Khái quát chung về thẩm quyền xử phạt và thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính.
1.Thẩm quyền xử phạt hành chính.
a).Thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính: là khả năng áp dụng các biện pháp xử
lí hành chính giới hạn nhất định do pháp luật qui định cho các cá nhân hoặc tổ chức.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của chủ thể nào đó được xác định bằng
những quyền hạn mà pháp luật quy định cho chủ thể đó được áp dụng các biện pháp
xử lí với các mức độ được xác định cụ thể. Theo pháp luật hiện hành , rất nhiều chủ
thể có thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính. Vì vậy, việc phân định thẩm quyền, xác
định đúng thẩm quyền, xác định đúng chủ thể có thẩm quyền trong việc xử lí các vi
phạm hành chính là một việc rất cần thiết…
Hiểu một cách đơn giản thì: “ Thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính là quyền hạn
và nghĩa vụ của các cán bộ, công chức cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
xử lý vi phạm hành chính theo những thủ tục nhất định, trong phạm vi nhất định
theo quy định của Pháp luật”
b.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Nhìn chung: Thẩm quyền xử phạt hành chính là quyền lợi và nghĩa vụ xử phạt
hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành xử phạt hành
chính theo thủ tục xử phạt và trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.
Khác với việc xét xử của các hành vi phạm tội mà ở đó thẩm quyền thực hiện
công việc này được giao cho một cơ quan duy nhất là tòa án thực hiện, việc xử phạt
hành chính được giao cho nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khác nhau thực
hiện. Theo qui định của pháp luật , thẩm quyền xử phạt hành chính thuộc về các c ơ
quan như: Ủy ban nhân dân các cấp; cơ quan công an nhân dân; bộ đội biên phòng;
cơ quan cảnh sát biển;cơ quan hải quan;cơ quan kiểm lâm;…
Đồng thời, pháp luật quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể
của mỗi cán bộ có thẩm quyền xử phạt trong các cơ quan này. Ví dụ: theo khoản 1
Điều 35 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính; “ kiểm lâm đang thi hành công vụ có
quyền: a. Phạt cảnh cáo; b. Phạt tiền đến 200000 đồng’… Trong các văn bản pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính được ban hành trước Pháp lệnh xử lí vi phạm
hành chính năm 2002 thì vấn đề mức phạt tiền không được quy định rõ ràng. Vì vậy,
trong nhiều trường hợp đã xảy ra những tranh luận xung quanh trường hợp tổ chức,
các nhân thực hiện đồng thời nhiều vi phạm hành chính một lúc và mức phạt tiền
tổng hợp đối với cá nhân, tổ chức vượt quá mức mà pháp luật quy định cho thẩm
quyền của người xử phạt.
Để khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng về các quy định thẩm quyền cử phạt và để
đảm bảo cho việc thực hiện đúng thẩm quyền xử phạt, Điều 42 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi
phạm vi phạm hành chính, cụ thể là :
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.
- Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các Điều 31 đến
Điều 41 của Pháp lện xử lý vi phạm hành chính năm 2002 có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mà mình quản lí.
- Trong nhiều trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều người thì việc xử phạt do người thụ lí đầu tiên thực hiện.
- thẩm quyền xử phạt của những người quy định tại Điều 28 đến Điều 40 của
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 là thẩm quyền áp dụng đối với một
hành vi vi phạm hành chính,. Trong trường hợp phạt tiền , thẩm quyền xử phạt hành
chính được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với
từng hành vi vi phạm cụ thể.
- Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính thì thẩm quyền xử phạt được xác định theo nguyên tắc;
+ Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc
thẩm quyền của người xử phạt thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó;
+ Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi vượt
quá thẩm quyền của người xử phạt thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có
thẩm quyền xử phạt;
+ Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành
khác nhau thì thẩm quyền xử phạt thuộc chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm
quyền nơi xảy ra vi phạm.
2. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Các hoạt động của nhà nước đều có đặc tính chung là phải tuân theo những thủ
tục pháp lý nhất định. Nghĩa là phải tuân theo các quy định của pháp luật về thứ tự
các công việc phải tiến hành, nội dung cụ thể của từng công việc và người thực hiện
công việc đó. Việc đặt ra các thủ tục pháp lý nhằm xác định nội dung và quy trình
thực hiện các công việc một cách hợp lí giúp cho hoạt động của nhà nước tiết kiệm
được thời gian, công sức và đạt được hiệu quả cao.
