Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Quản lý các dự án đầu tư xây dựng cảng biển của tổng công ty hàng hải việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.3 KB, 144 trang )

1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Dự án là một tập hợp các hoạt động cần thiết để tác động vào
các nguồn lực hữu hạn, nhằm đạt được một mục tiêu xác định. Để
quản lý các hoạt động này nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, từ lâu
trên thế giới đã nghiên cứu một môn khoa học đó là khoa học “Quản
lý dự án”. Bản chất của Quản lý dự án nằm trong việc áp dụng các
thành tựu trong nghiên cứu và kinh nghiệm trong thực tiễn để tổ
chức, điều phối các nguồn lực hữu hạn một cách có hiệu quả nhất,
trong một giới hạn nhất định về không gian và thời gian nhằm đạt
được các mục tiêu của dự án đã được xác định. Trong các dự án
thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, Dự án đầu tư là
loại hình dự án được xã hội quan tâm nhiều nhất, đặc biệt là trong
xã hội theo cơ chế thị trường là mô hình xã hội phổ biến trên thế
giới hiện nay. Thuật ngữ “Dự án đầu tư” là một thuật ngữ đã được
sử dụng từ lâu, ngoài ra có thêm thuật ngữ “Dự án đầu tư xây dựng
công trình” mới được sử dụng trong các văn bản pháp quy của Việt
Nam trong mấy năm gần đây, là để chỉ các dự án đầu tư có xây
dựng công trình.
Kinh tế biển có vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh
tế xã hội, quan điểm chỉ đạo được nêu trong phần định hướng Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020 là "nước ta phải trở thành quốc
gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm
năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu


2

phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu


quả cao với tầm nhìn dài hạn". Trong lĩnh vực kinh tế biển, ngành
hàng hải giữ vai trò rất quan trọng là cầu nối về giao thông hàng hải
nội địa và giữa nước ta với các nước trong khu vực cũng như trên
thế giới, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế
cững như hoạt động thương mại của Việt Nam. Để ngành hàng hải
phát triển ngoài các yếu tố về đội tàu, hoạt động logistics cần phải
có hệ thống hạ tầng cảng biển phát triển thông qua việc thực hiện
các dự án đầu tư xây dựng cảng biển đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của hoạt động vận tải bằng đường biển.
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam là một tổng công ty lớn của
nhà nước được thành lập năm 1995 đang phấn đấu trở thành tập
đoàn hàn hàng hải của quốc gia hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
hàng hải. Hiện nay, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đang quản lý
một hệ thống lớn các cảng biển trong số các cảng biển của nước ta
và không ngừng tiếp tục tiến hành các dự án đầu tư xây dựng, mở
rộng thêm hệ thống cảng biển. Từ năm 2007, tại Công ty mẹ Tổng
công ty Hàng hải Việt Nam (Công ty mẹ) bắt đầu tiến hành nhiều
dự án đầu tư xây dựng công trình cảng biển có vốn đầu tư lớn. Đây
là lần đầu tiên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam trực tiếp đứng ra
làm Chủ đầu tư các dự án đầu tư xây dựng công trình cảng biển lớn,
đánh dấu sự trưởng thành lớn mạnh của Tổng công ty kể từ khi
thành lập năm 1995. Khi các dự án này hoàn thành và đưa vào khai
thác, sử dụng sẽ bổ sung thêm vào hệ thống cảng biển Việt Nam
nhiều bến cảng mới phục vụ hoạt động khai thác vận tải biển, điều


3

này có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về phát triển năng lực hạ tầng
cho ngành vận tải biển đồng thời góp phần làm Tổng công ty Hàng

hải Việt nam lớn mạnh hơn.
Tuy nhiên, do các dự án có tính chất, quy mô khá phức tạp,
vốn đầu tư lón và Tổng công ty lần đầu triển khai các dự án lớn nên
không tránh khỏi nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp không lường trước
được. Vấn đề quản lý tốt các dự án này luôn đặt ra cho phía Tổng
công ty Hàng hải Việt Nam phải tìm ra các phương pháp, hình thức
quản lý dự án tốt nhất, hoàn thiện nhất. Mục tiêu quản lý các dự án
nói chung và quản lý các dự án đầu tư xây dựng cảng biển đảm bảo
được chất lượng, tiến độ, hiệu quả, tránh được thất thoát lãng phí,
hiện tượng tham nhũng từ các dự án đang là vấn đề cấp thiết ở nước
ta hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu quản lý các nêu trên tác giả quyết
định chọn đề tài “Quản lý các dự án đầu tư xây dựng cảng biển
của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc
sỹ.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình hiện nay là
vấn đề quan tâm của nhiều chủ thể tham gia và ảnh hưởng tới quá
trình Quản trị dự án đầu tư như: các doanh nghiệp với vai trò là Chủ
đầu tư, nhà nước, các ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng, các
tổ chức tư vấn.... Nghiên cứu về công tác Quản lý dự án đầu tư đã
có các công trình nghiên cứu và lý luận theo nhiều chủ đề cũng như
các quá trình hoạt động Quản lý dự án đầu tư. Một số nghiên cứu về


