Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Phân tích những quy định về nhóm tội Thập ác trong pháp luật phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.73 KB, 6 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................. 1
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG............................................................................................................................. 2
I. Nộidung nhóm tội Thập ác trong pháp luật phong kiến Việt Nam........................................2
1. Các tội thập ác................................................................................................................ 2
2, Đặc điểm......................................................................................................................... 3
II. Đánh giá các quy định về nhóm tội thập ác........................................................................4
C. KẾT LUẬN............................................................................................................................. 6

A. MỞ ĐẦU
Trong suốt quá phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam, luật pháp đã từng
bước được ghi nhận mà đỉnh cao là bộ luật Hồng Đức và Quốc Triều hình luật.
Pháp luật từng thời kì đã có những quy định khác nhau trong từng lĩnh vực như
dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình…Trong đó, phải kể đến chế định về tội phạm
1


mà trước hết là nhóm tội thập ác, nhóm tội thường được nhắc đến như: “Thập ác
bất xá”. Vậy nhóm tội thập ác là gì?Quy định về nhóm tội này trong pháp luật
phong kiến như thế nào? Để làm rõ vấn đề này, em xin được nghiên cứu đề tài số
9: “Phân tích những quy định về nhóm tội Thập ác trong pháp luật phong kiến
Việt Nam”.
B. NỘI DUNG
I. Nộidung nhóm tội Thập ác trong pháp luật phong kiến Việt Nam
1. Các tội thập ác
Nhóm tội Thập ác có nguồn gốc từ pháp luật Trung Quốc, được đặt ra từ đời nhà
Tề (479-502), được quy định rõ ràng trong luật nhà Tùy, luật nhà Đường quy định
đầy đủ và các đời sau giữ nguyên nhóm tội này.Trong pháp luật phong kiến Việt
Nam, nhóm tội Thập ác được coi là trọng tội.
Thời nhà Lý – Trần – Hồ, nhóm tội Thập ác được quy định trong chiếu 11/1042.


Tuy nhiên tài liệu thời kì này không cho biết nội dung cụ thể của nhóm tội này.
Nhóm tội thập ác đã được quy định trong Bộ luật Hồng Đức thời Lê sơ và Hoàng
Việt Luật Lệ thời nhà Nguyễn tại điều 2. Hai bộ luật này đã quy định những chế
tài hình phạt cũng như chi tiết nội dung nhóm tội Thập ác gồm 10 tội sau:
-

Mưu phản
Mưu đại nghịch: Phá tông miếu, lăng tẩm và cung điện của vua.
Mưu phiến: Phản bội tổ quốc đi theo nước khác
Ác nghịch: Đánh hay giết ông bà nội, cha mẹ, ông bà ngoại, chú, bác, cô,

anh chị của ông nội, đánh hay giết chồng.
- Bất đạo: Giết ba mạng người trong một gia đình, hoặc cắt tay chân người
sống, chế thuốc độc bùa mê, hung ác, tàn nhẫn, phá tan chính đạo.
- Đại bất kính: Ăn cắp đồ vua dùng để cúng tế, những đồ vật trong xe vua đi;
ngụy tạo con dấu của vua, chế thuốc vua dùng không theo toa chính; lầm
lẫn đề nghị phong chức, vật thực cấm dùng nấu cho vua ăn, thuyền vua đi
mà lơ là không sửa cho chắc.
2


- Bất hiếu: Tố cáo, chửi mắng ông bà cha mẹ, ông bà nội bên chồng; chia của
nuôi dưỡng cha mẹ thiếu sót; đang để tang cha mẹ mà tự cưới hỏi, hưởng
nhạc vui chơi, mặc đồ khác tang phục, nghe tin ông bà cha mẹ chết mà giấu
tang, không tổ chức lễ tang, nói dối ông bà cha mẹ chết.
- Bất mục (bất lục – mất hòa thuận): Mưu giết, bán người thân thuộc trong
cửu tộc tử hàng ty ma trở lên; đánh, tố cáo chồng, tôn trưởng hoặc đại công
trở lên.
- Bất nghĩa (bội nghĩa): Giết quan Tri phủ, Tri châu , Tri huyện ở địa
phương, lính giết quan chỉ huy, tốt mà giết ngũ phẩm Trưởng quan; học trò