Xử phạt vi phạm hành chính cũng là hoạt động của nhà nước nên hoạt động này
cũng phải tuân theo thủ tục do pháp luật quy định. Thủ tục XPVPHC được quy định
chủ yếu tại Chương VI pháp lệnh XLVPHC năm 2002. Trên cơ sở pháp lệnh, ngày
14/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định 134/2003/CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của pháp lệnh XPVPHC năm 2002, trong đó có các quy định về thủ tục
XPVPHC. Năm 2008 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
XLVPHC ban hành đã có nhiều quy định cụ thể hơn về thủ tục xử phạt, bổ sung
thêm một số quy định mới để đáp úng nhu cầu thực tế…
Xuất phát từ nguyên tắc “ mọi vi phạm phải được phát hiện kịp thời và phải bị
đình chỉ ngay. Việc xử lí vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng và
triệt để..” và “ việc xử lí vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đề quyết
định hình thức, biện pháp xử lí thích hợp…”, pháp lệnh XLVPHC quy định hai thủ
tục xử lí vi phạm hành chính như sau:
a)Thủ tục đơn giản: gọi là thủ tục đơn giản vì theo thủ tục này khi phát hiện
hành vi vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt
ngay. Điều kiện để áp dụng thủ tục này là hành vi vi phạm phải đơn giản để khi phát
hiện hành vi vi phạm thì người có thẩm quyền đã xác định được đó là hành vi vi
phạm phạm nào, tính chất,mức độ của vi phạm, đông thời phát hiện vi phạm phải có
đủ thẩm quyền để ra quyết định xử phạt tại chỗ. Chính vì vậy, pháp luật quy định thủ
tục này được áp dụng trong trường hợp phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 200.0000
đồng (sửa đổi, bổ sung năm 2008). Đó là hành vi đơn giản và mức phạt được áp
dụng phù hợp với thầm quyền của hầu hết các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính.
b)Thủ tục lập biên bản: thủ tục này khác thủ tục đơn giản ở chỗ, khi phát hiện
hành vi vi phạm, người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt ngay mà
phải lập biên bản VPHC . Sở dĩ trong trường hợp này cần phải lập biên bản v ì hành
vi vi phạm phức tạp nên trong thời gian ngắn (ngay khi phát hiện vi phạm)và với
những biểu hiện bên ngoài của hành vi vi phạm được nhận biết một cách trực tiếp
thường không đủ để đánh giá chính xác các loại vi phạm, tính chất, mức độ của vi
phạm nên không thể ra quyết định xử phạt ngay. Trong khi đó, xử phạt vi phạm hành
chính phải đúng người, đúng vi phạm nên việc ghi lại các sự kiện, hiện tượng, tình
tiết, số liệu liên quan đến vi phạm làm căn cứ để sau đó xử phạt là rất cần thiết.
Hành vi vi phạm được phát hiện nhưng người phát hiện không đúng thẩm quyền
xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt thì lại không có mặt tại nơi xảy ra vi phạm
nên cần phải lập biên bản để cung cấp thông tin cho người có quyết định xử phạt.
II/ đánh giá tính hợp lí về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
1. Ưu điểm và nhược điểm của những quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính.
a.Ưu điểm:
- Trong hệ thống pháp luật hiện hành liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính cho thấy các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã
được quy định tương đối đầy đủ ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực quản lý nhà nước
đều có chức danh được trao thẩm quyền tiến hành hoạt động này. Đó là điều kiện
quan trọng bảo đảm phát hiện nhanh chóng và và xử lý kịp thời mọi trường hợp vi
phạm, đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc thứ nhất trong xử lý vi phạm hành chính là
“mọi vi phạm hành chính đều được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay”
- Trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã tăng thẩm quyền phạt tiền cho các
chức danh cơ sở nhằm thực hiện chủ trương phân cấp mạnh cho cơ sở trong việc xử
lý vi phạm hành chính, đồng thời cũng quy định tăng thẩm quyền phạt tiền cho các
chức danh thuộc cơ quan chuyên ngành nhằm khắc phục tình trạng đùn đẩy lên các
cơ quan cấp trên dẫn đến quá tải trong xử lí vi phạm hành chính.
Ví dụ: Theo pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính sửa đổi bổ sung năm 2008 thì
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có
thẩm quyền phạt tiền đến 30.000.000 đồng, cao hơn so với quy định của Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 là 10.000.000 đồng.
- thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thể hiện tập trung và tương đối đầy đủ, rõ
ràng trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính là căn cứ quan trọng và điều kiện
thuận lợi để quy định cụ thể trong các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong
các lĩnh vực quản lý nhà nước. Các Nghị định này về cơ bản đã đảm bảo tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật quy định về thẩm quyền xử phạt.
- Các quy định hiện hành đi theo khuynh hướng trao thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính gần với thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm
hành chính gây ra. Điều đó góp phần quan trọng trong việc giáo dục, răn đe người vi
phạm bảo đảm khắc phục hậu quả của vi phạm đồng thời nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính.
- Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giúp người có thẩm quyền
xử phạt đỡ lúng túng trong việc xác định vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình hay không và giúp cấp trên của họ dễ dàng hơn trong đánh giá kết
quả hoạt động của xử phạt vi phạm hành chính nói chung cũng như xác định của cấp
dưới trong từng vụ việc cụ thể.