4

công tác quản lý dự án đã có từ nguồn Thư viện của trường và trên
mạng internet, nội dung các nghiên cứu đã thực hiện như sau:
- Hoàng Đỗ Quyên (2008), Luận văn thạc sỹ kinh tế (Đại học
Kinh tế quốc dân), “Hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư tại

Ban quản lý dự án Công trình điện Miền Bắc” Đề tài đề cập đến
việc hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư tại Ban quản lý dự án
Công trình điện Miền Bắc, đưa ra những lý luận cơ bản về quản lý
dự án, phân tích thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác quản lý dự án tại Ban quản lý dự án Công trình điện
Miền Bắc. Đề tài tập trung chủ yếu vào việc công tác quản lý dự án
trong giai đoạn thực hiện dự án tại các dự án thuộc phạm vi quản lý
của Ban quản lý dự án.
- Trần Thị Hồng Vân (2005), Luận văn thạc sỹ kinh tế (Đại
học Kinh tế quốc dân), “Hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư
của Đài tiếng nói Việt Nam” Đề tài đề cập đến việc hoàn thiện công
tác quản lý dự án đầu tư của đài tiếng nói Việt Nam, đã đưa ra các
cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp hoàn thiện về công tác quản lý
dự án tại Đài tiếng nói Việt Nam. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
của đề tài là về công tác quản lý dự án đầu tư tại một đơn vị sử dụng
vốn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực thông tin - truyền thông. Đề
tài tập trung chủ yếu vào việc phân tích công tác quản lý dự án trong
giai đoạn thực hiện dự án tại các nhóm dự án do các đơn vị trực
thuộc của Đài tiếng nói Việt Nam làm CĐT. Đề tài chưa đi sâu
nghiên cứu vào các hoạt động quản lý dự án của các bộ phận tham


5

mưu, thẩm định của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Các đề tài trên đã nghiên cứu tương đối cơ bản về công tác
quản lý dự án nói chung tuy nhiên so sánh với thực trạng công tác
quản lý dự án tại Công ty mẹ Tổng công ty Hàng hải Việt Nam còn
có nhiều khác biệt do Tổng công ty mới bước đầu thực hiện các dự
án đầu tư xây dựng lớn, mô hình tổ chức bộ máy quản lý dự án chưa

hoàn chỉnh, phương pháp vận hành, quy trình thực hiện , phân cấp
quản lý dự án còn nhiều bất cập. Nghiên cứu của tác giả sẽ không
trùng lắp với các công trình đã công bố ở trên. Trong quá trình thực
hiện tác giả đã kế thừa, học tập những ưu việt của các công trình
nghiên cứu trước đó, so sánh phân tích thực trạng và đưa ra giải
pháp hoàn thiện công tác quản lý dự án tại Tổng công ty Hàng hải
Việt Nam để hoàn thành luận án của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ cơ sở lý thuyết về
quản lý dự án đầu tư và từ phân tích thực trạng tình hình quản lý các
dự án đầu tư tại Tổng công ty, đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện những điểm yếu, còn tồn tại và nâng cao hiệu quả công
tác quản lý dự án đầu tư tại Công ty mẹ - Tổng công ty Hàng hải
Việt Nam.
Việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác quản lý dự án
được luận văn nghiên cứu, đề xuất không chỉ ở công tác quản lý tại
cơ quan Tổng công ty, mà còn tại Ban quản lý dự án, đồng thời đề
xuất phương hướng phát triển của Ban quản lý dự án sau khi hoàn


6

thành nhiệm vụ, đây cũng là một vấn đề cần giải quyết đối với hầu
hết các Ban quản lý dự án hiện nay, sau khi kết thúc dự án bàn giao
đưa vào sản xuất thì bộ máy quản lý dự án rất cồng kềnh, đặc biệt là
đối với các dự án lớn, khó bố trí được công việc cho Ban quản lý dự
án này.
4. Đối tương nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn các hoạt động quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình cảng của chủ đầu tư là Tổng công ty

Hàng hải Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu hoạt động
quản lý các dự án đầu tư xây dựng cảng biển do Tổng công ty Hàng
hải Việt Nam làm chủ đầu tư trong giai đoạn 2007-2013, kiến nghị
giải pháp tới năm 2017. Luận văn tập trung nghiên cứu vào các bộ
phận trực tiếp thực hiện công tác quản lý dự án đó là Ban Quản lý
dự án, các phòng, ban tham mưu giúp việc trực tiếp cho Chủ đầu tư
ở giai đoạn thực hiện đầu tư các dự án.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau
đây:
♦ Phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp so sánh, các
phương pháp thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.
♦ Vận dụng các quy định của Nhà nước về quản lý hoạt động
đầu tư và xây dựng theo các văn bản quy phạm ban hành.


