hợp đồng BH
con người.
b. Phân loại theo tính chất bắt buộc
Theo tiêu thức này bao gồm: BH PNT bắt buộc và BH PNT tự
nguyện.
- BH PNT bắt buộc: là những loại BH mà pháp luật có quy
định về nghĩa vụ tham gia BH của các tổ chức, cá nhân có mối quan
hệ nhất định với loại đối tượng bắt buộc phải được BH. Thông
thường, đối với loại hình BH bắt buộc, pháp luật sẽ quy định về điều
kiện BH, mức phí BH, số tiền tối thiểu mà các tổ chức, cá nhân tham
gia BH và DNBH có nghĩa vụ thực hiện.
BH bắt buộc chỉ áp dụng với một số loại BH nhằm mục
đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Tuy nhiên, tính bắt
buộc không làm mất đi nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quan
hệ hợp đồng khi các bên tự nguyện lựa chọn đối tác và thoả thuận
những vấn đề không phải tuân theo quy định thống nhất của pháp
luật.
- BH PNT tự nguyện: là loại hình BH mà người tham gia
BH có toàn quyền lựa chọn theo nhu cầu và ý muốn của bản thân,
hợp đồng BH được ký kết trên cơ sở tự nguyện giữa người BH và
người tham gia BH.
1.1.1.5. Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm
Thứ nhất, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, không tồn
tại dưới dạng vật thể, là sự đảm bảo về mặt vật chất trước những rủi
ro cho khách hàng được bảo hiểm đi kèm theo là các dịch vụ hỗ trợ
liên quan. Tại thời điểm giao dịch, sản phẩm chủ yếu mà doanh
nghiệp bảo hiểm cung cấp ra thị trường chỉ là những lời hứa, những
lời cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm. Trong trường hợp đó, người mua buộc phải tin vào những
lời cam kết, lời hứa của người bán - doanh nghiệp bảo hiểm. Thông
thường tâm lý không ai mong muốn rủi ro, sự cố xảy ra với bản
thân, tổ chức để được nhận bồi thường hay trả tiền bảo hiểm.
Thứ hai, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi, là
có “hiệu quả xê dịch”. Khách hàng không nhận được lợi ích tức thì
của sản phẩm. Thông thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, nhà
bảo hiểm thực hiện bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. Từ thời
điểm mua bảo hiểm đến thời điểm thực sự nhận được giá trị sử dụng
theo hợp đồng bảo hiểm đã ký kết có khoảng cách khá dài.Vì vậy,
người mua bảo hiểm không “mong đợi” sản phẩm bảo hiểm, bởi vì
rủi ro khi đã xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại thậm chí
là mất mát, do đó số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, chi
trả khó có thể bù đắp được.
Thứ ba, sự đảo ngược chu trình sản xuất kinh doanh trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Phí bảo hiểm - tiền bán sản phẩm bảo
hiểm được thu trước, cam kết của người bán bảo hiểm được thực
hiện sau. Do vậy, không thể xác định trước một cách chính xác hiệu
quả bán sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Mặt khác, phí bảo hiểm -
giá cả của sản phẩm bảo hiểm không tính toán trên cơ sở chi phí mà
nhà bảo hiểm đã bỏ ra để cấu tạo nên sản phẩm mà xác định trên cơ
sở tính toán tần suất tổn thất chi phí trung bình trên một tổn thất.
Trong khi đó những thông số này tính toán dựa vào thống kê rủi ro
vì thế có thể định giá không hợp lý và thiếu chính xác vì định giá
theo tổn thất đã phát sinh trong quá khứ nhưng lại dùng để thanh
toán cho những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai. Trường hợp
phí ấn định quá cao, người được bảo hiểm không được đảm bảo
quyền lợi đặc biệt đối với những nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc.
Ngược lại nếu phí quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của nhà bảo hiểm trong việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường và chi trả
tiền bảo hiểm.
