TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
------***------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
SO SÁNH PHÁP LUẬT HẢI QUAN VIỆT NAM VÀ QUY
ĐỊNH CỦA HIỆP ĐỊNH THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI
CỦA WTO
Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Lớp
Khóa
Người hướng dẫn khoa
học
: Hoàng Thị Thúy Hường
: 1111110541
: Anh 6 – Khối 2 – KT
: 50
: TS. Phan Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
AmCham
APEC
ASEAN
ASW
Tên tiếng Anh
American Chamber of
Commerce
Asia – Pacific Economic
Cooperation
Association of Southeast Asian
Nations
ASEAN Single Window
Tên Tiếng Việt
Phòng Thương mại Hoa Kỳ
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
Cơ chế một cửa ASEAN
BCT
Bộ Công Thương
BGTVT
BTC
Bộ Giao thông Vận tải
Bộ Khoa học công nghệ và môi
trường
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn
Bộ Tài chính
CP
Chính phủ
DNƯT
Doanh nghiệp ưu tiên
Hiệp định chung về Thương
mại và Thuế quan
Hiệp hội Vận tải Hàng không
Quốc tế
Tổ chức Hàng không Dân dụng
Quốc tế
BKHCNMT
BNNPTNT
MFN
General Agreement on Tariffs
and Trade
International Air Transport
Association
International Civil Aviation
Organization
International Chamber of
Commerce
International Maritime
Organization
Most Favoured Nation
NSW
National Single Window
Cơ chế một cửa quốc gia
NT
National Treatment
Organisation for Economic Cooperation and Development
Chế độ đãi ngộ quốc gia
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
GATT
IATA
ICAO
ICC
IMO
OECD
Phòng Thương mại Quốc tế
Tổ chức Hàng hải Quốc tế
Chế độ tối huệ quốc
Chữ viết tắt
Tên tiếng Anh
Tên Tiếng Việt
Small and medium – sized
enterprises
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trade Facilitation Agreement
TTCP
Tổng cục Hải quan
Hiệp định Thuận lợi hóa
Thương mại
Thanh tra Chính phủ
TTg
Thủ tướng Chính phủ
UBTVQH
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
United Nations Centre for
UN/CEFACT Trade Facilitation and
Electronic Business
United Nations Conference on
UNCTAD
Trade and Development
United Nations Economic
UNECE
Commission for Europe
United Nations Economic and
UNESCAP
Social Commission for Asia
and the Pacific
United States Agency for
USAID
International Development
VBQPPL
Trung tâm tạo thuận lợi và
thương mại điện tử của Liên
hiệp quốc
Diễn đàn Thương mại và Phát
triển Liên Hiệp quốc
Ủy ban Kinh tế Châu Âu thuộc
Liên Hiệp Quốc
Ủy ban Kinh tế Xã hội khu vực
châu Á – Thái Bình Dương của
Liên Hiệp quốc
Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa
Kỳ
Văn bản quy phạm pháp luật
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
WCO
World Customs Organization
Tổ chức Hải quan Thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Quốc tế
SMEs
TCHQ
TFA
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
7
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, hội nhập quốc tế đang là xu hướng phát triển tất yếu của mọi
quốc gia. Các thành viên trong các diễn đàn quốc tế và khu vực không ngừng
gia tăng, song hành với số lượng các cam kết được ký kết và triển khai trên
phạm vi thế giới. Trong số các nội dung được đàm phán thành công gần đây
nhất, thuận lợi hóa thương mại đang trở thành chủ đề nóng thu hút sự quan tâm
của dư luận, các nhà hoạch định chính sách trong nước và quốc tế.
Kể từ khi được thành lập năm 1995 với 113 nước tham gia, đến nay Tổ
chức Thương mại Thế giới WTO đã kết nạp 160 quốc gia thành viên; trong đó,
Việt Nam chính thức gia nhập từ tháng 1/2007. Trong suốt quá trình hoạt động,
WTO đã có nhiều nỗ lực trong việc hiện thực hóa các hiệp định, cam kết quốc
tế đạt được trong nội bộ khối.
Sau gần mười năm nỗ lực đàm phán, ngày 25 tháng 11 năm 2014, WTO
đã đạt được đồng thuận giữa các thành viên về việc chính thức thông qua Hiệp
định Thuận lợi hóa Thương mại (TFA). Nội dung chính của Hiệp định bao gồm
các cam kết liên quan đến các biện pháp kỹ thuật về thuận lợi hóa và các điều
khoản về ưu đãi đặc biệt dành riêng cho các nước đang và kém phát triển. TFA
được xây dựng với mục tiêu tạo ra động lực thôi thúc các nước thành viên tham
gia vào tiến trình thuận lợi hóa thương mại, giảm bớt các thủ tục hành chính tại
cửa khẩu, thúc đẩy quá trình di chuyển, giải phóng và thông qua hàng hóa.
Hải quan Việt Nam là lực lượng tiên phong trong tiến trình đổi mới và
hiện đại hóa, là nhân tố tích cực thúc đẩy Việt Nam tham gia hội nhập khu vực
và toàn cầu hóa. Pháp luật Hải quan Việt Nam là nền tảng pháp lý vững chắc để
cán bộ, công chức Hải quan thực hiện tốt nhiệm vụ, đảm bảo an ninh kinh tế,
góp phần vào công cuộc tạo thuận lợi hóa thương mại.
Là một quốc gia đang phát triển tham gia tích cực vào tiến trình hội
nhập sâu rộng với thế giới, Việt Nam cần phải chuẩn bị các điều kiện cần và đủ
8
nhằm đáp ứng các quy định về minh bạch hóa, các điều khoản về phí, thủ tục,
quá cảnh và hợp tác hải quan theo tiêu chuẩn WTO. Vì vậy, rà soát và đối chiếu
các văn bản pháp luật Hải quan Việt Nam hiện hành với nội dung của Hiệp
định Thuận lợi hóa Thương mại mới được thông qua của WTO là việc làm vô
cùng quan trọng và cấp thiết. Do đó, người viết quyết định lựa chọn đề tài “So
sánh pháp luật hải quan Việt Nam và quy định của Hiệp định Thuận lợi hóa
Thương mại của WTO” để nghiên cứu trong thời gian thực hiện bài khóa luận
tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Bài khóa luận được tiến hành với mục tiêu đề xuất một số giải pháp
nhằm thực thi đồng bộ Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO đối với
pháp luật Hải quan Việt Nam trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu này,
người viết đã triển khai và thực hiện bốn nhiệm vụ chính:
Một là, nghiên cứu Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO.
Hai là, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật chính trong hệ thống
pháp luật Hải quan của Việt Nam.
Ba là, so sánh các cam kết trong Hiệp định Thuận lợi hóa thương mại và
các văn bản pháp luật Hải quan Việt Nam tương ứng.