7

Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu thứ cấp từ các
tài liệu thống kê, báo cáo các Dự án đầu tư, Hồ sơ, công tác Quản trị
dự án đầu tư Công trình xây dựng hiện thời.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu,
danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung
của luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Mở đầu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình.
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý các dự án đầu tư xây

dựng cảng biển của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác
quản lý các dự án đầu tư xây dựng cảng biển của Tổng công ty
Hàng hải Việt Nam.


8

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của đầu tư xây dựng công trình.
2.1.1.

Khái niệm về đầu tư và đầu tư xây dựng
Theo Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm

2005 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: ”đầu
tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: “Đầu tư là sự bỏ vốn trong một thời
gian dài vào một lĩnh vực nhất định nào đó nhằm thu lợi nhuận cho
nhà đầu tư và thu lợi ích kinh tế xã hội cho đất nước được đầu tư”.
Đầu tư xây dựng là việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng
hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển,
duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ
trong một thời hạn nhất định.
2.1.2.

Vị trí và vai trò của đầu tư xây dựng trong nền kinh tế.

Đầu tư xây dựng có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình

phát triển của bất kỳ hình thức kinh tế nào, nó tạo ra những cơ sở
vật chất kỹ thuật, những nền tảng vững chắc ban đầu cho sự phát
triển của xã hội.
Đầu tư xây dựng cơ bản hình thành các công trình mới với
thiết bị công nghệ hiện đại; tạo ra những cơ sở vật chất hạ tầng ngày


9

càng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và đóng
vai trò quan trọng trên mọi mặt kinh tế; chính trị - xã hội; an ninh quốc phòng.
Đối với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay, quản
lý hiệu quả các dự án xây dựng là cực kỳ quan trọng nhằm tránh gây
ra lãng phí thất thoát những nguồn lực vốn đã rất hạn hẹp.
2.2. Khái niệm dự án đầu tư và dự án đầu tư xây dựng công
trình
2.2.1.

Khái niệm dự án.
Theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu dự án là một lĩnh

vực hoạt động đặt thù, một nhiệm vụ cần phải được thực hiện với
phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch tiến độ
nhằm tạo ra một thực thể mới. Dự án không chỉ là một ý định phác
thảo mà có tính cụ thể và mục tiêu xác định, dự án không phải là
một nghiên cứu trừu tượng mà tạo nên một thực thể mới, là một nỗ
lực có thời hạn nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc dịch vụ duy nhất.
Trên phương diện quản lý, có thể định nghĩa Dự án là những nỗ lực

có thời hạn nhằm tạo ra những sản phẩm/dịch vụ duy nhất. Nỗ lực
có thời hạn có nghĩa là mọi dự án đầu tư đều có điểm bắt đầu và kết
thúc xác định. Một số đặc trưng cơ bản của dự án như sau:
- Dự án có mục đích, kết quả xác định, có chu kỳ phát triển
riêng và có thời gian tồn tại hữu hạn


10

- Sản phẩm của dự án mang tính chất đơn chiếc, độc đáo (mới
lạ), môi trường hoạt động ”va chạm”, tính bất định và độ rủi ro cao.
- Dự án liên quan đến nhiều bên và có sự tương tác phức tạp
giữa các bộ phận quản lý chức năng với quản lý dự án. Để thực hiện
thành công mục tiêu của dự án, các nhà quản lý dự án cần phải duy
trì thường xuyên mối quan hệ với các bộ phận quản lý khác.
Dự án thường bị ràng buộc về nguồn lực vì khi nhắc đến dự
án, người ta nhìn thấy ngay các khoản chi phí: tiền bạc, phương
tiện, dụng cụ, thời gian, trí tuệ… Các nguồn lực này ràng buộc chặt
chẽ với nhau và tạo nên khuôn khổ của dự án. Vì khối lượng chi
phí nguồn lực cho dự án là một thông số then chốt phản ánh mức
độ thành công của dự án đối với những dự án có quy mô lớn. Hầu
hết các dự án có quy mô lớn đều phải trải qua những thời kỳ khó
khăn vì bất kỳ một quyết định nào cũng bị ràng buộc bởi nhiều mối
quan hệ: chủ đầu tư, nhà tư vấn và các nhà thầu bên cạnh các đối
tác cung cấp vốn, nhân lực, vật tư và các tổ hợp công nghệ, kỹ
thuật…
2.2.2.