- Các quy định về ủy quyền được đặt ra tương đối hợp lý. Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính quy định rõ người có thẩm quyền xử phạt chỉ ủy quyền trong trường hợp
vắng mặt; Nghị định của Chính phủ số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 đặt ra
những đòi hỏi rất khắt khe khi tiến hành ủy quyền, đó là người có thẩm quyền xử
phạt chỉ được ủy quyền cho cấp phó trực tiếp của mình, việc ủy quyền phải được thể
hiện thành văn bản và người được ủy quyền không được ủy quyền trực tiếp.
b.Nhược điểm: trong hệ thống quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính đã bộc lộ không ít những hạn chế như:
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã quy định bằng cách liệt kê các chức danh
có thẩm quyền xử phạt, mỗi chức danh đã được quy định rõ hình thức, mức xử phạt
và các biện pháp cưỡng chế khác mà các chủ thể có quyền áp dụng khi xử phạt vi
phạm hành chính. Ngoài ra những ưu điểm của phương pháp này đã được phân tích
ở trên thì phương pháp liệt kê thẩm quyền Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn
những nhược điểm như sau: đó là sự không linh hoạt để theo kịp những thay đổi về
tổ chức trong các cơ quan quản lý và thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống vi
phạm hành chính. Thực tiễn quản lý cho thấy những đơn vị thuộc cơ quan nhà nước
thành lập chức danh trong cơ quan quản lý nhà nước được quyết định sau thời điểm
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực nên không được pháp lệnh quy định
về thẩm quyền xử phạt. Nhưng các cơ quan quản lí chuyên ngành mới được thành
lập có hoạt động đặc thù là người trực tiếp phát hiện các vi phạm hành chính nên
xuất hiện nhu cầu bổ sung các chức danh có thẩm quyền xử phạt. Trong tiến trình
cải cách hành chính hiện nay thì nhu cầu này xuất hiện tương đối thường xuyên mà
việc sửa đổi, bổ sung lại không thể tiến hành thường xuyên được.
Ví dụ: trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được sửa đổi bổ sung năm 2007
và năm 2008 không quy định thẩm quyền xử phạt của cá nhân đứng đầu các cơ quan
thuộc bộ như cục trưởng các cục: Cục bảo vệ thực vật, Cục thú y, Cục vệ sinh- an
toàn thực phẩm,…mặc dù các cục này được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước chuyên ngành.
- Tiếp theo là những bất hợp lý trong các quy định về thẩm quyền xử phạt của thanh
tra chuyên ngành. Trong khi các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lí rất
khác nhau về tính chất, mức độ vi phạm trong các lĩnh vực cũng không như nhau
những thẩm quyền xử phạt của các chức danh thanh tra viên chuyên ngành trong tất
cả các ngành, lĩnh vực đều giống nhau.
Ví dụ: Điều 38 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định về thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính của thanh tra chuyên ngành: Khoản 1 quy định : “ thanh tra
viên chuyên ngành đang thi công vụ có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền 500000
đồng.
Có những lĩnh vực quản lý do có tính chất đặc thù mà các hành vi vi phạm có mức
xử lý rất cao, trong khi đó thẩm quyền của thanh tra viên chuyên ngành lại hạn chế.
- Những hạn chế về thẩm quyền xử phạt của người trực tiếp thi hành công vụ,
nhiệm vụ thể hiện ở thẩm quyền áp dụng mức phạt tiền của người trực tiếp thi hành
công vụ, nhiệm cụ còn quá thấp. vì những người trực tiếp thi hành công vụ là lực
lượng thường xuyên trong lĩnh vực kiểm tra, phát hiện vi phạm nhưng thẩm quyền
xử phạt của họ lại rất thấp.
Ví dụ: Chiến sĩ công an, bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, nhân viên thuế vụ đang
thi hành công vụ chỉ được phạt tiền đến 200000 đồng, đội trưởng của những người
này cũng chỉ có thẩm quyền phạt đến 500000 đồng.Thanh tra viên chuyên ngành
được phạt đến 500000 đồng.
Ngoài hai hình thức phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, các chức danh trực tiếp thi
hành công vụ không có thẩm quyền áp dụng các hình phạt bổ sung hoặc các biện
pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra (trừ thẩm quyền của thanh tra
viên chuyên ngành được áp dụng thêm các biện pháp là ; tịch thu tang vật, phương
tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng ; Áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả…). Vì thếm, mặc dù hành vi vi phạm nhỏ, mức
phạt tiền được quy định nằm trong phạm vi thẩm quyền cảu những người đang trực
tiếp thi hành công vụ nhưng nếu có tang vật , hoặc phương tiện cần tịch thu hoặc áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra thì người trực
tiếp thi hành công vụ đều phải chuyển vụ việc đến người khác có thẩm quyền giải
quyết. Như vậy, sẽ dẫn đến những thiếu sót, làm giảm độ chính xác trong xử phạt vi
phạm hành chính.
- Các quy định hiện hành về thẩm quyền xử phạt hành chính chưa thực sự gắn với
thẩm quyền xử phạt của các chức danh với hành vi hoặc nhóm hành vi nhất định.
Hạn chế này khiên các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong những ngành có
phạm vi quản lý bao gồm nhiều lĩnh vực rất lúng túng trong việc xác định thẩm
quyền trong vụ việc cụ thể. Dẫn đến quá tải về số lượng vụ việc trong một số ngành,
lĩnh vực và khó khăn trong việc phối hợp giữa các chức danh có thẩm quyền xử phạt
thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước theo hướng xây dựng các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực thì hạn chế
ngày càng thấy rõ.