Bốn là, đề xuất giải pháp cho pháp luật Hải quan Việt Nam nhằm thực
hiện Hiệp định Thuận lợi hóa thương mại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài khóa luận tập trung vào hai đối tượng nghiên cứu:
-
Các văn bản quy phạm pháp luật chính về Hải quan của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, mà chủ yếu là Luật Hải quan được Quốc hội thông qua
năm 2014 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2015.
-
Hệ thống văn bản pháp lý của Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO
ban hành ngày 14/7/2014.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
9
Bài luận nghiên cứu nội dung của Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại
của WTO và khía cạnh tạo thuận lợi thương mại của pháp luật Hải quan Việt
Nam. Trong đó, người viết chỉ tập trung vào các văn bản pháp luật vẫn còn
hiệu lực tại thời điểm nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài luận chủ yếu sử dụng phương pháp định tính, tiếp cận vấn đề theo
cách mô tả. Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, người viết có dùng thêm các
công cụ phổ biến như so sánh, liệt kê, tổng hợp, phân tích... và tham khảo
nguồn tài liệu thứ cấp để làm rõ nội dung nghiên cứu.
5. Kết cấu khóa luận
Nội dung bài nghiên cứu gồm ba phần:
-
Chương 1: Giới thiệu về Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO.
Chương 2: So sánh pháp luật Hải quan Việt Nam về thuận lợi hóa thương mại
-
và TFA của WTO.
Chương 3: Đề xuất đối với pháp luật Hải quan Việt Nam nhằm thực thi đồng
bộ Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại.
Tuy đã nỗ lực hết sức để hoàn thiện đề tài nghiên cứu, nhưng người viết
chắc chắn không tránh khỏi một số thiếu sót trong nội dung bài khóa luận, do
hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và tài liệu. Người viết rất hi vọng quý thầy
cô và các độc giả lượng thứ, đóng góp ý kiến để bài nghiên cứu được hoàn
thiện hơn.
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, người viết đã nhận được sự động
viên, chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của Cô giáo, TS. Phan Thị Thu Hiền, giảng
viên khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế. Người viết xin được gửi đến Cô lời
cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất. Ngoài ra, người viết cũng xin bày tỏ lòng
biết ơn tới các Thầy Cô giáo trường Đại học Ngoại Thương đã truyền đạt
những kiến thức quý báu suốt bốn năm học để người viết có thể hoàn thành bài
khóa luận này.
10
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH THUẬN LỢI HÓA
THƯƠNG MẠI CỦA WTO
I.1. Những vấn đề cơ bản về thuận lợi hóa thương mại
Cho đến thời điểm hiện nay, thế giới vẫn chưa có một khái niệm thống nhất
về thuận lợi hóa thương mại. Trong một tài liệu đăng trên website chính thức của
WTO, thuận lợi hóa thương mại (trade facilitation) được hiểu là “việc đơn giản hóa,
hài hòa hóa các thủ tục thương mại quốc tế”. Trong đó, thủ tục thương mại quốc tế
bao gồm những hoạt động, thông lệ và các thủ tục liên quan đến việc thu thập, lưu
chuyển và xử lý số liệu cũng như các thông tin khác liên quan đến việc lưu chuyển
hàng hóa trong thương mại quốc tế (Grainger, 2008).
Có thể thấy, đối tượng của thuận lợi hóa thương mại là các thủ tục thương
mại quốc tế – đây cũng là đối tượng chính của các đàm phán thương mại trong
WTO cũng như nhiều hiệp định thương mại cấp vùng. Mục đích chính của thuận lợi
hóa thương mại là đẩy nhanh quá trình lưu chuyển hàng hóa trong thương mại quốc
tế, đơn giản hóa thủ tục hải quan, tạo sự mình bạch thông tin, cắt giảm thủ tục, hạn
chế quan liêu, mang lại hiệu quả kinh tế.
Nói chung, thuận lợi hóa thương mại được hiểu là việc đơn giản hóa các thủ
tục quản lý, kiểm soát hàng hóa vận chuyển qua biên giới quốc gia nhằm giảm bớt
gánh nặng và các chi phí liên quan, đảm bảo cho các hoạt động giao dịch diễn ra
hiệu quả, minh bạch, thống nhất. Thuận lợi hóa thương mại liên quan đến toàn bộ
quy trình giao dịch quốc tế từ người xuất khẩu đến người nhập khẩu, bao gồm ba
giai đoạn: mua hàng, vận chuyển và thanh toán (Phụ lục 1). Theo đó, thuận lợi hóa
có thể được tiến hành trên nhiều lĩnh vực như quản lý nhà nước, vận tải, công nghệ
thông tin, xây dựng hệ thống thanh toán...
Xét tổng thể, thuận lợi hóa thương mại phải được tiến hành theo ba cấp độ:
quốc tế, khu vực và quốc gia. Tại cấp độ quốc tế và khu vực, cần phát triển các tiêu
chuẩn và ký kết các hiệp định chung. Sau đó, việc thực thi các biện pháp thuận lợi
hóa theo các tiêu chuẩn và hiệp định đã ký kết sẽ diễn ra trên phạm vi quốc gia.
Nhiều biện pháp thuận lợi hóa thương mại yêu cầu các nước phải tiến hành quá
trình cải cách, hiện đại hóa, xây dựng các chương trình quản lý chuyên nghiệp, nâng
cao năng lực chuyên môn.
Một số biện pháp thuận lợi hóa thương mại bao gồm:
11
-
Thiết lập Cơ quan Thuận lợi hóa Thương mại Quốc gia, nhằm đạt được
-
mức độ đối thoại và hợp tác cần thiết.
Công bố các luật lệ, thủ tục, quy trình liên quan đến xuất/nhập khẩu theo
-
cách dễ tiếp cận trong khoảng thời gian hợp lý.
Giảm thiểu, đơn giản hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu, chứng từ do Hải quan
-
và các cơ quan khác yêu cầu.
Hài hòa hóa luật lệ của các cơ quan quản lý biên giới.
Cho phép doanh nghiệp được quyền khiếu kiện khi không đồng ý với
quyết định của cơ quan quản lý biên giới. Thời hạn khiếu kiện phải quy
-
định hợp lý.
Thiết lập các “điểm giải đáp thương mại”, tích hợp mọi thông tin liên
-
quan đến thương mại.
Điều chỉnh giờ hoạt động của các cửa khẩu dựa theo nhu cầu thương mại,
-
linh hoạt trong làm việc ngoài giờ.
Tăng cường phối hợp giữa Hải quan và các cơ quan quản lý khác, nhằm
-
đạt mục tiêu “một cửa”.
