Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích và bình luận quy định tại Điều 177 Luật Thương mại năm 2005 về thời hạn đại lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.47 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................ 1
A. MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về đại lý thương mại..............................................................................2
II. Phân tích quy định tại điều 177 bộ luật thương mại năm 2005........................................4
1. Chấm dứt hợp đồng đại lý............................................................................................4
2. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại.........................................5
III. Bình luận điều 177 Luật thương mại năm 2005 về thời hạn đại lý..................................6
1. Những ưu điểm và hạn chế trong quy định tại điều 177...............................................6
2. Phương hướng hoàn thiện quy định tại điều 177.........................................................9
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 10
Danh mục tài liệu tham khảo:................................................................................................10

A. MỞ ĐẦU
Đại lý thương mại là một dịch vụ trung gian thương mại đã được ghi nhận trong
Luật thương mại năm 1997. Hiện này, bộ Luật thương mại năm 2005 tiếp tục kế
1


thừa và sửa đổi bổ sung những quy định của bộ Luật Thương mại năm 1997
theo hướng hoàn thiện hơn nhằm đáp ứng sự thay đổi liên tục, nhanh chóng của
các quan hệ thương mại nói chung và quan hệ về đại lý hàng hóa nói riêng. Tuy
vậy, bên cạnh những điểm tích cực, các quy định của Luật thương mại năm
2005 đã cho thấy những điểm còn hạn chế. Để hiểu rõ hơn về dịch vụ đại lý
hàng hóa cũng như thấy được những điểm còn hạn chế của pháp luật em xin
được nghiên cứu đề tài số 1: “Phân tích và bình luận quy định tại Điều 177 Luật
Thương mại năm 2005 về thời hạn đại lý.”.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về đại lý thương mại
1. Khái niệm, đặc điểm


Theo điều 166 Luật thương mại năm 2005, đại lý thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân
danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ
của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Đặc điểm của đại lý mua bán hàng hóa:
- Về chủ thể, quan hệ đại lý thương mại gồm có bên giao đại lý là bên giao
hàng hóa cho bên đại lý bán hoặc giao tiền cho bên đại lý mua hoặc là bên
ủy quyền thực hiện dịch vụ cho bên đại lý cung ứng dịch vụ và bên đại lý
là bên nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý
mua hoặc là bên nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ. Bên giao đại lý và bên
đại lý đều phải là thương nhân.
- Về nội dung quan hệ đại lý thương mại bao gồm việc giao kết và thực
hiện hợp đồng đại lý giữa bên giao đại lý và bên đại lý và giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của bên đại lý với bên thứ
ba theo yêu cầu của bên giao đại lý. Bộ luật thương mại năm 2005 đã mở
2


rộng phạm vi hoạt động đại lý sang cả đại lý dịch vụ như đại lý bảo hiểm,
đại lý Internet,…chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi mua bán hàng hóa.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với bên thứ ba,
bên đại lý nhân danh chính mình để thực hiện hợp đồng. Theo điều 170
Luật thương mại năm 2005, bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng
hóa hoặc tiền giao cho bên đại lý. Chỉ khi hàng hóa được bán, quyền sở
hữu mới chuyển từ bên giao đại lý cho bên thứ ba.
- Quan hệ đại lý thương mại được xác lập bằng hợp đồng.Chủ thể của hợp
đồng là bên giao đại lý và bên đại lý. Hợp đồng phải được giao kết bằng
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Hợp
đồng đại lý thương mại là hợp đồng dịch vụ có đối tượng là một công việc
mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của bên đại lý cho bên giao đại

lý. Các bên có thể thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng nhưng không
được trái với những quy định của pháp luật.
2. Các hình thức đại lý thương mại.
Bộ luật thương mại năm 2005 đã công nhận những hình thức đại lý thương mại
đó là:
Đại lý bao tiêu: là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn
vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao
đại lý.
Đại lý độc quyền: là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên
giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc
cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.
Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ: là hình thức đại lý mà bên đại
lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý
trực thuộc.Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với
danh nghĩa của tổng đại lý.
3


Ngoài ra, còn có các hình thức đại lý khác mà các bên thỏa thuận.
II. Phân tích quy định tại điều 177 bộ luật thương mại năm 2005
Ngoài những quy định về quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý và bên đại
lý cụ thể tại điều 172 đến điều 175, bộ luật thương mại năm 2005 còn có quy
định về thời hạn đại lý tại điều 177. Đây là một quy định mới của bộ luật thương
mại năm 2005 so với bộ luật thương mại năm 1997. Nội dung chủ yếu của điều
luật là thời hạn đại lý chấm dứt đồng thời còn có quy định về quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý của các bên. Có thể thấy quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng là một quyền cơ bản trong quan hệ đại lý, có ảnh hưởng rất nhiều đến
quyền và lợi ích của các bên khi tham gia quan hệ này.
1. Chấm dứt hợp đồng đại lý

Khoản 1 điều 177 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Trừ trường hợp có
thoả thuận khác, thời hạn đại lý chỉ chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng
không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày một trong hai bên thông báo bằng
văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý”. Khác với điều 126 bộ
luật thương mại năm 1997, điều 177 không quy định từng trường hợp chấm dứt
thời hạn đại lý một cách cụ thể mà quy định về việc các bên tự thỏa thuận về
thời hạn đại lý. Nếu không có sự thỏa thuận về thời hạn đại lý, thì thời hạn đại lý
thương mại chấm dứt trong những trường hợp được quy định tại điều Điều 424
Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: hợp đồng đã được hoàn thành; cá nhân giao
kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do
chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện; hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn
phương chấm dứt thực hiện; hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng
của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác
hoặc bồi thường thiệt hại; các trường hợp khác do pháp luật quy định. Như vậy,
có thể thấy, điều 177 có quy định không rõ ràng về việc chấm dứt thời hạn đại lý
thương mại. Trong những trường hợp cụ thể, phải cần áp dụng những quy định
4


của bộ luật dân sự năm 2005 để xác định được thời hạn chấm dứt hợp đồng đại
lý. Tuy nhên, điều 177 lại tập trung quy định một trong những căn cứ để chấm
dứt thời hạn đại lý thương mại đó là quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại
lý.
2. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại
Một trong những căn cứ để chấm dứt hợp đồng đại lý là việc một trong các
bên đơn phương chấm dứt hợp đồng. Là một hợp đồng dịch vụ, hợp đồng đại lý
thương mại cũng tuân theo các trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp
đồng dịch vụ được quy định tại điều 525 Bộ luật dân sự năm 2005, tuy nhiên
điều 177 Luật thương mại đã có những quy định mở rộng hơn về quyền này cụ
thể như sau:

- Chủ thể có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý bao gồm bên
giao đại lý và bên đại lý. Tuy nhiên, điều luật cũng quy định cho mỗi bên
các quyền và nghĩa vụ khác nhau khi đơn phương chấm dứt hợp đồng.
- Về các trường hợp các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng:
Điều 525 Luật dân sự năm 2005 quy định:
“Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ
1. Trong trường hợp việc tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên thuê
dịch vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng,
nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý; bên
thuê dịch vụ phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã
thực hiện và bồi thường thiệt hại.
2. Trong trường hợp bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc
thực hiện không đúng theo thoả thuận thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”

5


Như vậy, theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005 thì bên giao đại lý có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi việc tiếp tục thực hiện công việc đại
lý không có lợi cho bên giao đại lý. Bên đại lý cũng có quyền này khi bên giao
đại lý khi không thực hiện đúng theo thỏa thuận hoặc không thực hiện nghĩa vụ
của mình, Điều 177 đã mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
của các hai bên khi quy định việc đơn phương chấm dứt hợp đồng chỉ cần đáp
ứng đủ điều kiện: có thông báo bằng văn bản của một bên đối với bên kia và sau
thời hạn 60 ngày kể từ ngày một bên ra thông báo.
- Về hậu quả pháp lý khi đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 177, khi bên giao đại lý thông báo chấm dứt
hợp đồng, bên đại lý có quyền yêu cầu bồi thường một khoản tiền cho thời gian
mình đã làm đại lý. Giá trị khoản bồi thường được tính như sau:

+ Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời
gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý.
+ Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được
tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.
Đối với trường hợp bên đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng thì khoản 3
điều luật này quy định: “bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi
thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý.”
Điều 177 không chỉ mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng cửa các bên
mà còn quy định cụ thể về mức bồi thường cũng như quyền và nghĩa vụ của các
bên khi yêu cầu chấm dứt hợp đồng. Quy định như vậy có những điểm tích cực
song cũng tồn tại những hạn chế nhất định.
III. Bình luận điều 177 Luật thương mại năm 2005 về thời hạn đại lý.
1. Những ưu điểm và hạn chế trong quy định tại điều 177
Về ưu điểm:
6


Thứ nhất, so với điều 126 Bộ luật Thương mại năm 1997, điều 177 Luật
thương mại năm 2005 có nhiều điểm tiến bộ hơn khi mở rộng hơn quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng của các bên. Điều 126 Luật thương mại năm 1997
quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng thương mại trong đó: “ một bên
có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng khi việc vi phạm hợp đồng của bên kia
là điều kiện để đình chỉ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận”. Như vậy, chỉ khi
một bên không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã
thỏa thuận trong hợp đồng thì bên kia có mới có quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng đại lý. Điều 177 đã có quy định rộng hơn về quyền này khi một bên có
quyền chấm dứt hợp đồng đại lý bất kì lúc nào chỉ cần có thông báo bằng văn
bản trước một khoảng thời gian ít nhất là 60 ngày cho bên kia.Quy định như vậy
đã tạo sự linh hoạt cho các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng.
Thứ hai, so với Luật dân sự năm 2005, điều 177 Luật Thương mại năm 2005 có

sự mở rộng về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đi cùng với đó là các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liện quan. Do quan hệ đại lý là một quan
hệ có sự gắn kết phụ thuộc cao, nên điều luật đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ
của các bên trong trường hợp hai bên không có thỏa thuận. Điều luật đã dự liệu
các tình huống và đưa ra mức bồi thường thiệt hại cụ thể.Có thể thấy, chỉ trong
cùng một điều luật đã có khái quát đầy đủ về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của
các bên, đồng thời là mức bồi thường thiệt hại.
Có thể thấy, sự mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của các bên
trong quan hệ đại lý là ưu điểm nổi bật của Điều 177. Điều này là phù hợp với
nguyên tắc tự do thương mại. Tuy nhiên, quy định như vậy cũng là một hạn chế
của điều luật cần được nghiên cứu và sửa đổi cho phù hợp hơn.
Về hạn chế:
Thứ nhất, về tên điều luật, Điều 177 Luật thương mại năm 2005 mang tiêu đề
là “ thời hạn đại lý”. Tuy nhiên, điều luật không quy định một cách trực tiếp về
7


khoảng thời gian thực hiện hợp đồng đại lý mà chỉ đưa ra quy địnhchung chung
công nhận sự thỏa thuận của các bên. Cùng với đó, nội dung chủ yếu của điều
luật lại là quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý.Điều này gây lên sự khó
hiểu, khó áp dụng pháp luật.
Thứ hai, cùng với sự mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
được quy định tại điều 177 là sựthu hẹp lợi ích của bên còn lại. Khi một bên có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bất cứ lúc nào trong nhiều trường hợp sẽ
làm giảm lợi ích của bên kia, đồng thời cũng khiến cho quan hệ đại lý giữa các
bên không được vững chắc, gắn bó, thương nhân sẽ thiếu sự tin tưởng khiến cho
việc thúc đẩy hoạt động trung gian thương mại thông qua hình thức đại lý cũng
bị ảnh hưởng phần nào.
Thứ ba, quy định tại khoản 3 Điều 177 như sau: “Trường hợp hợp đồng đại lý
được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại lý không có quyền

yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên
giao đại lý.” Quy định như vậy là chưa hợp lý vì đã hạn chế quyền của bên đại
lý.Trong một số trường hợp bên giao đại lý không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ buộc bên đại lý phải chấm dứt hợp đồng. Như vậy thì
bên đại lý khi đơn phương chấm dứt hợp đồng phải được nhận các khoản bồi
thường thỏa đáng.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý, điều luật chưa khái quát được hết các trường
hợp.khi bên giao đại lý đơn phương châm dứt hợp đồng, có thể do vi phạm của
bên đại lý trong hợp đồng, vì vậy việc quy định bên đại lý có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại trong trường hợp này là chưa đầy đủ. Về mức bồi thường khi
bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý: “Giá trị của khoản bồi
thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho
mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý. Trong trường hợp thời
gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được tính là một tháng thù lao
đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.”Cách quy định giá trị bồi thường
8


như vậy là mang tính chủ quan và không phù hợp với nguyên tắc tính giá trị bồi
thường thiệt hại phải tương đương với thiệt hại xảy ra. Đồng thời, quy định
không phù hợp với thực tế, vì trên thực tế, quan hệ đại lý thường được thực hiện
trong một thời gian dài, bên đại lý có thể phải bỏ ra rất nhiều chi phí khác để
thực hiện đại lý cho bên giao đại lý.Vì vậy, quy định cách tính cụ thể như vậy,
tuy dễ dàng cho việc áp dụng pháp luật nhưng lại không đảm bảo được sự công
bằng cho các bên, đặc biệt là bên đại lý.
Trên đây là những điểm còn hạn chế của Điều 177 cần được sửa đổi theo hướng
hoàn thiện hơn để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật một cách nhanh chóng,
thuận tiện cũng như đảm bảo quyền và lợi ích của các bên.
2. Phương hướng hoàn thiện quy định tại điều 177.
Qua những điểm còn hạn chế trong quy định tại điều luật, sau đây là những đề

xuất nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần sửa đổi lại tên điều luật theo hướng quy định tên điều luật là
“Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý” thay vì “thời hạn đại lý” như
pháp luật hiện hành để thuận tiện và dễ dàng hơn trong quá trình thực hiện cũng
như nghiên cứu pháp luật.
Thứ hai, vì sự mở rộng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, trong rất nhiều
trường hợp sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên còn lại, vì vậy, Luật
thương mại nên quy định các bên chỉ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
đại lý trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn đại lý.
Thứ ba, cùng với những quy định về điều kiện đơn phương chấm dứt hợp đồng
thì quy định về mức bồi thường thiệt hại cũng cần hợp lý hơn..Vì hợp đồng đại
lý cũng là một hợp đồng dịch vụ nên những quy định về bồi thường thiệt hại nên
quy định phù hợp với bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy
định khá thỏa đáng và đầy đủ về vấn đề bồi thường thiệt hại, vì vậy, Luật thương
mại không cần thiết phải quy định lại vấn đề này. Nếu có thì phải quy định cụ
9


thể rõ ràng hơn và phải phù hợp với quy định của bộ luật dân sự. Cụ thể, trong
trường hợp việc không thể tiếp tục hợp đồng đại lý, bên giao đại lý có quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng và phải trả tiền công phần dịch vụ mà bên đại lý
đã thực hiện đồng thời bồi thường một khoản tương đương với phần thiệt hại có
thể tính toán được.
Thứ tư, cần sửa đổi khoản 3 Điều 177 theo hướng bảo vệ quyền lợi của bên đại
lý theo hướng như sau: “ Trong trường hợp bên đại lý không thực hiện nghĩa vụ
của mình hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bên đại lý có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
KẾT LUẬN
Đại lý thương mại là một hoạt động trung gian thương mại phổ biến và đóng vai
trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Đây là kênh phân phối để đưa hàng

hóa từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng. Chính vì thế, pháp luật cần có
những quy định chặt chẽ về vấn đề này để việc thực hiện pháp luật được dễ dàng
nhanh chóng, tạo điều kiện và thúc đẩy các thương nhân tham gia vào quan hệ
đại lý, tránh những rủi ro và đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham
gia vào quan hệ pháp luật.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn
2.
3.
4.
5.

Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
Luật thương mại năm 2005.
Bộ luật dân sự năm 2005.
Luật thương mại năm 1997
Trần Trung Kiên, Khóa luận tốt nghiệp: Các quy định của pháp luật Việt
Nam về đại lý thương mại, năm 2006.

10



×