2. Ưu điểm và hạn chế của thủ tục xử lý vi phạm hành chính.
a. Ưu điểm: Việc chia thủ tục xử phạt vi phạm hành chính thành hai loại có ý
nghĩa: đối với vụ việc đơn giản, rõ ràng như điều khiển xe vượt đèn đỏ, đi vào
đường cấm, đường ngược chiều,… thì người có thẩm quyền xử phạt có thể quyết
định xử phạt ngay; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt tại chỗ, vụ việc
được giải quyết nhanh chóng, đơn giản. Điều đó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan nhà nước và người thi hành công vụ mà còn cho cả cá nhân, tổ chức
vi phạm. Ngược lại, với những vụ việc phức tạp, đòi hỏi phải xác minh, làm rõ
những tình tiết vi phạm thì việc lập biên bản sẽ đảm bảo việc xử phạt được khách
quan, chính xác, không phạt “oan” cá nhân, tổ chức.
Như vậy, nếu thủ tục đơn giản tạo điều kiện xử lí vi phạm hành chính nhanh gọn
thì thủ tục có lập biên bản xử phạt hành chính có cơ sở. Mặt khác, biên bản hành
chính cũng là cơ sở để người bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại và xét xử vụ kiện đơn vị quyết định xử phạt vi
phạm hành chính. Việc quyết định hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tạo nên sự
linh hoạt trong hoạt động xử phạt, vừa nhanh chóng vừa chính xác trong những khả
năng và điều kiện cho phép.
b.Nhược điểm: Thực tiễn đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính, việc quyết
định và áp dụng hai thủ tục nói trên tồn tại một số vấn đề chưa hoàn toàn thỏa đáng.
b.1. Việc áp dụng thủ tục đơn giản: mức tiền phạt được nâng lên từ 100.000 đồng
(Pháp lệnh XLVPHC năm 2002) lên 200.000 đồng năm 2008. Việc nâng mức tiền
phạt là rất cần thiết để khắc phục tình trạng vụ việc vi phạm dồn ứ lên cấp trên để
giải quyết. Nhưng mức tiền phạt như vậy vẫn còn thấp, nhiều vụ vi phạm vẫn chưa
thể xử lý theo thủ tục này.
b.2)Đối với thủ tục lập biên bản: -Về nội dung của biên bản:được quy định tại
Khoản 2 Điều 55 Pháp lệnh XLVPHC Điều 55 Pháp lệnh quy định nội dung của
biên bản đã thể hiện rõ tính khoa học, chặt chẽ và phù hợp. Tuy nhiên, một số quy
đinh, của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP (hướng dẫn thi hành Pháp lệnh XLVPHC
năm 2002) và mẫu biên bản để xử phạt còn quá dài, mất thời gian ảnh hưởng đến kết
quả xử lý vi phạm. trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử lý đã chuyển vụ
việc về giải quyết theo thủ tục đơn giản với mức thấp hơn nhiều để tránh thủ tục lập
biên bản, dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thỏa đáng. Các mẫu
quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, mẫu quyết định xử phạt, mẫu biên
bản đều rườm rà, chưa phù hợp với thực tế; biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện
VPHC, theo quy định phải có hai người làm chứng, trên thực tế áp dụng rất khó, đề
nghị chỉ nên quy định một người làm chứng. mẫu biên bản VPHC chưa hợp lý, vừa
thừa, vừa thiếu,cụ thể: phần nội dung về điều, khoản quy định hành vi vi phạm của
tổ chức, cá nhân chỉ in một dòng nên khi có hai hành vi vi phạm thì phải lập hai biên
bản.
- Về quyết định xử phạt, nội dung quyết định xử phạt: được quy định tại Điều 56
Pháp lệnh
Quyết định xử phạt, nội dung của quyết định xử phạt: quy định tại Điều 56 của
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002.
Đây là một trong những điều của Pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung cơ bản theo quan
điểm tạo điều kiện cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt trong việc quyết định
xử phạt nhưng cũng phải bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức (vụ việc vi
phạm, dù phức tạp, cũng không thể quá kéo dài, gây ảnh hưởng không tốt đến sinh
hoạt, đời sống, đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tổ chức). Điều 56
Pháp lệnh quy định ba loại thời hạn: 10 ngày đối với vụ việc đơn giản; 30 ngày đối
với vụ việc phức tạp; đối với vụ việc phức tạp, cần có thời gian xác minh thêm, thì
người có thẩm quyền xử phạt được xin gia hạn thêm 30 ngày nữa. Quá các thời hạn
này, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp
xử phạt trục xuất. Điều 21 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP còn quy định cụ thể các
trường hợp mà quá thời hạn, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định
xử phạt: trường hợp đã quá các thời hạn ra quyết định xử phạt, đã hết thời hạn mà
người có thẩm quyền xử phạt không xin gia hạn hoặc đã xin gia hạn nhưng không
được cấp có thẩm quyền cho phép gia hạn. Quá trình thực hiện pháp luật XPVPHC
đã cho thấy, quy định này là phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, cũng còn ý kiến cho
rằng, thời hạn 30 ngày là quá ít vì nhiều vụ việc cần phải có thời gian để xác minh,
thu thập tài liệu liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa bàn hoặc một số đối tượng
vi phạm hành chính sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đã bỏ đi khỏi địa
phương trong thời gian dài, gây khó khăn cho việc xử lý.