Áp dụng cơ chế công nghệ thông tin và truyền thông (Information
Communication Technology – ICT)
Để đánh giá mức độ thuận lợi hóa thương mại ở một quốc gia, OECD đã xây
dựng hệ thống chỉ số thuận lợi hóa (Trade facilitation indicators – TFIs). Thông qua
hệ thống này, các chính phủ các nước đang và kém phát triển có thể đánh giá mức
độ ưu tiên cho các biện pháp thuận lợi hóa và xem xét nhu cầu hỗ trợ kỹ thuật trong
nước. Các chỉ số cụ thể được thể hiện ở Bảng 1.1 dưới đây.
Ngày nay, thuận lợi hóa thương mại đã và đang thu hút nhiều sự chú ý và trở
thành mối quan tâm của nhiều tổ chức. Các tổ chức này bao gồm: Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), Tổ chức Liên Hiệp quốc
về Tạo thuận lợi thương mại và thương mại điện tử (UN/CEFACT), Tổ chức Hàng
không Dân dụng Quốc tế (ICAO), Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA),
Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Phòng Thương mại Quốc tế (ICC)… Ngoài ra,
Ngân hàng Thế giới (WB), Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc
(UNCTAD), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), cũng như các tổ chức
cấp khu vực như Ủy ban Kinh tế Xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương của
Liên Hiệp quốc (UNESCAP) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) đều có những đóng góp quan trọng vào tiến trình thuận lợi hóa
thương mại.
12
Bảng 1.1: Hệ thống chỉ số thuận lợi hóa của OECD
STT
Chỉ số
Nội dung
Cho phép xác định phân loại, xuất xứ, phương
pháp định giá... đối với một số hàng hóa trước
khi hàng đến; các quy định và thủ tục áp dụng
cho xác định trước.
Khả năng khiếu nại, phương thức khiếu nại
quyết định hành chính của cơ quan biên giới.
Hợp tác với các nước láng giềng và nước thứ
ba.
Hợp tác giữa các cơ quan biên giới của một
nước; phân chia quyền kiểm soát giữa các đơn
vị hải quan.
Quy định liên quan đến phí và lệ phí áp dụng
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Trao đổi thông tin dưới dạng điện tử; thủ tục
hải quan điện tử; sử dụng hệ thống quản lý rủi
ro.
Đơn giản hóa chứng từ thương mại; hài hòa
hóa theo các tiêu chuẩn quốc tế; chấp nhận
bản sao.
Tổ chức hợp lý bộ máy quản lý biên giới; thiết
lập điểm tập trung các chứng từ cần thiết (cơ
chế một cửa); kiểm tra sau thông quan;
DNƯT.
Cấu trúc và chức năng của Hải quan; trách
nhiệm giải trình; chính sách đạo đức.
Công bố thông tin thương mại trên mạng
Internet và các điểm giải đáp.
1
Xác định trước
2
Thủ tục khiếu nại
3
Hợp tác – Đối ngoại
4
Hợp tác – Đối nội
5
Phí và lệ phí
6
Thủ tục – Tự động hóa
7
Thủ tục – Chứng từ
8
Thủ tục – Quy trình
9
Quản lý và Công bằng
10
Tính sẵn có của thông tin
11
Sự tham gia của cộng đồng
Tham vấn với doanh nghiệp.
doanh nghiệp
Nguồn: Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD), 2014
I.2. Nguyên tắc và ý nghĩa của thuận lợi hóa thương mại
I.1.1. Nguyên tắc của thuận lợi hóa thương mại
Ngay từ năm 1974, UN/CEFACT đã đưa ra tuyên bố về bốn nguyên tắc của
việc thuận lợi hóa thương mại trong Khuyến nghị số 4. Theo đó, các chương trình
thuận lợi hóa thương mại nên hướng tới sự đơn giản hóa, hài hòa hóa, tiêu chuẩn
hóa và minh bạch hóa các thủ tục thương mại, để quá trình giao dịch trở nên dễ
dàng hơn, nhanh chóng và kinh tế hơn so với trước đó (Grainger, 2008).
Đơn giản hóa được hiểu là quá trình loại bỏ tất cả các yếu tố không cần thiết
và trùng lặp trong các quy trình, thủ tục quản lý. Mục đích của việc đơn giản hóa
13
chính là giảm bớt mức độ phức tạp trong thương mại và các thủ tục hải quan. Đối
tượng của đơn giản hóa không chỉ là các chứng từ cần thiết để thực hiện thông quan
hàng hóa, mà còn bao gồm cả các thủ tục tại các cơ quan quản lý biên giới.
Hài hòa hóa là việc tạo ra sự liên kết giữa pháp luật quốc gia với các công
ước quốc tế, các tiêu chuẩn và thông lệ trên thế giới. Thực hiện hài hóa hóa sẽ tạo ra
tính đồng nhất, liên tục và khả năng tương thích giữa các quốc gia tham gia vào
giao dịch thương mại, giúp thu hẹp sự khác biệt trong pháp luật và chính sách các
nước. Tại cấp độ quốc gia, hài hòa hóa sẽ nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các cơ
quan quản lý. Ở nhiều nước, một số thủ tục không thuộc phạm vi hải quan được đặt
dưới sự bảo trợ của Hải quan, như việc thu thập số liệu thương mại, thu thuế giá trị
gia tăng, áp dụng các biện pháp kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm…
Tiêu chuẩn hóa là quá trình phát triển và áp dụng rộng rãi các thông lệ và thủ
tục, các chứng từ và dạng thông tin đã nhận được sự đồng thuận quốc tế. Lợi ích lớn
nhất của tiêu chuẩn hóa chính là cắt giảm chi phí giao dịch. Các chi phí này thường
phát sinh do định dạng dữ liệu và giao thức trao đổi thông tin trong hệ thống máy
tính không phù hợp. Do đó, tiêu chuẩn hóa hướng tới thỏa thuận các hiệp định quốc
tế về định dạng dữ liệu, mức độ mã hóa thông tin cần thiết để kiểm soát thương mại.
Ngoài ra, tiêu chuẩn hóa cũng chú trọng đến việc thiết lập các mẫu chứng từ giấy.
Tiêu chuẩn hóa đảm bảo tạo ra sự thống nhất trong cách quy định đối với mọi quốc
gia, ngôn ngữ, thể chế; giảm thiểu sai sót khi làm thủ tục và cho phép phát triển các
phần mềm quản lý được áp dụng rộng rãi.
Minh bạch hóa là việc công bố rộng rãi, công khai các thông tin về chính
sách, luật lệ, khiến các thông tin này trở nên rõ ràng, cụ thể và dễ tiếp cận đối với
các bên liên quan. Theo đó, thông tin về các luật lệ, thủ tục phải được cập nhật liên
tục trên các trang thông tin điện tử hoặc phát hành tài liệu giấy. Ngoài ra, các điểm
giải đáp phải cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ các tổ chức, cá nhân có liên quan.