Khái niệm dự án đầu tư xây dựng công trình
Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo


mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt
được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng
sản phẩm/ dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.
Cùng khái niệm này, Luật đầu tư năm 2005 ghi ”Dự án đầu tư là tập
hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt


11

động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định”.
Theo nghĩa khác, Ngân hàng thế giới cho rằng “Dự án đầu tư là
tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau
được hoạch định nhằm đạt những mục tiêu nào đó trong một thời
gian nhất định”. Nói một cách tổng quát “dự án đầu tư” là một tập
hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở
rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự
tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng
của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Dự án đầu tư xây dựng công trình theo Luật xây dựng được
định nghĩa như sau: “Dự án đầu tư xây dựng công trình là tập hợp
các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng
hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển,
duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm/ dịch vụ
trong một thời gian nhất định”.
2.2.3.

Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng công trình
Dự án đầu tư xây dựng công trình có các đặc điểm riêng như


sau:
- Mỗi dự án đầu tư xây dựng là một đơn vị xây dựng được cấu
thành bởi một hoặc nhiều công trình đơn lẻ có mối liên hệ nội tại,
thực hiện hạch toán thống nhất, quản lý thống nhất trong quá trình
xây dựng trong phạm vi thiết kế sơ bộ.
- Dự án đầu tư xây dựng coi việc hình thành tài sản cố định là
một mục tiêu đặc biệt trong một điều kiện ràng buộc nhất định. Điều


12

kiện ràng buộc thứ nhất là ràng buộc về thời gian, tức là một dự án
xây dựng phải có mục tiêu hợp lý về kỳ hạn của công trình xây
dựng; thứ hai là ràng buộc về nguồn lực, tức là một dự án xây dựng
phải có được mục tiêu nhất định về tổng lượng đầu tư; thứ ba là
ràng buộc về chất lượng, tức là dự án xây dựng phải có mục tiêu xác
định về khả năng sản xuất, trình độ kỹ thuật và hiệu quả sử dụng.
- Các dự án đầu tư xây dựng phải tuân theo một trình tự xây
dựng cần thiết và trải qua một quá trình xây dựng đặc biệt, tức là
mỗi dự án xây dựng là cả một quá trình theo thứ tự từ lúc đưa ra ý
tưởng xây dựng và đề nghị xây dựng đến lúc lựa chọn phương án,
đánh giá, quyết sách, điều tra thăm dò, thiết kế, thi công cho đến lúc
công trình hoàn thiện, đi vào sản xuất hoặc đi vào sử dụng.
- Dự án đầu tư xây dựng dựa theo nhiệm vụ đặc biệt để có
được hình thức tổ chức có đặc điểm dùng một lần. Điều này được
biểu hiện ở việc đầu tư duy nhất một lần, địa điểm xây dựng cố định
một lần, thiết kế và thi công đơn nhất.
- Mọi dự án đầu tư xây dựng đều có tiêu chuẩn về hạn ngạch
đầu tư. Chỉ khi đạt đến một mức độ đầu tư nhất định mới được coi
là dự án xây dựng, nếu không đạt được tiêu chuẩn về mức đầu tư

này thì chỉ được coi là đặt mua tài sản cố định đơn lẻ, mức hạn
ngạch về đầu tư này được Nhà nước quy định và ngày càng được
nâng cao.
2.3. Các giai đoạn thực hiện dự án đầu tư xây dựng.


13

Dự án đầu tư xây dựng và quá trình đầu tư xây dựng của bất kỳ
dự án nào cũng bao gồm 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư; Thực hiện
đầu tư; Kết thúc xây dựng và đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Quá trình thực hiện dự án đầu tư có thể mô tả bằng sơ đồ sau:

Lập Báo
cáo đầu

Lập Dự án đầu
tư.

Thiết

Đấu

Thi

Nghiệm

kế

thầu


công

thu

tư.
Đối với DA quan trọng
quốc gia
Lập báo cáo Thiết kế kỹ
thuật.
Chuẩn bị đầu tư

Thực hiện đầu tư

Kết thúc
dự án

đầu tư
Sơ đồ 2.1. Các giai đoạn thực hiện dự án đầu tư xây dựng công
trình


14

2.3.1.

Giai đoạn chuẩn bị đầu tư

Đối với các dự án quan trong quốc gia theo Nghị quyết số
66/2006/QH11 của Quốc hội thì CĐT phải lập Báo cáo đầu tư trình

Chính phủ xem xét để trình Quốc hội thông qua chủ trương và cho
phép đầu tư. Đối với dự án nhóm A không có trong quy hoạch
ngành được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì CĐT phải báo cáo Bộ
quản lý ngành để xem xét, bổ sung quy hoạch theo thẩm quyền hoặc
trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung quy hoạch trước khi
lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Vị trí, quy mô xây dựng công
trình phải phù hợp với quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền
phê duyệt, nếu chưa có trong quy hoạch xây dựng thì phải được Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận.
2.3.2.