Một khó khăn khi thực thi Miều 56 là việc Pháp lệnh và Nghị định số 134/2003/NĐCP chưa quy định cụ thể thủ trưởng trực tiếp có quyền gia hạn thêm thời hạn ban
hành quyết định xử phạt vi phạm. Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh cần
gia hạn thời hạn ban hành quyết định xử phạt thì cần xin phép Thủ tướng Chính phủ
hay Bộ trưởng? Đây là vấn đề không phức tạp nhưng cũng cần được xem xét và quy
định rõ khi nghiên cứu, xây dựng Luật XLVPHC
d. Về xử lý tang vật, phương tiện bị tịch thu
Trước đây, theo quy định tại Điều 52 Pháp lệnh XLVPHC năm 1995, đối với tang
vật bị tịch thu sung quỹ nhà nước thì người ra quyết định tịch thu có trách nhiệm bảo
quản tang vật, phương tiện và chuyển cho cơ quan tài chính từ cấp huyện trở lên để
cơ quan này lập Hội đồng định giá và tổ chức bán đấu giá. Tuy nhiên, thực tế nhiều
khi phương tiện, tang vật của vụ vi phạm khi định giá để bán đấu giá theo cơ chế nội
bộ đã được đánh giá với mức thấp hơn giá trị thực, gây thất thoát tài sản Do đó, Điều
61 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đã quy định theo hướng: đối với tang vật, phương
tiện vi phạm có giá trị dưới 10 triệu đồng thì người quyết định tịch thu phải chuyển
cho cơ quan tài chính cấp huyện tổ chức bán đấu giá; tang vật, phương tiện vi phạm
có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên thì người quyết định tịch thu phải giao cho Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh để bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Quy
định này đảm bảo tính công khai, khách quan và chính xác trong khi xử lý tang vật,
phương tiện vi phạm bị tịch thu. Tuy nhiên, quy định này cũng còn có điểm hạn chế:
Thứ nhất, làm thế nào xác định được giá trị tang vật, phương tiện vi phạm để chuyển
cho cơ quan tài chính cấp huyện hoặc Trung tâm bán đấu giá cấp tỉnh?; Thứ hai,
trong một số trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu khó vận chuyển
lên cấp tỉnh, nơi có trung tâm bán đấu giá để bán đấu giá (như trường hợp tang vật là
gỗ bị tịch thu). Để giải quyết vướng mắc thứ nhất, Điều 31 Nghị định số
134/2003/NĐ-CP quy định: sau khi tiến hành tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, xét thấy cần tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm mà không xác định
rõ giá trị tang vật, phương tiện đó thì người đã ra quyết định tạm giữ phải mời đại
diện cơ quan tài chính cùng cấp xem xét, đánh giá tang vật, phương tiện vi phạm.
Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm thuộc loại khó xác định hoặc chưa có ý
kiến thống nhất giữa người có thẩm quyền tịch thu và đại diện cơ quan tài chính thì
người có thẩm quyền quyết định tịch thu lập Hội đồng định giá tang vật, phương tiện
vi phạm với sự tham gia của đại diện Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh và đại
diện cơ quan có liên quan để định giá. Nếu trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
thuộc thẩm quyền của người đã ra quyết định tạm giữ thì người đó tiến hành tịch thu
theo quy định; nếu trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vượt quá thẩm quyền tịch
thu của người đó thì phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt. Trị giá
tang vật, phương tiện bị tịch thu đã được xác định là căn cứ để xem xét, quyết định
việc chuyển giao tang vật, phương tiện cho Trung tâm bán đấu giá tài sản cấp tỉnh
hoặc chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện bán đấu giá. Về cơ bản, quy định này
đảm bảo tính chặt chẽ về mặt pháp lý, tuy nhiên tính khả thi cần được cân nhắc thêm
bởi việc mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp hoặc đại diện Trung tâm bán đấu
giá cấp tỉnh đến để định giá là điều khó khăn và nhiều khi không thể thực hiện được.
Để khắc phục một số khó khăn, vướng mắc vừa nêu, khoản 1, Điều 61 Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung Pháp lệnh XLVPHC (2008) đã được sửa đổi theo hướng phù hợp hơn:
đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, trường hợp tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính do người có thẩm quyền của cơ quan trung ương
hoặc của cơ quan cấp tỉnh ra quyết định tịch thu thì giao cho Trung tâm dịch vụ bán
đấu giá cấp tỉnh, nơi cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu đóng
trụ sở để bán đấu giá. Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do
người có thẩm quyền của cơ quan cấp huyện trở xuống ra quyết định tịch thu thì
thành lập Hội đồng bán đấu giá của cấp huyện để bán đấu giá. Việc bán đấu giá tang
vật, phương tiện bị tịch thu được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu
giá. Đối với tang vật, phương tiện bị tịch thu mà không bán được thì cơ quan của
người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu thành lập Hội đồng để thanh lý tài sản
theo quy định của pháp luật. Tiền thu được từ bán đấu giá tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính, sau khi trừ các chi phí theo quy định của pháp luật phải được nộp
vào ngân sách nhà nước qua tài sản mở tại kho bạc nhà nước.
f. Cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC
Đây cũng là một trong những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính. Mặc dù các biện pháp cưỡng chế cũng như thẩm quyền ra
quyết định cưỡng chế đã được quy định cụ thể tại Điều 66 và Điều 67 Pháp lệnh
XLVPHC, nhưng việc cưỡng chế vẫn gặp những khó khăn nhất định do chưa có sự
phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế,
như biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng. Theo ý kiến của nhiều Bộ,
ngành, địa phương thì việc trừ tiền tại ngân hàng gặp khó khăn do các ngân hàng vì
mục đích kinh doanh, để bảo vệ khách hàng nên thường không muốn phối hợp, thực
hiện việc cưỡng chế nộp tiền phạt qua ngân hàng. Mặt khác, cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính là công việc khó khăn, phức tạp, trong khi đó
trình tự, thủ tục cưỡng chế chưa được ban hành cũng là vấn đề gây khó khăn, lúng
túng cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt. Mặc dù Pháp lệnh XLVPHC được ban
hành lần đầu tiên vào năm 1989 (sau đó là các pháp lệnh năm 1995 và 2002) nhưng
mãi đến ngày 18/03/2005, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 37/2005/NĐ-CP
quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC.
Khó khăn khác trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế là cơ quan có thẩm
quyền xử phạt không có lực lượng chuyên trách để thi hành các quyết xử phạt vi
phạm hành chính vì theo quy định tại Điều 67 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và
Nghị định số 37/2005/NĐ-CP thì những người có thẩm quyền ban hành quyết định
cưỡng chế và có nhiệm vụ tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm của mình và của cấp dưới, các cơ quan chức năng của UBND có trách nhiệm
thi hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch UBND cùng cấp theo sự phân công của
Chủ tịch, lực lượng cảnh sát nhân dân chỉ có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn
trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc
quyết định cưỡng chế của cơ quan khác của Nhà nước khi được các cơ quan đó yêu
cầu. Tuy nhiên, quy định này khó khả thi vì cơ quan xử phạt, cơ quan chuyên môn
thuộc UBND không đủ lực lượng để tổ chức cưỡng chế. Việc ban hành quyết định
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực thuế khi đã
áp dụng hết các biện pháp xử phạt như nộp chậm, tạm đình chỉ sử dụng hoá đơn lại
gặp rất nhiều khó khăn trong thực hiện cưỡng chế như: không có một cơ quan
chuyên trách chịu trách nhiệm cưỡng chế thu hồi tiền cho ngân sách nhà nước. Bên
cạnh đó, ngành thuế phải tranh thủ sự ủng hộ của UBND các cấp, của cơ quan bảo
vệ pháp luật cùng phối hợp thực hiện nên quá trình làm có lúc chưa đồng bộ, mất
nhiều thời gian, làm giảm hiệu lực pháp luật trong khi thi hành cưỡng chế. Để khắc
phục tình trạng này, Điều 114 Luật Quản lý thuế quy định xử phạt với mức phạt
tương ứng với số tiền phải nộp của người nộp thuế (bao gồm cả tiền phạt vi phạm
pháp luật về thuế) đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong trường hợp tại thời
điểm trích chuyển, tài khoản tiền gửi của người nộp thuế có số dư đủ hoặc thừa so
với số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải nộp
nhưng ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không thực hiện trích toàn bộ
hoặc một phần tương ứng số tiền phải nộp của người nộp thuế. Tinh thần này cũng
đã được thể hiện trong Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
XLVPHC năm 2002.
III. Hướng hoàn thiện các quy định về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính.
1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động có tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích
của cá nhân, tổ chức nên các quy định mang tính nguyên tắc cần phải được thể hiện
trong các văn bản pháp lý do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành dưới
hình thức Luật hoặc Bộ luật.
Vi phạm hành chính là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nên có thể xảy ra trong
mọi lĩnh vực của nhà nước, vì vậy không nên đặt vấn đề giới hạn lĩnh vực có các
chức danh được trao thẩm quyền xử phạt. Mọi lĩnh vực quản lý nhà nước đều cần có
các chức danh được trao thẩm quyền xử phạt hành chính và áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả.
Quy định về các chức danh có thẩm quyền xử phạt cần áp dụng các quy định theo
hướng mở để đảm bao khi có chức danh mới với vị trí tương đương và phạm vi
quyền hạn, nhiệm vụ tương tự như các chức danh đang hiện hữu thì không nhất thiết
phải sửa đổi, bổ sung.
Quy định về các chức danh có thẩm quyền XPVPHC cũng như hình thức và mức
phạt mà chủ thể có quyền áp dụng phải được thể hiện chủ yếu trong luật (hoặc bộ
luật) về xử lý vi phạm hành chính nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp
luật và bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức.