I.1.1. Ý nghĩa của thuận lợi hóa thương mại
Lợi ích của quá trình tiến hành thuận lợi hóa thương mại có thể được đánh
giá thông qua các chi phí giao dịch, gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chí
phí chuẩn bị giấy tờ thông quan, chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí tài chính...
được gọi là chi phí trực tiếp, trong khi chi phí gián tiếp bao gồm các chi phí cơ hội
14
của khoảng thời gian vận chuyển hàng hóa từ người bán đến người mua, có tính đến
các trở ngại có thể phát sinh trong toàn bộ chu trình.
Tiến hành thuận lợi hóa thương mại không những làm giảm chi phí giao dịch
thương mại, mà còn có tác dụng giảm bớt rủi ro tiềm ẩn trong các giao dịch quốc tế.
Theo Ủy ban Kinh tế châu Âu (ECE), khi tham gia vào tiến trình thuận lợi hóa
thương mại, chính phủ và doanh nghiệp đều được hưởng lợi, như được liệt kê tại
Bảng 1.2 dưới đây.
Bảng 1.2: Lợi ích của thuận lợi hóa thương mại
Lợi ích của Chính phủ
Lợi ích của doanh nghiệp
- Tăng hiệu quả kiểm soát
- Tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực và
khai thác tài nguyên
- Tăng lợi nhuận
- Cải thiện quan hệ mua bán
- Tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế
- Thu hút đầu tư nước ngoài
- Giảm chi phí, tiết kiệm thời gian
- Hàng hóa thông quan nhanh hơn do
có sự thống nhất về chính sách
- Đơn giản hóa quá trình trao đổi
thương mại trong nước và quốc tế
- Tăng năng lực cạnh tranh
Nguồn: Economic Commission for Europe (ECE), 2002
Trong trung và dài hạn, thuận lợi hóa thương mại có thể đem đến bốn lợi ích
cơ bản: (i) tăng cường năng lực cạnh tranh trong thương mại, (ii) gia tăng sức thu
hút đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, (iii) khuyến khích các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tham gia vào giao dịch quốc tế, (iv) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc tế
(ADB & ESCAP 2013). Việc cắt giảm tệ quan liêu, loại bỏ các rào cản kỹ thuật, cải
thiện cơ sở hạ tầng và thủ tục hải quan còn làm tăng năng suất lao động và thu nhập
quốc dân. Theo Hufbauer và các cộng sự (2013), khi thực hiện thuận lợi hóa thương
mại, GDP thế giới sẽ tăng thêm xấp xỉ 960 tỷ USD. Trong đó, phần tăng thêm tại
các nước đang phát triển chiếm 55% (520 tỷ USD), các nước phát triển được hưởng
45% (440 tỷ USD).
I.3. Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO
I.3.1. Giới thiệu về Tổ chức Thương mại thế giới
Tên đầy đủ của WTO là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization). WTO kế thừa sứ mệnh và phát triển các quy định của Hiệp định
chung về Thương mại và Thuế quan GATT 1947; sự thành lập WTO là kết quả trực
tiếp của Vòng đàm phán Uruguay. WTO chính thức ra đời và đi vào hoạt động từ
15
ngày 1/1/1995; kể từ đó đến tháng 6/2014 đã kết nạp 160 thành viên, bao gồm các
quốc gia và vùng lãnh thổ tự trị.
WTO hoạt động theo bốn nhiệm vụ nòng cốt sau. Thứ nhất, thúc đẩy việc
thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ WTO, có tính đến
các cam kết trong tương lai nếu có. Thứ hai, tạo các diễn đàn để các thành viên tiếp
tục đàm phán, ký kết những Hiệp định, cam kết mới về tự do hóa và tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại. Thứ ba, thương lượng, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên WTO trong quá trình hoạt động
thương mại, kinh doanh quốc tế. Thứ tư, rà soát định kỳ nội dung các chính sách
thương mại của các quốc gia thành viên.
Một nội dung nữa cần chú ý khi nghiên cứu về WTO là năm nguyên tắc hoạt
động cơ bản của tổ chức này. Theo đó, các chính sách, hiệp định đều phải tuân thủ
đúng các điều sau: Một là, hoạt động thương mại phải được tiến hành một cách
công bằng, không phân biệt đối xử thông qua chế độ tối huệ quốc (MFN) và chế độ
đãi ngộ quốc gia (NT). Tuy nhiên, WTO cho phép một số trường hợp ngoại lệ được
miễn trừ áp dụng quy định về MFN, điển hình là các hiệp định thương mại tự do
trong khối. Hai là, phát triển theo hướng tự do hơn cho thương mại, kinh doanh
quốc tế theo hướng giảm thiểu và từng bước loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế
quan. Các nước thành viên vẫn được áp dụng hạn ngạch nhập khẩu khi gặp khó
khăn về cán cân thanh toán, trình độ phát triển kinh tế thấp hoặc lý do đặc biệt về
môi trường, an ninh quốc gia… Ba là, tiến hành thương mại quốc tế trên cơ sở ổn
định, minh bạch, công khai nhờ yêu cầu các cam kết quốc tế phải có tính ràng buộc,
chính sách và pháp luật quốc gia phải được công bố rộng rãi trên phạm vi toàn quốc
hoặc thông báo cho WTO. Bốn là, chủ trương tăng cường cạnh tranh lành mạnh,
công bằng, đưa giá cả và chất lượng trở thành hai yếu tố chính quyết định việc mua
bán hàng hóa, hạn chế các biện pháp bảo hộ thương mại. Năm là, giành sự ưu đãi
đặc biệt cho các quốc gia đang và kém phát triển, khuyến khích các nước này phát
triển và cải cách nền kinh tế.
Có thể nói, chương trình thuận lợi hóa thương mại đáp ứng một trong các
nhiệm vụ cơ bản của WTO, phù hợp với các nguyên tắc làm việc của tổ chức này đã
được đề ra trước đó.
16
I.3.2. Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại của WTO
I.3.2.1. Quá trình đàm phán
Ý tưởng về thuận lợi hóa thương mại đã được các thành viên WTO bắt đầu
thảo luận tại Hội nghị Bộ trưởng Singapore năm 1996. Theo đó, Hội đồng Thương
mại Hàng hóa được chỉ thị “thực hiện các công việc thăm dò và phân tích… về đơn
giản hóa các thủ tục thương mại để đánh giá phạm vi quy định của WTO trong lĩnh
vực này”. Tuy nhiên, nhiều nước đang và kém phát triển vẫn chưa sẵn sàng. Họ cho
rằng chưa đủ khả năng thực hiện thêm một hiệp ước quốc tế nữa sau vòng Uruguay,
và chỉ ủng hộ thiết lập các quy định không ràng buộc. Các cuộc thảo luận diễn ra
sau đó chủ yếu tập trung vào xác định phạm vi của thuật ngữ “thuận lợi hóa thương
mại”, từ đó phân định rõ ràng vai trò của WTO so với các tổ chức liên chính phủ
khác như WCO, WB hay Liên hợp quốc (Neufeld 2014).