Thứ tư, sản phẩm bảo hiểm dễ sao chép, bắt chước. Một hợp
đồng bảo hiểm dù là bản gốc cũng không được cấp bằng phát minh,
sáng chế và không được bảo hộ độc quyền. Do đó đối thủ cạnh tranh
có thể bán một cách hợp pháp những bản hợp đồng sao chép.
Thứ năm, sản phẩm bảo hiểm khó xác định hiệu quả kinh
doanh trong từng chu kỳ (bán-mua-bồi thường) Người bán sản phẩm
bảo hiểm thu được phí bảo hiểm từ người mua nhưng người bán có
thể bồi thường cũng có thể không, có thể bồi thường ngay sau khi
bán cũng có thể sau thời gian dài. Vì vậy có thể nói rất khó xác định
hiệu quả kinh doanh trong thời kỳ nhất định (thường là một năm)
1.1.2. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.2.1. Khái niệm và các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo quy định của Luật Kinh doanh Bảo hiểm và
các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo
hiểm.
DNBH là một loại doanh nghiệp dịch vụ; hoạt động của nó
cũng nhằm mục đính sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa doanh
nghiệp bảo hiểm với các doanh nghiệp khác là ở chỗ: Doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm; nó có trách
nhiệm trả tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nếu người mua bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm cho doanh nghiệp.
DNBH PNT là tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm mục đích
sinh lời theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của người được BH, trên cơ
sở bên mua đóng phí BH để DNBH trả tiền bồi thường cho người
được BH hoặc người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện BH.
1.1.2.2. Đặc điểm chung về kinh doanh của doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ
Thứ nhất, là doanh nghiệp vừa kinh doanh bảo hiểm vừa quản
lý quỹ đầu tư vốn, trong đó kinh doanh BH bao gồm 3 loại hoạt
động là BH gốc, nhận tái BH và nhượng tái BH.
- Kinh doanh bảo hiểm gốc: Là hoạt động trực tiếp tạo ra
doanh thu cho doanh nghiệp. Đó là việc doanh nghiệp cung cấp các
dịch vụ BH trực tiếp cho các tổ chức, cá nhân tham gia BH. Là hoạt
động cơ bản, là cơ sở cho sự tồn tại của DNBH. Đây là một quá
trình liên hoàn từ khâu cấp đơn hoặc ký hợp đồng với người tham
gia BH, thu phí BH, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng BH, giám
định tổn thất và giải quyết bồi thường BH.
Kết quả từ hoạt động kinh doanh BH gốc là cơ sở, là nền tảng
để công ty có đủ tiềm lực khuyếch trương hoạt động và tăng cường
hoạt động đầu tư nhằm mang lại lợi nhuận và sự phát triển bền
vững.
- Kinh doanh nhận tái bảo hiểm: Là việc doanh nghiệp BH, DN
tái BH nhận một phần hay toàn bộ rủi ro của doanh nghiệp BH
khác.Đứng trên góc độ kinh doanh BH thì hoạt động nhận tái BH
như là một hình thức bán BH. Sau khi nhận tái BH, người nhận tái
BH có thể nhượng tái BH cho những người nhận tái BH khác.
Mục đích của hoạt động nhận tái BH là để tăng thêm nguồn thu
phí BH cho doanh nghiêp. Ngoài ra, mục đích lớn hơn của hoạt
động nhận tái BH là việc chia sẻ rủi ro giữa các DNBH. Trong mối
quan hệ đan xen với nhau trên thị trường, một DNBH khi thì đứng ở
vị trí người nhận lại rủi ro nhưng có khi lại ở vị trí là người chia sẻ
rủi ro.