Giai đoạn thực hiện đầu tư:

Sau khi báo cáo đầu tư được phê duyệt DAĐT được chuyển
sang giai đoạn tiếp theo- giai đoạn thực hiện đầu tư.
Vấn đề đầu tiên là lựa chọn đơn vị tư vấn, phải lựa chọn được
những chuyên gia tư vấn, thiết kế giỏi trong các tổ chức tư vấn, thiết
kế giàu kinh nghiệm, có năng lực thực thi việc nghiên cứu từ giai
đoạn đầu, giai đoạn thiết kế đến giai đoạn quản lý giám sát xây
dựng- đây là nhiệm vụ quan trọng và phức tạp. Trong khi lựa chọn
đơn vị tư vấn, nhân tố quyết định là cơ quan tư vấn này phải có kinh
nghiệm qua những dự án đã được họ thực hiện trước đó. Một
phương pháp thông thường dùng để chọn là đòi hỏi các cơ quan tư
vấn cung cấp các thông tin về kinh nghiệm, tổ chức sau đó xem xét


15

lựa chọn rồi tiến tới đấu thầu. Việc lựa chọn nhà thầu tư vấn xây
dựng công trình được thực hiện theo Nghị định 12/2009/NĐ-CP

ngày 12/02/2009 của Chính phủ.
Sau khi lựa chọn được nhà thầu thiết kế, trên cơ sở dự án được
phê duyệt, nhà thầu thiết kế tổ chức thực hiện các công việc tiếp
theo của mình. Tuỳ theo quy mô, tính chất công trình xây dựng,
việc thiết kế có thể thực hiện theo một bước, hai bước hay ba bước.
Thiết kế một bước là thiết kế bản vẽ thi công áp dụng đối với
công trình chỉ lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật.
Thiết kế hai bước bao gồm thiết kế cơ sở và thiết kế bản vẽ thi
công áp dụng đối với công trình quy định phải lập dự án đầu tư.
Thiết kế ba bước bao gồm thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật và
thiết kế bản vẽ thi công áp dụng đối với công trình quy định phải lập
dự án và có quy mô là cấp đặc biệt, cấp I và công trình cấp II có kỹ
thuật phức tạp do người quyết định đầu tư quyết định.
Sau khi sản phẩm thiết kế được hình thành, CĐT tổ chức thẩm
định hồ sơ TKKT-TDT và trình lên cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (cụ thể là người có thẩm quyền ra quyết định đầu tư) phê
duyệt. Trường hợp CĐT không đủ năng lực thẩm định thì thuê các
tổ chức, cá nhân tư vấn có đủ điều kiện năng lực để thẩm tra dự toán
thiết kế công trình làm cơ sở cho việc phê duyệt. Trên cơ sở kết quả
thẩm định TKKT-DT người có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ ra
quyết định phê duyệt TKKT-DT. Khi đã có quyết định phê duyệt
TKKT-TDT, CĐT tổ chức đấu thầu xây dựng nhằm lựa chọn nhà


16

thầu có đủ điều kiện năng lực để cung cấp các sản phẩm dịch vụ xây
dựng phù hợp, có giá dự thầu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu của
CĐT và các mục tiêu của dự án.
Sau khi lựa chọn được nhà thầu thi công, CĐT tổ chức đàm

phán ký kết hợp đồng thi công xây dựng công trình với nhà thầu và
tổ chức quản lý thi công xây dựng công trình. Nội dung quản lý thi
công xây dựng công trình bao gồm quản lý chất lượng xây dựng;
quản lý tiến độ xây dựng; quản lý khối lượng thi công xây dựng
công trình; quản lý an toàn lao động trên công trường xây dựng;
quản lý môi trường xây dựng.
Tóm lại, trong giai đoạn này CĐT chịu trách nhiệm đền bù, giải
phóng mặt bằng xây dựng theo tiến độ và bàn giao mặt bằng xây
dựng cho nhà thầu xây dựng; trình duyệt hồ sơ TKKT-DT; tổ chức
đấu thầu; đàm phán ký kết hợp đồng, quản lý chất lượng kỹ thuật
công trình trong suốt quá trình thi công và chịu trách nhiệm toàn bộ
các công việc đã thực hiện trong quá trình triển khai dự án.


17

2.3.3.

Giai đoạn kết thúc xây dựng và đưa công trình vào
khai thác sử dụng.

Sau khi công trình được thi công xong theo đúng thiết kế đã
được phê duyệt, đảm bảo các yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật, mỹ
thuật, CĐT thực hiện công tác bàn giao công trình cho cơ quan quản
lý, sử dụng thực hiện khai thác, vận hành công trình với hiệu quả
cao nhất.
Như vậy các giai đoạn của quá trình đầu tư có mối liên hệ hữu
cơ với nhau, mỗi giai đoạn có tầm quan trọng riêng của nó cho nên
không đánh giá quá cao hoặc xem nhẹ một giai đoạn nào và kết quả
của giai đoạn này là tiền đề của giai đoạn sau. Trong quá trình quản

lý đầu tư xây dựng CĐT luôn đóng vai trò quan trọng và quyết định
đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư và xây dựng.
2.4. Dự án đầu tư xây dựng cảng biển
2.4.1.