Sau cùng, phạm vi thuận lợi hóa thương mại trong WTO được thu hẹp lại
trong Điều V, VIII và X của GATT nhờ những nỗ lực của Nhóm Colorado tại Hội
nghị Seattle năm 1999. Tuy vậy, việc đưa Thuận lợi hóa thương mại trở thành luật
có tính chất ràng buộc vẫn chưa đi đến thành công (Neufeld 2014). Sau thất bại
nhanh chóng tại Hội nghị Seattle, nhóm Colorado liên tục vấp phải sự phản đối của
Nhóm nòng cốt – liên minh các nước đang phát triển không ủng hộ việc thực hiện
hiệp định mới. Việc đàm phán liên tục lâm vào bế tắc và nhiều lần bị trì hoãn, tốn
nhiều thời gian và công sức thương lượng của các bên tham gia.
Vào tháng 11/2001, tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ tư tại Doha, các Bộ
trưởng nhất trí rằng đàm phán về thuận lợi hóa thương mại sẽ diễn ra sau Hội nghị
Bộ trưởng lần thứ năm tại Cancun tháng 9/2003. Nhiệm vụ này đã được gia hạn sau
khi Đại Hội đồng quyết định theo đồng thuận tuyệt đối, sẽ tiến hành đàm phán trên
cơ sở các thể thức đã thỏa thuận của các thành viên WTO (Neufeld 2014).
Qua nhiều vòng thỏa thuận, Nhóm Colorado và Nhóm nòng cốt cuối cùng đã
đạt được tiếng nói chung thông qua việc đưa thuận lợi hóa thương mại trở thành
một nội dung thỏa thuận trong “Gói tháng Bảy”. Ngày 15 tháng 11 năm 2004, kế
hoạch đàm phán đã được thông qua ngay từ cuộc họp đầu tiên của Ủy ban đàm
phán, kể từ đó các cuộc họp bàn chính thức diễn ra thường xuyên nhằm xây dựng
các điều khoản cụ thể của hiệp định. Bên cạnh đó, các thành viên WTO có quyền
17
gửi các văn bản đề nghị, nhằm làm rõ và phát triển Điều V (Tự do quá cảnh), Điều
VIII (Phí và các thủ tục xuất nhập khẩu) và Điều X (Công bố và minh bạch hóa
thông tin) của GATT.
Tại hội nghị Bộ trưởng lần thứ 9 diễn ra tại Bali, Indonesia, sơ thảo hiệp định
đã đạt được sự đồng thuận của các bên tham gia đàm phán. Trong đó, Nghị định thư
về thực thi TFA sẽ được thông qua không muộn hơn ngày 31/7/2014, và hạn chót để
thực hiện TFA đầy đủ là ngày 31/7/2015.
Tuy nhiên, tại phiên họp Đại Hội đồng WTO tháng 7/2014, TFA không thể
được thông qua do vấp phải sự phản đối của Ấn Độ. Nguyên nhân xuất phát từ một
điều khoản trong Gói thỏa thuận Bali về nông nghiệp được thông qua cùng lúc với
TFA có thể ảnh hưởng đến việc trợ cấp nông nghiệp của chính phủ Ấn Độ. Bên
cạnh đó, việc chấp thuận Hiệp định sẽ khiến Ấn Độ phải chấp nhận sự giám sát
quốc tế đối với các sản phẩm thuộc diện dự trữ lương thực quốc gia, gây khó khăn
khi nước này muốn bổ sung các loại hạt khác vào danh mục này (Thái Sơn 2014).
Quan điểm của Ấn Độ vấp phải sự phản đối công khai của hầu hết thành viên WTO,
trong đó có Mĩ và Nhật Bản.
Trước nguy cơ đình trệ Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại sau hơn mười
năm đàm phán, Mĩ và Ấn Độ đã có cuộc thảo luận để phá vỡ thế bế tắc. Trong tuyên
bố ngày 13/11/2014, Mĩ xác nhận hai bên đã đi đến thỏa thuận, theo đó các chương
trình an ninh lương thực của Ấn Độ sẽ không bị phạt theo những quy định của
WTO “cho đến khi một giải pháp lâu dài về vấn đề này được nhất trí và thông qua”
(Thông tấn xã Việt Nam, 2014). Quyết định này đã được Đại Hội đồng WTO thông
qua trong cuộc họp ngày 25/11/2014, cùng với toàn bộ gói Bali, bao gồm Hiệp định
Thuận lợi hóa Thương mại khi tất cả các thành viên bỏ phiếu thuận.
Ngày 27/11/2014, WTO thông qua Nghị định thư sửa đổi Hiệp định Thành
lập WTO. Nhờ vậy, TFA trở thành hiệp định chính thức thuộc Phụ lục 1A GATT
1994, trong Hệ thống các Hiệp định bắt buộc của WTO. Ngay sau đó, Hong Kong
trở thành quốc gia đầu tiên trong số 160 thành viên WTO phê chuẩn Nghị định thư.
Ba thành viên tiếp theo chính thức phê chuẩn là Singapore (8/1/2015), Hoa Kỳ
(23/1/2015) và Mauritius (5/3/2015).
Như vậy, trải qua gần một thập kỷ kể từ khi bắt đầu đàm phán cho đến khi
được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận, Hiệp định Thuận lợi hóa thương mại
đã chuyển sang giai đoạn thứ hai – chờ đợi các nước thành viên chấp nhận tham gia.
18
Sau khi được hai phần ba số quốc gia thông qua, Hiệp định sẽ chính thức có hiệu
lực và mang tính ràng buộc với các nước đã ký kết.
I.3.2.2. Nội dung cơ bản của TFA
TFA gồm ba phần chính (Phụ lục 2). Phần một của TFA gồm 12 điều khoản
liên quan đến các biện pháp kỹ thuật, như việc thúc đẩy quá trình di chuyển, giải
phóng, thông quan hàng hóa, kể cả hàng hóa quá cảnh. Quy định về hợp tác hải
quan cũng được đặt trong phần này.