giết thầy; vợ nghe thấy tang chồng mà giấu không tổ chức tang lễ, tự vui
chơi, mặc khác tang phục, cải giá.
- Nội loạn (rối loạn trong gia đình): Gian dâm với thiếp của ông, cha; gian
dâm trong họ nội, ngoại từ hàng tiểu công trở lên.
2, Đặc điểm
Nhóm tội Thập ác được coi là trọng tôi vì vậy nó được các triều đại phong kiến
đặc biệt quan tâm, nhóm tội này có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, tội Thập ác là những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã
hội, xâm hại đến những mối quan hệ có tầm quan trọng đặc biệt trong xã hội
phong kiến. Đó là sự bảo vệ địa vị của vua, một số quyền nhân thân của con
người và những chuẩn mực đạo đức đã được thừa nhận rộng rãi trong xã hội
phong kiến như các mối quan hệ cha – con, chồng – vợ, cha, mẹ - con, quan –
dân,…
Thứ hai, những người phạm tội thập ác sẽ bị trừng phạt bằng những hình phạt
nghiêm khắc nhất (cao nhất là tội tử, giảo, hoặc chảm còn có cả lăng trì). Biện
pháp trừng phạt được áp dụng không chỉ khi đã có hành vi phạm tội gây ra hậu
quả mà còn cả khi chỉ có ý định mưa phản. Ngoài những hình phat nghiêm khắc
nhất, người phạm tội còn phải chịu những hạn chế bất lợi khác như không được
hưởng các chế độ bát nghị ( tám trường hợp được miễn giảm khi phạm tội), không

3


được chuộc tội bằng tiền, không được miễn chịu hình phạt khi có dịp đại xá, ân xá
của vua hay khi người đó tự thú.
Như vậy, nhóm tội Thập ác là những tội xâm phạm đến những quan hệ cơ bản
trong xã hội phong kiến, được coi là có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã
hội.Chính vì thế, pháp luật phong kiến Việt Nam coi đây là những trọng tội và có
biện pháp trừng phạt rất nghiêm khắc.
II. Đánh giá các quy định về nhóm tội thập ác

1. Về mục đích
Thứ nhất, các quy định nhóm tội Thập ác nhằm bảo vệ nền thống trị của các triều
đại phong kiến, quyền và lợi ích của nhà vua và họ hàng thân thuộc của nhà vua
cũng như trật tự đạo đức xã hội phong kiến.Hay nói cách khác là nhằm đề cao đức
trung quân, bảo vệ tuyệt đối quan hệ vua tôi, đề cao đạo hiếu đễ, bảo vệ trật tự gia
đình gia trưởng phong kiến.Đó là các tội như tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu
bạn, đại bất kính.Điều này được thể hiện ở Điều 411 Quốc triều hình luật quy
định “những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch, thì xử tội chém bêu đầu;
kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém; vợ con điền sản đều bị
tịch thu làm của công; thưởng cho người cáo giác tước và một phần ba số điền
sản tịch thu. Quan sở tại không biết phát giác và truy bắt thì phải tội tùy theo việc
nặng nhẹ. Cố tình dung túng hay giấu giếm thì xử như kẻ phạm tội”; Điều 223
Hoàng Việt luật lệ quy định “Phàm kẻ mưu phản không làm lợi cho đất nước,
mưu hại xã tắc và đại nghịch không có lợi đối với vua, mưu phá hủy tôn miếu,
sơn lăng và cung khuyết chỉ nhúng tay vào âm mưu…đã hay chưa làm đều bị xử
tử bằng lăng trì”. Đây là những quy định mang tính giai cấp, mục tiêu cuối cùng à
tăng cường việc tập trung quyền lực nhà nước vào nhà vua và triều đình.
Thứ 2, quy định nhằm thể hiện thái độ trừng trị nghiêm khắc của nhà nước đối
với loại tội này. Do tính chất nguy hiểm đặc biệt của tội Thập ác nên cả Quốc
triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ đều thể hiện thái độ trừng trị nghiêm khắc
4


của Nhà nước đối với loại tội này. Một trong những biểu hiện đó là các bộ luật có
các quy định loại trừ không cho người phạm tội thập ác được hưởng các chế độ
miễn giảm trách nhiệm hình sự như các tội phạm thường như : tội nhân không
được hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền,
không được hưởng chế độ đặc xá hoặc đại xá. Theo điều 4 Quốc triều hình luật
quy đinh việc miễn giảm cho người phạm tội thuộc diện bát nghị đã khẳng định:
“… nếu phạm tội thập ác thì không theo luật này”. Còn theo Hoàng Việt luật lệ