- Kinh doanh nhượng tái bảo hiểm: Là việc doanh nghiệp BH,
doanh nghiệp tái BH chuyển một phần hay toàn bộ rủi ro đã nhận
BH cho doanh nghiệp BH khác. Đối với các công ty BH việc đảm
bảo an toàn trong kinh doanh BH luôn được đặt lên hàng đầu và để
thực hiện được điều đó, một công ty BH cũng phải tìm cách tự BH
cho chính bản thân mình thông qua việc nhượng tái BH. Nhượng tái
BH là việc một công ty BH chuyển một phần trách nhiệm BH đã
cam kết với khách hàng (người được BH) của mình cho một hoặc
nhiều công ty khác.
Do nguồn vốn của một DNBH luôn là một số hữu hạn. Tuy
nhiên, với hoạt động kinh doanh BH gốc, tại cùng một thời điểm,
trách nhiệm của DNBH đã cam kết với khách hàng lại là rất lớn.
Trong trường hợp có tổn thất mang tính thảm hoạ thì nguy cơ mất
khả năng thanh toán của DN hoàn toàn có thể xảy ra. Điều này trước
hết dẫn đến phá sản DNBH và sau đó là đẩy khách hàng, những
người đã tham gia BH tại DN đến nguy cơ không khắc phục được
hậu quả tổn thất. Vì vậy, hoạt động nhượng tái BH giúp công ty BH
có được tình hình tài chính lành mạnh, an toàn; giúp người tham gia
BH yên tâm về khả năng chi trả bồi thường của DNBH; giúp DNBH
chủ động tính toán được giới hạn trách nhiệm tài chính tối đa tại một
thời điểm nhất định bất kỳ; giúp chia sẻ rủi ro trong cộng đồng.., từ
đó tạo cho công ty BH một năng lực cạnh tranh tốt nhất để phát triển
hoạt động kinh doanh BH gốc của mình.
Thứ hai, luôn đối mặt với rủi ro.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận
rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm. Do đó doanh nghiệp bảo hiểm luôn đối mặt với các
rủi ro khách quan có thể xẩy đến bất cứ lúc nào. Vì vậy doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ còn tiến hành hoạt động:
- Đề phòng và hạn chế rủi ro tổn thất là một trong những nội
dung rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Làm tốt
công tác này không chỉ giúp DNBH giảm chi bồi thường để nâng
cao hiệu quả kinh doanh, mà còn tạo thêm niềm tin đối với khách
hàng tham gia bảo hiểm, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Giám định tổn thất là khâu trung gian có vai trò hết sức quan
trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nó là cơ sở để DNBH
tiến hành bồi thường. Việc bồi thường có được tiến hành nhanh
chóng, chính xác và hợp lý hay không chủ yếu phụ thuộc vào công
tác giám định. Hoạt động giám định và bồi thường là một trong
những tiêu chí đánh giá chất lượng sản phẩm bảo hiểm và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động này nếu thực hiện tốt sẽ trực tiếp
góp phần nâng cao uy tín cho DNBH và từ đó giúp DNBH thực hiện
cạnh tranh và mở rộng thị trường...
Ngoài ra các DNBH phi nhân thọ còn thực hiện một số hoạt
động khác theo quy định của pháp luật, như đào tạo và tư vấn; xây
dựng các phương án quản lý rủi ro cho khách hàng; tổ chức các hoạt
động dịch vụ khác có liên quan v.v....
Khác với các DN SXKD, đối với DNBH, chi phí trực tiếp
KDBH là không xác định được trước. Chi phí trong kỳ tăng, giảm
tuỳ thuộc vào các rủi ro của hợp đồng BH. Nếu xảy ra rủi ro nhiều,
DN bồi thường nhiều nhưng không quá giới hạn trách nhiệm đã thoả
thuận trong hợp đồng BH và ngược lại. Vì vậy, chi phí trực tiếp
KDBH không ổn định vì rủi ro trong BH mang tính ngẫu nhiên và
trách nhiệm của DNBH kéo dài cho đến khi hợp đồng BH hết hiệu
lực. DNBH không biết chính xác vào thời gian nào rủi ro sẽ xảy ra
và mức độ tổn thất là bao nhiêu. Mặt khác, do các yếu tố chi phí
không ổn định và không biết trước nên giá thành dịch vụ BH có thể
khác nhau tuỳ thuộc vào rủi ro BH. Từ đó DNBH khó chủ động
giảm giá thành một cách chính xác, sự cạnh tranh giữa các DNBH
chủ yếu là ở chất lượng phục vụ, uy tín của DN.
Kết quả hoạt động kinh doanh là số tiền chênh lệch giữa doanh
thu, thu nhập trong kỳ với các khoản chi phí tương ứng với số doanh
thu, thu nhập đó. Hay nói cách khác, kết quả hoạt động kinh doanh
số chênh lệch giữa doanh thu thuần với chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp, và kết quả hoạt động tài chính, kết quả hoạt
động khác. Cụ thể kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
bảo hiểm bao gồm:
- Kết quả của hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc và tái bảo
hiểm.
- Kết quả của hoạt động tài chính.
- Kết quả hoạt động khác.
Kết quả hoạt động kinh doanh được xác định như sau:
Kết quả hoạt
động kinh
doanh bảo
hiểm gốc
=
Doanh
thu phí
bảo
hiểm
gốc
Các
- khoả
n
giả
m
trừ
-
Chi
phí
trực
tiếp
KD
BHG
-
Chi
phí
trực
tiếp
KD
TBH
-
Chi phí
bán hàng,
chi phí
quản lý
doanh
nghiệp
-
Chi phí
bấn hàng,
chi phí
quản lý
doanh
nghiệp
Kết quả hoạt
động kinh
=
doanh tái bảo
hiểm
Các
Hoa
- khoả
hồng
n
nhượng
giả
tái bảo
m
hiểm
trừ
Kết quả hoạt
động kinh doanh
bảo hiểm
Kết quả hoạt động
=
kinh doanh bảo
+
hiểm gốc
Kết quả hoạt động
kinh doanh tái bảo
hiểm
Thu nhập hoạt
động tài chính
Chi phí hoạt động
tài chính
Kết quả hoạt
động tài chính
=
-
Kết quả hoạt
Thu nhập hoạt
Chi phí hoạt động
=
động khác
động khác
khác
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH BẢO
HIỂM
1.2.1. Khái niệm, bản chất hiệu quả kinh doanh bảo hiểm
1.2.1.1. Quan điểm, Khái niệm cơ bản về hiệu quả kinh doanh bảo
hiểm
Ngày nay, ở mỗi lĩnh vực khác nhau thì người ta có những khái
niệm khác nhau về hiệu quả, và thông thường khi nói đến hiệu quả
của một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó
liền ngay sau hiệu quả. Tương ứng với các lĩnh vực kinh tế, chính trị
và xã hội là 2 phạm trù hiệu quả: Hiệu quả kinh tế và Hiệu quả chính
trị và hiệu quả xã hội.
* Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt
được các mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Nếu đứng trên
phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh
tế, và xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các doanh nghiệp thì
hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp.
Hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết
quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Trong đó kết
quả thu về chỉ là kết quả phản ảnh những kết quả kinh tế tổng hợp
như là: doanh thu, lợi nhuận,... nếu ta xét theo từng yếu tố riêng lẻ
thì hiệu quả kinh tế là thể hiện trình độ và sử dụng các yếu tố đó
trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó phản ánh kết quả kinh tế thu
được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào quá trình kinh doanh.
Nhìn ở từng doanh nghiệp riêng lẻ hiệu quả kinh tế được biểu hiện
qua phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ
tiêu phản ánh đầy đủ các mặt của cả một quá trình kinh doanh của
một doanh nghiệp. Cụ thể là:
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt
được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so
sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp. Ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ
tiêu phản ánh trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt
được trong các trường hợp:
- Kết quả tăng, chi phí giảm
- Kết quả tăng, chi phí giảm nhưng tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn
tốc độ tăng của kết quả.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt
kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay là phải đạt kết quả tối đa với
chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối
thiểu.
* Hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định.
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu
quả xã hội và hiệu quả chính trị là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của
hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục
tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Bởi vậy hai loại hiệu quả
này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển đầu nước một cách
toàn diện và bền vững. Đây là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển
của nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ
quản lý, mức sống bình quân... thực tế ở các nước tư bản chủ nghĩa
đã cho thấy các doanh nghiệp tư bản chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế
mà không đặt vấn đề hiệu quả chính trị xã hội đi kèm và dẫn đến
tình trạng: thất nghiệp, khủng hoảng có tính chu kỳ, ô nhiễm môi
trường, chênh lệch giàu nghèo quá lớn...
1.2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
kinh doanh (lao động, máy móc thiết bị, nguyên liệu, tiền vốn) trong
quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất, hoạt động kinh doanh
cuả doanh nghiệp. Bản chất của hiệu quả kinh doanh là nâng cao
năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai
mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh doanh. Chính
việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh
tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hôị, đặt ra yêu
cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để
đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú
trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu lực của các yếu
tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải
đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay là phải đạt kết quả tối đa
với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi
phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo
ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm
cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là chi phí của sự lựa chọn tốt nhất
đã bị bỏ qua, hay là chi phí của sự hy sinh công việc kinh doanh
khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải
được bổ sung vào chi phí kế toán và phải loại ra khỏi lợi nhuận kế
toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực. Cách tính như vậy sẽ khuyến
khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất
có hiệu quả hơn.
1.2.1.2. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ
Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm
là thước đo sự phát triển của DNBH, nó phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực, các nguồn chi phí của doanh nghiệp trong việc tạo ra
những kết quả kinh doanh nhất định nhằm đạt được các mục tiêu
kinh tế và xã hội mà DNBH phi nhân thọ đã đề ra.
Với tư cách là thước đo sự phát triển và trình độ phát triển, hiệu
quả kinh doanh phải thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - xã hội
khác nhau. Nhưng vấn đề cần lưu ý ở đây là không phải tất cả các
chỉ tiêu kinh tế, xã hội có liên quan đều là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả chỉ có thể được xác định bằng tỷ lệ so sánh
giữa kết quả với chi phí. Nếu lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh
doanh so với một chỉ tiêu phản ánh chi phí sẽ được một chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả.
Việc phản ánh tình hình sử dụng các loại chi phí trong việc tạo
ra những kết quả kinh doanh là nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế
nói chung và hiệu quả kinh doanh bảo hiểm nói riêng. Nội dung này
được phản ánh bởi nhiều chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu hiệu quả biểu thị một
mặt, một yếu tố hay một loại chi phí nào đó trong quá trình sử dụng.
Các chỉ tiêu này lại mang tính tương đối, tức là nó phản ánh mức độ
đạt được để từ đó so sánh với năm trước hoặc những năm trước nữa
xem nó tăng, giảm và biến đổi thế nào. Xu hướng biến động nhanh
hay chậm cho thấy sự tốt lên hay xấu đi trong quá trình sử dụng chi
phí hoặc các nguồn lực.
Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm gắn liền với những mục tiêu mà
doanh nghiệp bảo hiểm đặt ra, gồm cả những mục tiêu kinh tế và
mục tiêu xã hội. Nguyên tắc ‘ lấy số đông bù số ít’ trong kinh doanh
bảo hiểm càng làm cho tính chất xã hội hóa của bảo hiểm rõ nét hơn.
Do đó hiệu quả xã hội của DNBH cũng phải được phản ánh ở trình
đọ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả phục vụ xã hội
của doanh nghiêp.
Nội dung hoạt động kinh doanh chủ yếu của mọi doanh nghiệp
bảo hiểm là kinh doanh bảo hiểm (gồm kinh doanh bảo hiểm gốc và
kinh doanh tái bảo hiểm) và đầu tư vốn. Do đó ngoài những chỉ tiêu