Nội dung của phần I có thể chia thành bốn nhóm lớn. Trong đó, nền tảng của
ba nhóm đầu chính là một số quy định của Hiệp định chung về Thương mại và Thuế
quan GATT 1994. Nhóm thứ nhất – gồm năm điều đầu tiên – được phát triển từ
Điều X GATT về minh bạch trong công bố và quản lý các quy tắc thương mại. Các
điều khoản từ 6 đến 10 thuộc nhóm thứ hai, làm rõ vấn đề phí và những thủ tục liên
quan đến xuất nhập khẩu đã được quy định trong Điều VIII của GATT. Điều V về
quyền tự do quá cảnh là cơ sở cho Điều 11 của TFA – tức nhóm ba. Tuy nhiên, TFA
không làm giảm các nghĩa vụ quy định trong GATT; Điều V, VIII và X của GATT
vẫn có hiệu lực cùng với quy định của TFA. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa
hai hiệp định này, các điều khoản của TFA sẽ được áp dụng. Nhóm cuối cùng bao
gồm Điều 12, với nội dung hợp tác hải quan trong tiến trình tạo thuận lợi hóa
thương mại.
Phần hai của Hiệp định chứa 10 điều khoản đặc biệt và khác biệt dành riêng
cho các nước đang và kém phát triển. Các thành viên WTO thuộc diện này phải dựa
trên đặc điểm riêng của quốc gia mình để tự quyết định thời hạn thực hiện các điều
khoản thông qua việc xếp chúng vào nhóm A, B hay C. Trong đó, nhóm A được
định nghĩa là các quy định mà thành viên đang phát triển phải thực hiện ngay khi
Hiệp định có hiệu lực. Các quốc gia kém phát triển được quyền thực hiện trong
vòng một năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Nhóm B dành cho các nước đang hoặc
kém phát triển, gồm các những điều khoản phải thi hành sau thời hạn quá độ sau khi
Hiệp định có hiệu lực. Nhóm C chứa các điều khoản mà thành viên đang hoặc kém
phát triển phải thực hiện sau một khoảng thời gian quá độ sau khi Hiệp định có hiệu
lực, đi kèm yêu cầu được hỗ trợ về xây dựng năng lực.
19
Phần ba của Hiệp định gồm điều khoản liên quan đến thỏa thuận thể chế và
điều khoản cuối cùng, như thiết lập Ủy ban tạo thuận lợi thương mại tại WTO, yêu
cầu các thành viên duy trì một ủy ban quốc gia hoặc chỉ định cơ chế hiện có để tạo
thuận lợi cho hợp tác nội địa và thực hiện Hiệp định.
Có thể nói, nội dung chủ yếu của TFA bao gồm các quy định có tính thực tế
cao, liên quan đến việc cải thiện hiệu quả công tác hải quan và tuân thủ pháp luật
hải quan thông qua các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật và các sáng kiến nâng cao năng
lực hải quan, chủ yếu hướng tới đối tượng là các quốc gia đang và kém phát triển.
Cấu trúc của Hiệp định được chia thành ba phần rất rõ ràng, hợp lý, thuận tiện cho
việc tra cứu và sử dụng.
I.3.2.3. Lộ trình thực hiện TFA
Theo Quyết định Bộ trưởng Bali (WTO, 2013), lộ trình được vạch sẵn cho
TFA bao gồm các giai đoạn: (i) Đồng thuận về lời văn của TFA, (ii) Thành lập Ủy
ban lâm thời nhằm rà soát pháp lý TFA, áp dụng Nghị định thư sửa đổi, mở Nghị
định thư để được chấp nhận, (iii) Các nước đang phát triển nộp các biện pháp Nhóm
A, (iv) Tổ chức thực hiện.
Đến thời điểm này, WTO đã hoàn tất việc đưa TFA thành một phần của Phụ
lục A1 (Các Hiệp định thương mại đa phương về hàng hóa) thuộc Hiệp định WTO.
Sau khi xây dựng nội dung Hiệp định và nhận được sự đồng thuận của các thành
viên, Hiệp định mới phải được đưa vào Hiệp định WTO thông qua việc: (1) sửa đổi
Phụ lục 1,2 hoặc 3 hoặc (2) tham chiếu trực tiếp đến Điều II của Hiệp định thành
lập WTO.
Tuy nhiên, bước xác thực lời văn và chấp thuận vẫn chưa xảy ra sau gần
mười năm kể từ khi bắt đầu đàm phán. Việc xác thực sẽ được thực hiện khi các
nước thành viên tiến hành rà soát hệ thống pháp lý nội bộ và thông qua Nghị định
thư sửa đổi. Chấp thuận diễn ra khi các quốc gia phê chuẩn và tiến hành truyền
thông về việc chấp nhận trong nước cho WTO. TFA chỉ có hiệu lực sau khi được hai
phần ba thành viên WTO chấp thuận.
Trong lộ trình này, các nước đang và kém phát triển nhận được sự đối xử ưu
đãi so với các nước phát triển, như một phần không thể thiếu của WTO. Theo đó,
các quốc gia này được thực hiện cam kết trong thời gian lâu hơn với mức nghĩa vụ
20
nhẹ hơn. Đồng thời, các nước này cũng nhận được sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tài
chính từ WTO, các tổ chức quốc tế và thành viên thuộc nhóm nước phát triển.
Đối với các nước đang phát triển, lộ trình thực hiện Hiệp định Thuận lợi hóa
Thương mại bao gồm các giai đoạn sau: Trước khi thông qua Nghị định thư, các
nước này phải thông báo cam kết Nhóm A đến WTO. Trước khi TFA có hiệu lực
(tức trước khi hai phần ba số thành viên chấp thuận tham gia), phải thực hiện các
cam kết Nhóm A, thông qua việc triển khai nội dung cam kết và có cơ chế rà soát,
báo cáo kết quả thực hiện với Ủy ban Tạo thuận lợi thương mại. Sau khi hoàn tất,
phải thông báo cam kết Nhóm B và C, chỉ rõ thời gian sẽ thực hiện các cam kết này.
Cũng trong thời gian này, phải thông báo cho Ủy ban Tạo thuận lợi thương mại về
kế hoạch thực hiện các cam kết Nhóm C. Trong vòng một năm kể từ khi TFA có
hiệu lực, thông báo thời gian bắt buộc phải thực hiện các cam kết Nhóm B. Nếu gặp
khó khăn hoặc chưa sẵn sàng, thành viên có thể yêu cầu gia hạn thời gian thông
báo. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển phải thông báo cho Ủy ban Tạo thuận
lợi thương mại về việc thực hiện các kế hoạch đã nêu ở giai đoạn trước. Tiếp đó,
trong vòng hai năm rưỡi kể từ khi TFA chính thức có hiệu lực, phải thông báo thời
gian bắt buộc để thực hiện các cam kết Nhóm C và cung cấp các thông tin cần thiết
cho Ủy ban về tiến trình cung cấp hỗ trợ.