thì phải tâu lên để vua quyết định. Ngoài ra những quy định miễn giảm cho những
trường hợp cụ thể cũng loại trừ trường hợp phạm tội Thập ác. Điều 11 Quốc triều
hình luật còn quy định: “những kẻ tội phạm tội tội ác nghịch thì dẫu có dịp ân xá
cũng không được ân xá”. Qua quy định về tội Thập ác, pháp luật phong kiến đã
gián tiếp phân biệt các tội Thập ác với các tội phạm khác, và các tội thuộc về
phạm vi luân lí nhưng cũng được xếp ngang hàng với các tội ác chính trị để thể
hiện rõ chính sách hình sự nghiêm trị đối với người phạm tội này. Cùng với các
quy định chung như vậy, các quy định về các tội cụ thể của tội Thập ác đã thể
hiện thái độ trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước phong kiến đối với tội Thập ác.
2. Về tư tưởng chính trị
Tư tưởng chính trị ảnh hưởng đến pháp luật phong kiến nói chung và nhóm tội
Thập ác nói riêng đó là tư tưởng Nho giáo. Ở nước ta, dưới thời Lê, Nho học đang
ở trong thời kỳ cực thịnh, lẽ tất nhiên quan niệm của Khổng – Mạnh không sao
không có một ảnh hưởng sâu xa đối với pháp luật. Vì vậy nhà làm luật chú trọng
đặc biệt đến những điều liên can đến luân lí, đến chỗ duy trì các thuần phong mĩ
tục. Điều này được thể hiện trong nhóm tội Thập ác, các tội thứ 7 đến tội thứ 10
(bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn) là các tội thuộc về phạm vi luân lí nhưng
được xếp ngang hàng với các tội ác chính trị (như tội mưu phản,…).
Tội Thập ác là những tội xâm phạm trật tự lễ giáo phong kiến, đó là những hành
vi xâm hại đến quan hệ vua tôi, quan hệ cha con, quan hệ vợ chồng. Nếu như vi
phạm thì sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc.Một ví dụ như tội bất hiếu, điều 130 trong
5


Quốc triều hình luật “có tang ông bà cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì
phải tội đồ làm khao đinh, đàn bà đồ làm tang thất phụ. Trong khi có tang mà bỏ
đồ tang mặc đồ thường và vui chơi đàn hát thì biếm 2 tư. Gặp đàn hát mà nghe
hay là dự những tiệc vui mừng đều xử phạt 80 trượng”. Và trong Hoàng Việt luật
lệ được quy định tại điều 98 “phàm trai gái để tang cha mẹ, thê thiếp để tang
chồng mà tự thân chủ hôn, cưới gả thì bị phạt 100 trượng”…

Như vậy, qua những phân tích trên, có thể thấy rằng, Thập ác là những trọng tội
nguy hiểm nhất đối với chế độ quân chủ chuyên chế cũng như đối với trật tự, kỉ
cương, đạo đức xã hội. Nó thể hiện rõ nhất bản chất của pháp luật phong kiến, trật
tự xã hội, gia đình phong kiến.
C. KẾT LUẬN
Quy định về nhóm tội thập ác đã tiếp thu, chọn lọc pháp luật phong kiến Trung
Quốc, sao cho phù hợp với pháp luật phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Và có thể
nói việc quy định nhóm tội Thập ác là thành quả của sự kế thừa và sáng tạo, trí
tuệ uyên thâm của các nhà làm luật thời phong kiến. Đó là phẩm chất của những
nhà làm luật, chúng ta phải biết kế thừa và phát huy.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trường đại học luật Hà
Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2009.
2. Hoàng Việt luật lệ, Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1994.
3. Quốc triều hình luật, Nhà xuất bản pháp lí, Hà Nội năm 1991
4. Nghiên cứu về hệ thống pháp luật từ thế kỉ XV-XVII, Giáo sư tiến sĩ Đào
Trí Úc chủ biên, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, viện nhà
nước và pháp luật, Nhà xuất bản khoa học và xã hội, năm 1994.

6



×