Cần phân cấp mạnh hơn cho các chức danh có thẩm quyền xử phạt cấp cớ sở bởi
đó là lực lượng chủ yếu kiểm tra, phát hiện vi phạm. Việc tăng thẩm quyền về mức
phạt cho các chức danh này phải được hai mục đích là nâng cao ý thức trách nhiệm,
hiệu quả hoạt động của họ và giảm tải cho các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở
cấp cao hơn.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cần gắn với thẩm quyền áp dụng khắc
phục hậu quả. Nên quy định theo hướng các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với
hành vi vi phạm trong các Nghị định của Chính phủ. Cần có quy định chặt chẽ và cụ
thể về những lĩnh vực và những tình huống mà Chính phủ có thể đặt ra những biện
pháp khắc phục hậu quả khác nhằm khắc phục tình trạng quy định tràn lan như hiện
nay.
Cần giảm bớt các chức danh cùng có thẩm quyền xử phạt đối với một loại hành vi
vi phạm. Cần nghiên cứu khả năng của mỗi loại hành vi vi phạm chỉ nên giao cho
một hoặc hai chức danh có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, trong khi chúng ta tiếp
tục cải cách bộ máy hành chính và phân định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn,giữa các cơ quan trong bộ máy đó thì khả năng trên đó có thể trở thành hiện
thực. Vì vậy, rất cần có những quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính.
2. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
a) Thủ tục đơn giản: thủ tục đơn giản được áp dụng để xử nhanh chóng đối với
một số vụ vi phạm đơn giản rõ ràng, không cần thời gian để xác minh thêm những
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ, an
toàn giao thông đường bộ (đi vào đường cấm, đường một chiều, điều khiển xe may
không có bằng lái). Tuy nhiên, mức tiền được xử phạt theo thủ tục đơn giản cần
được nâng lên, có thể đến 500.000 đồng vì các khung tiền phạt được quy định cho
thủ tục đơn giản là rất ít hoặc không có. Chỉ có một số ít nghị định như Nghị định
150/2005/ NĐ-CP quy định XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
Nghị định 146/2007/NĐ-CP ngày 14/03/2007quy định XPVPHC trong lĩnh vực giao
thông đường bộ có nhiều mức phạt tiền có thể xử phạt theo thủ tục đơn giản. Nếu
không nâng mức tiền xử phạt theo thủ tục đơn giản thì phần lớn các vụ vi phạm sẽ bị
xử phạt theo thủ tục có lập biên bản và như vậy, thủ tục đơn giản có cũng như
không, không đảm bảo yêu cầu cải cách các thủ tục hành chính.
Có ý kiến đề nghị không sử dụng quyết định xủ phạt trong thủ tục đơn giản mà chỉ
cần xử dụng biên bản phạt. Đây cũng là vấn đề cần được xem xét, nghiên cứu bởi
đối với vi phạm nhỏ, rõ ràng, đơn giản thì thủ tục xử phat cần đơn giản. Việc sử
dụng biên lai cho quyết định xử phạt theo thủ tục đơn giản đã từng được quy định tại
Điều 20 pháp lệnh XLVPHC năm 1989 “trong trường hợp xủ phạt vi phạm hành
chính bằng hình thức cảnh cáo, phạt tiền đến 20.000 đồng thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử phạt quyết định phạt tại chỗ. Người bị phạt phải nộp tiền và được
nhận biên lai thu tiền phạt”. Như vậy, trong cải cách hành chính, quyết đinh xủ phạt
vi phạm hành chính có thể khôi phục biên lai thu tiền phạt để giải quyết các vụ việc
vi phạm nhỏ và cần tỉnh lược một số nội dung không cần thiết để đảm bảo tính đơn
giản, gắn gọn mà chặt chẽ.
b) Về thủ tục xử phạt có lập biên bản: Qua thực tiễn thi hành pháp luật về
XPVPHC có một số vướng mắc, khó khăn mà cơ quan, người có thẩm quyền xủ
phạt đã gặp phải như:
+ Về mẫu biên bản và mẫu quyết định xử phạt , mẫu tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm. Nhiều kiến nghị của Bộ, ngành, địa phương đã kiến nghị là không nên tiếp
tục ban hành các loại mẫu, mà nên giao cho các Bộ, ngành, căn cứ vào quy định
pháp luật để ban hành các loại mẫu cho phù hợp với lĩnh vực, ngành mình quản lý
vừa đảm bảo yêu cầu của thực tiễn, vừa đúng pháp luật. Pháp luật chỉ nên quy định
nội dung bắt buộc đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn việc xây dựng
mẫu cụ thể do từng ngành hướng dẫn thực hiện.
+ Về vấn đề cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC và chính sách miễn, giảm tiền
phạt đối với đối tượng nghèo, không có điều kiện nộp phạt. Việc trong thời gian dài,
Nghị định quy định thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC chưa được ban
hành chỉ là một trong những nguyên nhân của kết quả thi hành quyết định XPVPHC
chưa cao. Một nguyên nhân khác là các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và
các phòng ban chuyên môn của UBND cấp huyện nói riêng, cũng như các cơ quan
và người có thẩm quyền xử phạt (ví dụ :Chánh thanh tra, Thanh tra viên cấp Bộ và
cấp Sở) không có lực lượng cưỡng chế. Sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền
trong việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt chưa cao (trên thực tế, các cơ quan
này cũng phải thực hiện nhiemj vụ của mình, ít có điều kiện giúp đỡ, phối hợp với
các cơ quan khác), do đó, kiến nghị của một số cơ quan có thẩm quyền xử phạt về sự
cần thiết tổ chức lực lượng chuyên trách để cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC
là có cơ sở. Để không tăng thêm tổ chức; có thể xem xét, cân nhắc giao thêm nhiệm
vụ này cho các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện. Đối với các địa
bàn là các tỉnh miền núi, vùng nông thôn, trình độ dân trí thấp, ý thức pháp luật còn
hạn chế, đời sống nhân còn nhiều khó khăn, vì vậy việc XLVPHC dưới hình thức
phạt tiền là rất khó thực hieenuj, cơ quan có thẩm quyền xử lý phải chuyển sang hình
thức xủ lý nhẹ hơn để người dân có điều kiện thực hiện như cảnh cáo nên tính răn
đe, ngăn ngừa không cao. Trên cơ sở thực tế vừa nêu trên cần bổ sung quy định
miễn, giảm việc thi hành quyết định XPVPHC bằng hình thức phạt tiền đối với
những trường hợp nghèo khó về kinh tế, không có điều kiện thi hành quyết định xử
phạt vi phạm vi phạm hành chính.
Ngoài ra, cần quy định rõ hơn việc giao quyết định XPVPHC theo hướng: người
được quyền cho phép gia hạn là thủ trưởng trực tiếp của người gia hạn, trường hợp
Chủ tịch UBND cấp tỉnh xin gia hạn thì Bộ trưởng quản lý ngành sẽ là người có
quyền gia hạn, không nhất thiết phải chuyển xin Thủ tướng Chính phủ để xin gia
hạn.
Vấn đề soạn thảo Luật XLVPHC, cần nghiên cứu các nội dung: thứ nhất, cụ thể
hơn thủ tục xử phạt như quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền trong
việc nghiên cứu, làm sáng rõ vụ việc; xác định tính chất,mức độ của vi phạm, nhân
thân người vi phạm để quyết định hình phạt một cách khách quan, chính xác. Thứ
ha, xem xét, quyết định xử lý, người có thẩm quyền phải giải quyết một số vấn đề:
vụ việc có đúng với thẩm quyền xử phạt hay không; biên bản và các tài liệu của vi
phạm đã chính xác hay chưa; các tình tiết loại trừ việc xem xét, xử lý hành chính
(như trường hợp không có dấu hiệu cấu thành trách nhiệm hành chính , người vi
phạm thực hiện vi phạm trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng); trách nhiệm
thu thập chứng cứ để chứng minh vụ vi phạm. Mặt khác, cũng cần bổ sung quy định
về việc đình chỉ việc xem xét, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong một số
trường hợp như: người vi phạm đã chết; vi phạm đã quá thời hiệu xử phạt. Về các
biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt nên bỏ sung quy đinh: trong trường
hợp không nộp tiền phạt đúng thời hạn, cơ quan có thẩm quyền có thể tính thêm
phần trăm (có thể 2% hoặc 3%) phụ thu một ngày trên tổng số tiền phạt.
Việc bổ sung một số nội dung nêu trên là rất cần thiết để xử phạt được tiến hành
chính quy hơn, gớp phần giảm bớt sai sót, qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức được đảm bảo. Mặt khác, cũng cần bổ sung thêm một số quy định
nhằm tằng thêm tính dân chủ trong quá trình xem xét, quyết định xử phạt, như quy
định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng vi phạm hành chính (quyền được xem xét
các tài liệu, hồ sơ vụ việc, giải quyết trình,…) để tăng cường tính dân chủ, công khai
trong quá trình xem xét, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, goáp phần đảm bảo
quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; mặt khác cũng là cơ sở giúp
các cơ quan có thẩm quyền xủ phạt quyết định xử phạt một cách đúng đắn và khách
quan.
IV.KẾT LUẬN:
Qua những đánh giá về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính theo
pháp lệnh XLVPHC năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 đã góp phần làm rõ
hơn nữa những quy định của pháp luật về các vấn đề này. Qua đó thấy được vai tr ò
quan trọng như thế nào trong việc xử lý vi phạm hành chính. Các quy định của pháp
luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính có ý nghĩa rất lớn trong
việc tạo ra cơ chế pháp lý để xem xét, giải quyết các vấn đề, vụ việc xảy ra trên thực
tế một cách nhanh gọn, khách quan và đúng pháp luật. Qua đó nhận ra được những
điểm hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp
luật để tạo điều kiện cho những quy định đó được áp dụng hợp lý trên thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tạp chí luật học số 8/2007. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và
những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành.Thạc sỹ NGUYỄN NGỌC
BÍCH
2. Giáo trình luật hành chính
3.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc xây dựng bộ luật xử lý vi
phạm ĐỖ HOÀNG YẾN. tạp chí nghiên cứu lập pháp số 5/2008.
4. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính thực trạng và hướng hoàn thiện.
TRƯƠNG KHÁNH HOÀN. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 15/2008
5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính – Thực trạng quy định, thực tiễn áp
dụng và hướng hoàn thiện. TS. Trần Minh Hương. Tạp chí Luật số 8/2008.
6. thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những bất cập trong quy định của
pháp luật hiện hành. TS. Nguyễn Ngọc Bích. Tạp chí Luật học số 8/2007.
MỤC LỤC