Đối với các nước kém phát triển, quá trình thực hiện Hiệp định Thuận lợi hóa
Thương mại gần như kéo dài gấp đôi so với thời gian cần thiết cho các quốc gia
đang phát triển. Trước khi thông qua Nghị định Thư, các nước kém phát triển phải
cam kết sẽ tham gia TFA với WTO. Trong vòng một năm kể từ khi TFA có hiệu lực,
phải thông báo cam kết Nhóm A, B và C cho WTO, trong đó có thể chỉ rõ thời gian
sẽ thực hiện các biện pháp Nhóm B. Trong vòng một năm kể từ khi có TFA có hiệu
lực, phải thông báo xác nhận lại các cam kết thuộc Nhóm B và thời gian xác định
thực hiện, cùng với đó là việc thông báo về các cam kết Nhóm C. Trong vòng bốn
năm rưỡi kể từ thời gian chính thức có hiệu lực của TFA, phải thông báo các thỏa
thuận nhận hỗ trợ kỹ thuật và thời hạn xác định nhận được các hỗ trợ đó. Trong
vòng năm năm rưỡi kể từ khi TFA có hiệu lực, phải thông báo tiến trình nhận hỗ trợ
và công bố thời gian bắt buộc phải thực hiện các cam kết Nhóm C.
21
I.1.1.1. Ý nghĩa của TFA
I.1.1.1.1. Đối với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại ra đời là sự kiện có ý nghĩa lớn đối với
WTO. Việc TFA được thông qua đã khẳng định vị thế quan trọng của WTO trong
quá trình kết nối các nền kinh tế trên thế giới. Có thể nói, với số thành viên đông
đảo (160/196 quốc gia trên thế giới), WTO chịu trách nhiệm điều chỉnh thương mại
toàn cầu, đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển của thương mại
quốc tế. Cùng với sự chính thức hóa TFA, WTO đã nâng cao uy tín, duy trì niềm tin
đối với các thành viên vào vai trò của mình, đặc biệt là sau nhiều năm trì trệ, bế tắc
của Vòng Doha. TFA chính là bằng chứng của WTO về khả năng thực hiện hệ
thống thương mại đa phương toàn cầu, trong bối cảnh các thỏa thuận mậu dịch tự
do song phương và đa phương gia tăng mạnh mẽ.
Hiệp định Thuận lợi hóa Thương mại được ký kết đánh dấu kết quả, sự nỗ
lực không ngừng của các thành viên, Ban Thư ký cũng như Nhóm Colorado trong
việc cải thiện tình hình kinh tế thế giới, thương mại quốc tế và toàn cầu hóa. Lần
đầu tiên kể từ khi thành lập WTO, một hiệp định đa phương được thông qua dưới sự
đồng thuận của tất cả thành viên. Thành công này có được nhờ quá trình nỗ lực
không mệt mỏi của nhiều tổ chức và cá nhân, mà trực tiếp nhất là Ủy ban Đàm phán
và Nhóm Colorado. Bên cạnh đó, Hiệp định được xây dựng dựa trên sự đóng góp
tích cực của các nước thành viên, thông qua hàng trăm bản đề xuất được Ban Thư
ký tổng hợp lại, tạo thành cơ sở làm việc của Nhóm Đàm phán.
Bên cạnh đó, TFA được dự đoán sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng thương
mại quốc tế, thúc đẩy các nước đang và kém phát triển tham gia tích cực hơn vào
tiến trình thương mại. Theo tính toán của WTO, áp dụng và thực thi TFA sẽ cắt
giảm cho các quốc gia thành viên một tỷ lệ không nhỏ trong chi phí thương mại,
góp phần tiết kiệm nguồn lực, giảm bớt lãng phí. Trong đó, nếu áp dụng đầy đủ tất
cả các điều khoản của TFA, các nước thu nhập thấp sẽ tiết kiệm được 14,1% tổng
chi phí, trong khi nhóm nước thu nhập trung bình thấp và nhóm nước thu nhập
trung bình cao sẽ cắt giảm được lần lượt 15,1% và 12,9%. Thêm vào đó, doanh thu
từ hoạt động xuất khẩu nhờ triển khai TFA ước tính sẽ tăng thêm khoảng 33 tỷ đến
100 tỷ USD mỗi năm, GDP thế giới được bổ sung thêm 67 tỷ (OECD, 2014).
22
I.1.1.1.2. Đối với các quốc gia
Đối với các quốc gia, TFA tạo ra cơ hội hợp tác và nhận hỗ trợ từ cộng đồng
quốc tế trong tiến trình phát triển kinh tế và thương mại. Thông qua TFA, các quốc
gia đang và kém phát triển có cơ hội khai thác tối đa ưu đãi từ các điều khoản đối
xử đặc biệt và khác biệt, trong đó có việc yêu cầu sự trợ giúp xây dựng năng lực từ
các tổ chức quốc tế hoặc các thành viên phát triển hơn. Ngoài WTO, các tổ chức
quốc tế tham gia vào tiến trình thực hiện TFA bao gồm: Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế (OECD), Hội nghị Liên Hiệp quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD), Ngân hàng Thế giới (WB), Ủy ban Kinh tế Châu Âu thuộc Liên Hiệp
quốc (UNECE), Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO)… Bên cạnh đó, các thành viên
đang và kém phát triển còn được cung cấp hỗ trợ từ nhiều quốc gia đóng vai trò tài
trợ, như Mĩ, Australia, Canada, Nhật Bản và các thành viên Liên minh Châu Âu…
Đối với những nước đang và kém phát triển, TFA còn tạo ra cơ hội thâm
nhập và phát triển thương mại với các nền kinh tế phát triển. Tại các nước quốc gia
này, phần lớn các thủ tục, quy trình thương mại đều rất phức tạp, tiêu tốn nhiều thời
gian, tiền bạc của các thành phần kinh tế. Do đó, quá trình hiện đại hóa các thủ tục
hải quan tại biên giới và cải thiện hạ tầng kỹ thuật sẽ làm tăng kim ngạch xuất khẩu
của các nước đang và kém phát triển ra nước ngoài, góp phần tăng độ mở của nền
kinh tế (OECD, 2005).
Thông qua TFA, môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện, đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài thường tìm kiếm
những quốc gia có thủ tục hải quan nhanh chóng, minh bạch, ổn định và mức phí, lệ
phí rẻ. Theo Hội nghị Bàn tròn Châu Âu của các nhà công nghiệp (OECD, 2005),
hơn một phần năm số doanh nghiệp được khảo sát không đầu tư vào các nước đang
phát triển có cơ chế hải quan kém thuận lợi. Bốn phần năm trong số này sẵn sàng
đầu tư mới hoặc gia tăng số vốn cho những quốc gia thực hiện các biện pháp tạo
thuận lợi hóa thương mại. Có thể nói, việc giảm thiểu thời gian thông quan hàng
hóa, cắt giảm chi phí làm thủ tục hải quan và hoàn thiện hệ thống vận tải chính là
nhân tố tăng mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư tại các nước đang và kém phát
triển.