Khái niệm về cảng biển

Khái niệm cảng biển, cầu cảng, bến cảng theo quy định của Bộ
luật hàng hải, Nghị định 71/2006/NĐ-CP được quy định như sau:
Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng,
được xây dựng kết cấu hạ tầng và lắp đặt trang thiết bị cho tàu biển
ra, vào hoạt động để bốc dỡ hàng hóa, đón trả hành khách và thực
hiện các dịch vụ khác.
Vùng đất của cảng là vùng đất được giới hạn để xây dựng cầu
cảng, kho, bãi, nhà xưởng, trụ sở, cơ sở dịch vụ, hệ thống giao


18

thông, thông tin liên lạc, điện, nước, các công trình phụ trợ khác và
lắp đặt trang thiết bị. Vùng nước cảng là vùng nước được giới hạn
để thiết lập vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo
đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng
kiểm dịch, vùng để xây dựng luồng cảng biển và các công trình phụ
trợ khác.
Cảng biển có một hoặc nhiều bến cảng, bến cảng có một hoặc
nhiều cầu cảng. Bến cảng bao gồm cầu cảng, kho bãi, nhà xưởng,
trụ sở, cơ sở dịch vụ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện,
nước, luồng vào bến cảng và các công trình phụ trợ khác. Cầu cảng
là kết cấu cố định thuộc bến cảng, được sử dụng cho tàu biển neo

đậu, bốc dỡ hàng hóa, đón, trả hành khách và thực hiện các dịch vụ
khác.
Cảng được phân loại theo các tiêu chí sau:
- Cảng biển loại I là cảng đặc biệt quan trọng, có quy mô lớn
phục vụ cho việc phát triển kinh tế-xã hội của cả nước hoặc liên
vùng. Theo tiêu chí này Hệ thống cảng biển Việt Nam có 17 cảng
được xếp là cảng loại I;
- Cảng biển loại II là cảng biển quan trọng, có quy mô vừa phục
vụ cho việc phát triển kinh tế-xã hội của vùng, địa phương. Có 23
cảng biển được xếp loại II;
- Cảng biển loại III là cảng biển có quy mô nhỏ phục vụ cho
hoạt động của doanh nghiệp. Có 9 cảng biển được xếp cảng loại III.


19

Đề tài này sử dụng khái niệm về cảng biển theo quan điểm
quản lý đề thực hiện nghiên cứu việc quản lý các dự án đầu tư xây
dựng cảng biển.
2.4.2.

Vai trò của cảng biển
Cảng biển, với tư cách là một bộ phận quan trọng của cơ sở hạ

tầng quốc gia, vừa là đầu mối giao thông, vừa là mắt xích quan
trọng kết nối các hệ thống, loại hình giao thông vận tải với nhau.
Là nơi thực hiện các thao tác xếp dỡ hàng hoá từ phương thức
vận tải biển sang các phương thức vận tải khác và ngược lại, qua đó,
việc trao đổi, lưu thông hàng hóa được thuận lợi, tiết kiệm. Tại cảng
biển có cung cấp trang thiết bị phục vụ cho tàu, hàng hóa và hành

khách đến cảng.
Cảng biển là nhân tố quan trọng trong việc tạo sức hút đầu tư,
thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, là hạt nhân cho việc hình
thành nên các vùng kinh tế phát triển của các khu vực, của quốc gia.
Các cảng biển cùng với hệ thống giao thông nói chung tạo
điều kiện cho giao lưu phát triển kinh tế giữa các địa phương, các
vùng, các quốc gia.
Các cảng biển tùy theo chức năng khi định hướng xây dựng
còn có những vai trò cụ thể khác nhau, chủ yếu là phục vụ cho phát
triển kinh tế, khi cần có thể là cảng quân sự (quốc phòng), tránh
bão...


20

2.4.3.

Đặc điểm của Dự án đầu tư xây dựng cảng biển
Dự án đầu tư xây dựng cảng biển có tính đồng bộ về kinh tế

và kĩ thuật, tùy theo mục đích kinh tế khác nhau của chủ đầu tư mà
các tiêu chuẩn kĩ thuật của công trình cũng khác nhau, vì vậy đòi
hỏi nhà đầu tư phải tính toán cụ thể, hợp lý.
Hoạt động đầu tư cảng biển là một hoạt động rộng khắp và
phổ biến trên thế giới cũng như trong nước vì vậy các định mức phí
được quy định cụ thể và chi tiết trên cơ sở đó nhà đầu tư có thể tính
toán tổng mức đầu tư và cũng có thể so sánh giữa các công trình.
Điều này rất có ích trong công tác quản lý cũng như quyết toán vốn
đầu tư của các dự án.
Một đặc điểm nổi bật của xây dựng cảng biển là tính khó thay

đổi theo những tiến bộ phát triển của công nghệ vì các công trình
mang tính lâu dài và cố định, thống nhất theo một hệ thống. Chính
vì vậy trong hoạt động đầu tư nhà đầu tư phải có sự cân nhắc mang
tính lâu dài, lường trước những nhu cầu, thay đổi của công nghệ.
Cảng biển là một chủ thể xây dựng lớn, trong quá trình xây
dựng cũng như hoạt động sẽ ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường
cũng như tác động đến môi trường thiên nhiên cũng như xã hội, vì
vậy khi tiến hành hoạt động đầu tư phải tính đến sự tác động này,
đặc biệt trong khâu lập dự án.
Đầu tư cảng biển là một trong những lĩnh vực được nhà nước
quản lý rất chặt chẽ. Quy hoạch phát triển cảng biển trong từng


21

vùng được các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng rất cụ thể, chi
tiết cho từng giai đoạn, vì vậy trong đầu tư cảng biển củ đầu tư phải
tuân thủ nghiêm ngặt những quy hoạch này, đảm bảo cảng biển
được xây dựng trong chiến lược tổng thể chung của cả đất nước.
Cùng với xu thế phát triển chung của cảng biển trên thế giới,
sự phát triển của khoa học công nghệ và nhu cầu ngày càng lớn
mạnh về hoạt động này, đầu tư cho cảng càng ngày càng tăng về
mặt công nghệ cũng như quy mô vốn. Điều này đòi hỏi ở những nhà
quản lý đầu tư phải có trình độ chuyên môn cao, đảm bảo kiểm soát
được một lượng vốn và thỏa mãn yêu cầu công nghệ.
2.5. Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
2.5.1.

Khái niệm quản lý dự án.
Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian,


nguồn lực và giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo
cho dự án hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được
duyệt và đạt được các yêu cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản
phẩm dịch vụ, bằng những phương pháp và điều kiện tốt nhất cho
phép.
2.5.2.

Các chức năng của QLDA đầu tư xây dựng:

2.5.2.1. Chức năng ra quyết định
Quá trình xây dựng của dự án là một quá trình ra quyết định
có tính hệ thống, việc khởi công mỗi một giai đoạn xây dựng đều
phải dựa vào quyết định đó. Việc đưa ra quyết định ngay từ đầu có


22

ảnh hưởng quan trọng đến giai đoạn thiết kế, giai đoạn thi công
cũng như sự vận hành sau khi dự án đã được hoàn thành.
2.5.2.2. Chức năng kế hoạch
Chức năng kế hoạch có thể đưa toàn bộ quá trình, toàn bộ mục
tiêu và toàn bộ hoạt động của dự án vào quỹ đạo kế hoạch, dùng hệ
thống kế hoạch ở trạng thái động để điều hành và khống chế toàn bộ
dự án. Sự điều hành hoạt động công trình là sự thực hiện theo trình
tự mục tiêu dự định. Chính nhờ chức năng kế hoạch mà mọi công
việc của dự án đều có thể dự kiến và khống chế.
2.5.2.3. Chức năng tổ chức
Chức năng tổ chức nghĩa là thông qua việc xây dựng một tổ
chức dưới sự lãnh đạo của giám đốc dự án để bảo đảm dự án được

thực hiện theo hệ thống, xác định chức trách và trao quyền cho hệ
thống đó, thực hiện chế độ hợp đồng, hoàn thiện chế độ quy định để
hệ thống đó có thể vận hành một cách hiệu quả, đảm bảo cho mục
tiêu dự án được thực hiện theo kế hoạch.
2.5.2.4. Chức năng điều hành
Quá trình quản lý dự án là sự phối hợp của rất nhiều các bộ
phận có mối quan hệ mâu thuẫn và phức tạp, do đó nếu xử lý không
tốt các mối quan hệ này sẽ tạo nên những trở ngại trong việc phối
hợp hoạt động giữa các bộ phận, ảnh hưởng đến mục tiêu dự án. Vì
vậy, phải thông qua chức năng điều hành của quản lý dự án để tiến
hành kết nối, khắc phục trở ngại, đảm bảo cho hệ thống có thể vận
hành một cách bình thường.
2.5.2.5. Chức năng khống chế


23

Chức năng khống chế là biện pháp đảm bảo cho việc thực hiện
mục tiêu chính của dự án công trình. Đó là vì dự án công trình
thường rất dễ rời xa mục tiêu dự định, phải lựa chọn các phương
pháp quản lý khoa học để đảm bảo mục tiêu được thực hiện.
2.5.3.

Sự cần thiết của công tác quản lý dự án
Mỗi dự án được xây dựng nhằm thực hiện những mục tiêu xác

định trong khuôn khổ nguồn lực cho trước. Để thực hiện dự án cần
có sự phối hợp hoạt động của rất nhiều các đối tượng có liên quan
đến dự án như chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn, các cơ quan quản lý
Nhà nước có liên quan, …

Các kết quả của dự án có thể có được nếu tất cả các công việc
của dự án lần lượt được hoàn thành. Tuy nhiên, vì tất cả các hoạt
động của dự án đều có liên quan đến nhau và có ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau, nên nếu từng công việc được thực hiện một cách độc lập
sẽ cần rất nhiều thời gian và chi phí để trao đổi thông tin giữa các
đơn vị thực hiện. Một số công việc chỉ có thể được thực hiện khi
một số công việc khác bắt buộc phải hoàn thành trước nó, và phải
hoàn thành trong khuôn khổ chất lượng cho phép. Do đó, việc thực
hiện dự án theo cách này không thể kiểm soát nổi tiến độ dự án,
cũng như khó có thể đảm bảo các điều kiện về chi phí và chất
lượng.
Như vậy, mọi dự án đều cần có sự phối hợp hoạt động của tất
cả các đối tượng liên quan đến dự án một cách hợp lý. Cơ chế phối
hợp đó chính là quá trình quản lý dự án, dự án càng phức tạp và có


24

quy mô càng lớn thì càng cần được tổ chức quản lý một cách khoa
học.
Nói cách khác, công tác QLDA chính là việc áp dụng các
phương pháp, công cụ khác nhau, trong sự phù hợp với các quy
định, các văn bản pháp lý của Nhà nước có liên quan đến dự án để
phối hợp hoạt động giữa các đối tượng hữu quan của dự án, nhằm
đạt được mục tiêu hoàn thành dự án với chất lượng cao nhất, trong
thời gian nhanh nhất và với chi phí thấp nhất có thể.
Công tác QLDA hợp lý và khoa học sẽ giúp chủ đầu tư đạt
được các mục tiêu đã định của dự án với hao tổn nguồn lực ít hơn
dự kiến, có thể là trong thời gian ngắn hơn với chi phí thấp hơn, từ
đó làm tăng hiệu quả đầu tư vốn của xã hội; hoặc là, cùng các điều

kiện về thời gian, chi phí, nhân lực đã giới hạn, công tác quản lý tốt
cho phép nâng cao chất lượng dự án. Điều này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với các dự án đầu tư xây dựng có quy mô lớn khi mà
chất lượng các công trình xây dựng không đảm bảo có thể gây ra
những tổn thất lớn cho xã hội.
Ngược lại, nếu công tác QLDA được thực hiện thiếu khoa học,
dự án có thể phải tốn nhiều nguồn lực hơn để hoàn thành hoặc hoàn
thành với chất lượng không đảm bảo, gây nhiều thất thoát lãng phí
cho xã hội và có thể để lại những hậu quả nghiêm trọng, nhất là với
các dự án xây dựng công trình công cộng quy mô lớn được thực
hiện bởi nguồn vốn của Nhà nước.
Chính vì vậy, hoàn thiện công tác QLDA luôn luôn là nhiệm
vụ quan trọng của mọi đối tượng liên quan đến dự án. Những biện


25

pháp cải tiến công tác tổ chức QLDA, hoàn thiện các công cụ hỗ trợ
quá trình QLDA, … từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà
quản lý tâm huyết.
2.5.4.

Nội dung quản lý dự án

2.5.4.1. Quản lý kế hoạch dự án
Lập kế hoạch dự án là việc tổ chức dự án theo một trình tự
lôgic, xác định mục tiêu và các phương pháp để đạt mục tiêu của dự
án, dự tính những công việc cần làm, nguồn lực thực hiện và thời
gian làm những công việc đó nhằm hoàn thành tốt mục tiêu đã xác
định của dự án.

Lập kế hoạch dự án do những người có liên quan trực tiếp đến
dự án thực hiện, thường là chủ nhiệm dự án. Chủ nhiệm dự án và
những người cùng tham gia có thể đặt sự quan tâm của họ nhiều vào
tiến độ lập kế hoạch hơn là việc đồng nhất dự án đó vào hệ thống
hoạt động và guồng máy tổ chức của chủ đầu tư. Lập kế hoạch đòi
hỏi một năng lực khám phá, tiên đoán trước và là một nghệ thuật vì
trong quá trình lập dự án, những người thực hiện không thể chỉ xem
xét các vấn đề dự án trong một khuôn khổ kế hoạch mà ở một mức
độ tri thức hơn, họ không chỉ am tường thấu hiểu hết những ý
tưởng, hàm ý của dự án mà còn biểu lộ thiện chí trong mỗi bước đi
của dự án. Để thực hiện dự án trong bối cảnh kinh tế như hiện nay,
việc lập kế hoạch một cách “bài bản” thì chưa đủ. Lập kế hoạch đòi
hỏi sự sáng tạo và linh hoạt. Người chịu trách nhiệm trong việc lập
kế hoạch phải là nhà tổ chức giỏi, có khả năng khơi dậy những tiềm
năng sáng kiến của các thành viên trong đội lập kế hoạch.


×