Thực hiện các biện pháp tạo thuận lợi hóa thương mại trong TFA có thể nâng
cao vị thế trên trường quốc tế của các nước đang và kém phát triển. Ngoài việc cắt
23
giảm chi phí thương mại, TFA còn giúp tăng hiệu quả giao dịch, tạo ra hơn 1,25
nghìn tỷ USD mỗi năm, đóng góp thêm 18 triệu việc làm ở các nước đang phát triển
(Nguyễn Huế, 2014). Ngoài ra, TFA góp phần gia tăng ngân sách nhà nước thông
qua việc giảm thiểu buôn lậu, tham nhũng trong lĩnh vực hải quan. Nhờ áp dụng
điều khoản của Hiệp định, chất lượng công tác phòng chống buôn lậu và gian lận
thương mại gia tăng, hạn chế các vụ khai báo sai giá trị, hàng giả hàng nhái, tham
nhũng, trốn thuế… góp phần thu đúng, thu đủ thuế xuất nhập khẩu cho ngân sách
nhà nước.
Như vậy, chương 1 của bài khóa luận đã làm rõ một số thuật ngữ cơ bản, các
vấn đề liên quan đến thuận lợi hóa thương mại và giới thiệu chung về Hiệp định
Thuận lợi hóa Thương mại của WTO. Trong phần tiếp theo, người viết sẽ đưa ra
một cái nhìn tổng quát về pháp luật Hải quan Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ so sánh
giữa pháp luật Việt Nam về thuận lợi hóa thương mại và các cam kết được quy định
trong phạm vi phần I TFA.
24
CHƯƠNG 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT HẢI QUAN VIỆT NAM
VỀ THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI VÀ TFA CỦA WTO
I.4. Giới thiệu về pháp luật Hải quan Việt Nam
I.4.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống
pháp luật Hải quan Việt Nam
Hệ thống pháp luật Hải quan Việt Nam gắn liền với sự ra đời và phát triển
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nói chung và Hải quan Việt Nam
nói riêng. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 27 – SL ngày 10/9/1945,
thành lập Sở thuế quan và thuế gián thu – tiền thân của ngành Hải quan sau này.
Thời kỳ đầu, Hải quan Việt Nam phải tạm thời sử dụng những quy định về thuế
quan của thực dân Pháp để thực hiện các nghiệp vụ về thuế. Nhiệm vụ của Sở thời
gian này chỉ tập trung vào việc thu các loại thuế, bổ sung cho ngân sách nhà nước
và đấu tranh bảo vệ chủ quyền về thuế quan và ngoại thương. Các Sắc lệnh số 27
(27/SL) và Sắc lệnh số 28 (28/SL) là cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của Sở
Thuế quan và Thuế gián thu trong những ngày đầu thành lập.
Ngày 27/2/1960, Chính phủ ban hành Điều lệ Hải quan thông qua Nghị định
03/CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Sự ra đời của Điều lệ Hải quan đánh dấu
một bước phát triển quan trọng đối với Hải quan Việt Nam. Lần đầu tiên, Hải quan
Việt Nam tự xây dựng khuôn khổ pháp lý độc lập, không còn lệ thuộc vào hệ thống
quy định hải quan của chế độ thực dân cũ. Điều lệ Hải quan còn tạo ra chuyển biến
mới, chuyển từ hoạt động phân tán sang hoạt động chính quy, có sự chỉ đạo thống
nhất. Đồng thời, phạm vi nhiệm vụ hải quan được mở rộng, công tác giám sát chống
buôn lậu được đặt lên hàng đầu.
Pháp lệnh Hải quan được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 20/2/1990, có
hiệu lực từ ngày 1/5/1990 cho thấy sự vận động của ngành Hải quan khi đất nước
bước vào thời kỳ hội nhập. Pháp lệnh gồm 51 điều, chia thành 8 chương, thể hiện
quan điểm đổi mới của Đảng, kế thừa kinh nghiệm hoạt động, xây dựng Hải quan
Việt Nam gần nửa thế kỷ trước đó. Pháp lệnh trở thành VBQPPL có giá trị pháp lý
cao nhất trong việc điều chỉnh các hoạt động thuộc lĩnh vực Hải quan từ năm 1990.
25
Nhằm đáp ứng nhu cầu đất nước trong thời kỳ mới, toàn ngành Hải quan tập
trung xây dựng một văn bản luật thống nhất, thay thế cho Pháp lệnh Hải quan đã cũ
và không còn phù hợp. Ngày 29/6/2001, Quốc hội đã ban hành Luật Hải quan. Sự ra
đời của Luật Hải quan đã củng cố cơ cấu tổ chức Hải quan theo hướng tập trung,
thống nhất, hoạt động có thực quyền, phù hợp với bối cảnh mới. Thông qua Luật
Hải quan, nhu cầu minh bạch hóa, công khai hóa các văn bản trong hệ thống pháp
luật hải quan được thỏa mãn, góp phần điều chỉnh mối quan hệ pháp luật ngày càng
phong phú, chuyên sâu trong lĩnh vực Hải quan.
Luật Hải quan đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung để cải thiện tính phù hợp
với từng thời kỳ. Ngày 14/6/2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải
quan được ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Sau 8 năm thực
hiện, mới đây nhất Luật Hải quan đã được Quốc hội thông qua ngày 23/6/ 2014, có
hiệu lực từ ngày 1/1/2015. Hiện nay, Luật Hải quan 2014 được coi là văn bản pháp
luật nòng cốt, làm nền tảng cho khuôn khổ pháp lý của Hải quan Việt Nam.
I.4.2. Thuận lợi hóa thương mại trong pháp luật Hải quan Việt
Nam
I.4.2.1. Mục tiêu của Chính phủ và Hải quan Việt Nam
Chiến lược phát triển của Chính phủ đặt ra cho Hải quan Việt Nam đến năm
2020 quán triệt bốn quan điểm lớn. Thứ nhất, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước. Thứ hai, tạo thuận lợi thương mại, tăng cường quản lý nhà
nước về pháp luật hải quan. Thứ ba, hiện đại hóa hải quan tại các vùng, miền trọng
điểm. Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, lấy ngành Hải
quan làm nòng cốt.
Thông qua nhiệm vụ về thuận lợi hóa thương mại, Chính phủ đã xây dựng ba
mục tiêu tổng quát cho quá trình phát triển của Hải quan Việt Nam thống nhất với
nhiệm vụ này. Một là, phát triển Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách
đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế. Hai
là, ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi
phương thức quản lý rủi ro đạt trình độ các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam
Á. Ba là, xây dựng lực lượng Hải quan có trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, hoạt động
hiệu quả, góp phần tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp.