Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thành phần và cấu trúc quần xã ve giáp (acari oribatida) theo độ cao ở vườn quốc gia ba vì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 96 trang )

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI
HỌC
s ư PHẠM
HÀ NỘI
2





NGUYỄN TRƯỜNG GIANG

THÀNH PHẦN VÀ CẤU TRÚC QUẦN
XÃ VE GIÁP (ACARI: ORIBATIDA)
THEO Đ ộ CAO Ở VƯỜN QUỐC GIA
BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUÂN VĂN THAC SĨ SINH HOC




Hà Nội, 2015




B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI
HỌC


s ư PHẠM
HÀ NỘI
2





NGUYỄN TRƯỜNG GIANG

THÀNH PHÀN VÀ CẤU TRÚC QUÀN
XÃ VE GIÁP (ACARI: ORIBATIDA)
THEO Đ ộ CAO Ở VƯỜN QUỐC GIA
BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60 42 01 03

LUÂN
VĂN THAC
S ĩ SINH HOC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Duy Trinh

Hà Nội, 2015


LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình hoàn thành luận văn Thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ to lớn và quý báu của các cơ quan tập thể và cá nhân. Nhân dịp này,
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc TS. Đào Duy Trinh, người thầy ngay
từ đầu đã định hướng và tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn ban chủ nhiệm Khoa Sinh - KTNN, trường Đại học
Sư phạm Hà nội 2, phòng Sau Đại Học Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2.
Xin cảm ơn tới em :
Bùi Thị Hương lớp k38, khoa Sinh - KTNN
Đinh Thị Thu Nga lớp k38, khoa Sinh - KTNN
Cảm ơn các thầy, cô giáo đã tận tình giảng dạy, tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, thảng 12 năm 2015
Hoc viên

Nguyễn Trường Giang


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu kết quả trong luận văn là trung thực không trùng lặp với các đề tài khác.
Công trình chưa được công bố trên bất cứ một tài liệu nào. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc .
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!


Hà Nội, thảng 12 năm 2015
Học viên

Nguyễn Trường Giang


MUC
LUC


MỞ ĐÀU
1. Lí do chon đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

4.ĐỐỈ tượng và phạm vi nghiên cứu

2

5.

4.1. Đối tượng nghiên cứu


2

4.2. Phạm vỉ nghiên cứu

2

Ỷ nghĩa khoa học của đề tài

3

6. Giả thuyết khoa học

4

CHƯƠNG l.TỔNG QUAN TÀI LIỆU

5

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

5

1.2. Lược sử nghiên cứu

5

1.2.1. Tĩnh hình nghiên cứu Oribatida trên thế giới

5


1.2.1.1. Nghiên cứu về thành phần loài Orỉbatỉda

8

1.2.1.2. Nghiên cứu về cấu ừủc quần xã Orỉbatỉda

9

1.2.2. Tình hình nghiên cứu Oribatida ở Việt Nam

9

1.2.2.1. Nghiên cứu về thành phần loài Orỉbatỉda

9

1.2.2.2. Nghiên cứu về cẩu trúc quần xã Orỉbatỉda

10

CHƯƠNG 2. T H Ờ I GIAN, ĐỊA Đ IỂM , PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
ĐIỀU KIỆN T ự NHIÊN - KIN H TẾ XÃ H Ộ I VQG BA v ì , HÀ NỘ I

14

2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

14


2.1.1. Thời gian nghiên cứu và sổ lượng mẫu

14

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu

14

2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

14


2.2.1. Vật ỉiệu nghiên cứu

14

2.2.2. Thu mẫu ở thực địa và phân tích xử lý mẫu ở phòng thỉ nghiệm

15

2.2.3. Xác định cẩu trúc quần xã Orỉbatỉda

19

2.2.4. Phương pháp phân tích và thống kê sổ liệu

19

2.3. Đặc điểm tự nhiên của VQG Ba Vì, Hà Nội


21

2.3.1. Vị trí địa lỷ và địa hình

21

2.3.2. Thổ nhưỡng

22

2.3.3. Khỉ hậu và thuỷ văn

23

2.3.4. Tài nguyên rừng

25

2.3.5. Hệ động vật rừng (Đ VR)

25

2.4. Đặc điểm cơ bản về kỉnh tế xã hội

27

2.4.1. Dân tộc, dân sổ và lao động

27


2.4.2. Tình hình phát triển kinh tế chung

27

2.4.3. Hiện trạng xã hội và cơ sở hạ tầng tại các xã vùng Đệm

28

Chương 3. KÉT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

29

3.1. Đa dạng thành phần loài Ve giáp (Acarỉ: Oribatida) ở các độ cao
thuộc VQG Ba Vì, Hà Nội

29

3.1.1. Thành phần loài Orỉbatỉda ở các độ cao 600m, 900m, 1216m
thuộc VQG Ba n Hà Nội

29

3.1.2. Đặc điểm phân bổ của quần xã Orỉbatỉda ở 3 sinh cảnh ở độ cao
600m, 900m, 1216m thuộc VQGBa Vì, Hà Nội

34

3.2. Sự tương đồng thành phần loài của quần xã Orỉbatida ở các độ
cao thuộc VQG Ba Vì, Hà Nội


34

3.3. Cấu trúc quần xã Orỉbatìda theo tầng phân bố ở các độ cao
thuộc VQG Ba Vì, Hà Nội
3.3.1. Sổ lượng loài

36
38


3.3.2. Mật độ trung bình

39

3.3.3. Chỉ sổ đa dạng loài H ’ và chỉ sổ đồng đều J ’

42

3.3.4. Các loài Orỉbatỉda mi thế ở các tầng phân bổ theo độ cao

44

3.4. Cấu trúc quần xã Orỉbatìda theo độ cao thuộc VQG Ba Vì , Hà
Nội


48

3.4.1.Sổ lượng loài


49

3.4.2. Mật độ trung bình

50

3.4.4. Chỉ số đa dạng H ’

51

3.4.4. Chỉ số đồng đều J ’

51

3.4.5. Các loài Orỉbatida ưu thế ở các độ cao thuộc VQG Ba Vì

52

3.4.6. Thảo ỉuận vả nhận xét

55

3.5. Cấu trúc quần xã Orỉbatida theo tầng sâu thẳng đứng trong hệ
sinh thái đất ở độ cao 600m, 900m, 1216m thuộc VQG Ba Vì, Hà Nội

56

3.5.1. Đa dạng thành phần loài


57

3.5.2. Mật độ trung bình

57

3.5.3. Chỉ sổ đa dạng loài t ì ’

57

3.5.4. Chỉ số đồng đều J ’

57

3.5.5. Các loài Orỉbatỉda mi thế theo tầng sâu thẳng đứng thuộc hệ
sinh thải tầng đất

58

3.5.6. Thảo luận và nhận xét

58

3.6. Bước đầu đánh giá vai trò chỉ thị sinh học của quần xã
Orỉbatída ở các độ cao thuộc VQG Ba Vì, Hà Nội

59

3.6.1. Cơ sở khoa học của việc sử dụng quần xã Orỉbatida làm chỉ thị
sinh học


59

3.6.2. Vai trò chỉ thị sinh học của quần xã Orỉbatỉda trong môiừường
đất ở các độ cao thuộc VQG Ba Vì

60


KẾT LUÂN
VÀ KIẾN NGHI•


63

KẾT LUÂN

63

KIẾN NGHỊ

66


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU,
VIẾT TẮT
« 7


Kí hiêu

1

2
3
4
5

6
7
8
9
10
11

12
13
14

Viết tắt
rpẬ _
Л

A



Tâng rêu
AO

Tầng lá


AI

Độ sâu tầng đất 0-1 Ocm

A2

Độ sâu tầng đất 10-20cm

С

Chung cả tầng Al và A2

Ct

Cá thể

H’

Chỉ số đa dạng

J’

Chỉ số đồng đều

KTNN

Kỹ thuật nông nghiệp

MĐTB


Mật độ trung bình

s
TS

Số lượng loài theo tầng phân bố
Tiến sĩ

VQG

Vườn Quốc Gia

ĐHSP

Đại học sư phạm


DANH MUC CÁC BẢNG

STT

NỘI DUNG

TRANG

1.

Bảng 2.1. Số lượng mẫu cụ thể cho từng đai cao


14

2.

Bảng 2.2. Kết quả nghiên cứu động vật rừng VQG Ba Vì

26

3.

Bảng 3.1. Danh sách thành phần loài và sự phân bố Oribatida theo
các độ cao ở các tầng khác nhau tại VQG Ba Vì, Hà Nội

4.

Bảng 3.2. Sự tương đồng thành phần loài của quần xã Oribatida
theo độ cao ở VQG Ba Vì

5.

49

Bảng 3.6. Danh sách các loài Oribatida ưu thế ở độ cao 600m
thuộc VQG Ba Vì

9.

46

Bảng 3.5. Chỉ số định lượng cấu trúc quần xã của Oribatida theo

độ cao ở VQG Ba Vì

8.

37

Bảng 3.4. Các loài Oribatida ưu thế theo độ cao và tầng phân bố ở
VQG Ba Vì, Hà Nội

7.

35

Bảng 3.3. Chỉ số định lượng cấu trúc quần xã Oribatida theo tầng
phân bố ở các độ cao thuộc VQG Ba Vì

6.

30

52

Bảng 3.7. Danh sách các loài Oribatida ưu thế ở độ cao 900m
thuộc VQG Ba Vì

53

10. Bảng 3.8. Danh sách các loài Oribatida ưu thế ở độ cao 1216m
thuộc VQG Ba Vì
11.


54

Bảng 3. 9. Chỉ số định lượng cấu trúc quần xã Oribatida theo độ
sâu của đất ở 3 độ cao thuộc VQG Ba Vì

56

12. Bảng 3.10. Tỷ lệ các loài ưu thế theo độ sâu của đất ở độ cao
thuộc VQG Ba Vì

58


DANH MUC CÁC HÌNH

STT

NỘI DUNG

1.

Hình 2.1. Sơ đồ cấu trúc cơ thể của Oribatida

2.

Hình 2.2. Sơ đồ cấu trúc cơ thể và cấu tạo các cơ quan của Oribatida
bậc cao

3.


46
47

Hình 3.10. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở tầng rêu (A) ở các độ
cao thuộc VQG Ba Vì

13.

46

Hình 3.9. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở tầng thảm lá (AO) ở các
độ cao thuộc VQG Ba Vì

12.

44

Hình 3.8. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở tầng đất AI ở các độ
cao thuộc VQG Ba Vì

11.

43

Hình 3.7. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở tầng đất A2 ở các độ
cao thuộc VQG Ba Vì

10.


42

Hình 3.6. Chỉ số đa dạng (H’) và chỉ số đồng đều (J’) Oribatida ở
độ cao 1216m thuộc VQG Ba Vì

9.

41

Hình 3.5. Chỉ số đa dạng (H’) và chỉ số đồng đều (J’) Oribatida ở
độ cao 900m thuộc VQG Ba Vì

8.

40

Hình 3.4. Chỉ số đa dạng (H’) và chỉ số đồng đều (J’) Oribatida ở
độ cao 600m thuộc VQG Ba Vì

7.

39

Hình 3.3. Mật độ trung bình Oribatida theo tầng phân bố ở độ cao
1216m thuộc VQG Ba Vì

6.

17


Hình 3.2. Mật độ trung bình Oribatida theo tầng phân bố ở độ cao
900m thuộc VQG Ba Vì

5.

16

Hình 3.1. Mật độ trung bình Oribatida theo tầng phân bố ở độ cao
600m thuộc VQG Ba Vì

4.

TRANG

Hình 3.11. Số lượng loài Oribatida ở các độ cao thuộc VQG Ba Vì

47
49


14. Hình 3.12. Mật độ trung bình Oribatida ở các độ cao thuộc VQG
Ba Vì

50

15. Hình 3.13. Chỉ số đa dạng Oribatida ở các độ cao thuộc VQG
Ba Vì

51


16. Hình 3.14. Chỉ số đông đều Oribatida ở các độ cao thuộc
VQGBaVì

51

17. Hình 3.15. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở độ cao 600m thuộc
VQG Ba Vì

52

18. Hình 3.16. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở độ cao 900m thuộc
VQG Ba Vì

53

19. Hình 3.17. Cấu trúc ưu thế của Oribatida ở độ cao 1216m thuộc
VQG Ba Vì

54

20. Hình 3.18. Chỉ số định lượng cấu trúc quần xã Oribatida ở các độ
cao thuộc VQG Ba Vì

61


1

MỞ ĐÀU
1. Lí do chon đề tài

Vườn quốc gia Ba Vì được thành lập năm 1991, theo quyết định số
407-CT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng Việt Nam. VQG nằm trên địa bàn
của 5 huyện : Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai thuộc thành phố Hà Nội và các
huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn của tỉnh Hòa Bình, cách Hà Nội 60km theo Quốc
lộ 21A. VQG Ba vì có chức năng trồng, bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên
nhiên. Đây là một trong những khu có giá trị cao về đa dạng sinh học, lưu giữ
và bảo tồn nhiều loài động, thực vật quý hiếm đang bị đe dọa ở mức quốc gia
và toàn cầu. Đã có những nghiên cứu về động vật ở đây như: chim, thú, bò
sát, .. .nhưng về thành phần và cấu trúc Oribatida vẫn còn rất ít.
Với tầm quan trọng của Oribatida trong hệ sinh thái tự nhiên cùng với ý
nghĩa thực tiễn đối với con người nên là đối tượng được quan tâm nghiên cứu
từ rất sớm trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam nghiên cứu về Ve giáp mới chỉ ở
giai đoạn đầu, dẫn liệu còn ít. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung tìm hiểu
thành phần loài và chỉ tiến hành rải rác ở một số vùng của đất nước. Oribatida
rất nhạy cảm với các biến đổi của môi trường sống vì thế chúng được sử dụng
như những đối tượng nghiên cứu chuẩn cho điều tra giám sát biến đổi tài
nguyên môi trường, nghiên cứu sinh thái tập tính, phục vụ nghiên cứu khoa học
(Vũ Quang mạnh, 2007) [6].
Cho đến nay tài nguyên động vật đất nói chung và khu hệ Oribatida ở
VQG Ba Vì mới được nghiên cứu bước đầu, do một số tác giả như Phan Thị
Huyền, Vũ Quang Mạnh và ctv.(2004)[3], Vũ Quang Mạnh (2007, 2013)[6].
Vì những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Thành phần
và cấu trúc quần xã Ve giáp (Acarì: Orỉbatida) theo độ cao ở VQG Ba Vì,
Thành phố Hà Nội”.


2

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài luận văn thạc sĩ là nghiên cứu đa dạng thành phần

loài và cấu trúc quần xã Oribatida, liên quan đến một số yếu tố tự nhiên và
nhân tác chính, độ cao khí hậu, và chiều sâu thẳng đứng trong hệ sinh thái đất ở
VQG Ba Vì, Thành Phố Hà Nội. Từ đó làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá
vai trò chỉ thị của Oribatida trong việc quản lý, khai thác sử dụng bền vững hệ
sinh thái đất Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Lập danh sách đầy đủ của loài ve giáp và đặc điểm phân loại của
chúng ở VQG Ba Vì.
3.2. Nghiên cứu phân tích cấu trúc quần xã Oribatida về đặc điểm phân
bố, mật độ quần thể, độ ưu thế, đa dạng loài (H ), độ đồng đều ( J ) ở các tầng
phân bố của các độ cao 600m, 900m,1216m và ở các độ cao 600m, 900m,
1216m thuộc VQG Ba Vì, thành phố Hà Nội.
3.3. Phân tích số liệu làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá và sử dụng
cấu trúc của quần xã Oribatida như yếu tố chỉ thị sinh học, trong quản lý bền
vững môi trường đất ở hệ sinh thái đất.
4.ĐỐỈ tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài thuộc bộ Ve giáp (Acari: Oribatida), phân lớp Ve bét (Acari),
lớp Hình nhện (Arachnida), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata),
ngành Chân khớp (Arthropoda), của Giới Động vật (Animalia).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đa dạng thành phần loài và cấu trúc quần xã Oribatida,
được thực hiện ở VQG Ba Vì, Hà Nội, liên quan đến 2 nhóm yếu tố tự nhiên
và nhân tác chính, bao gồm: độ cao và chiều sâu thẳng đứng trong đất.


3

5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Ỷ nghĩa khoa học

Luận văn bổ sung dẫn liệu về đa dạng sinh học của quần xã Oribatida
ở VQG Ba Vì. Cấu trúc quần xã Oribatida ở các độ cao khác nhau của VQG
Ba Vì bước đầu được nghiên cứu về đặc điểm, đa dạng thành phần loài...theo
một số đặc điểm tự nhiên và nhân tác chính.
Luận văn cung cấp dẫn liệu về đặc điểm phân bố và đặc trưng định
lượng của quần xã Oribatida ở VQG Ba Vì về cấu trúc quần xã Oribatida, đặc
điểm phân bố, mật độ quần thể và tương đồng thành phần loài ở VQG Ba Vì
được nghiên cứu và phân tích đồng bộ, (1)3 độ cao ( 600m, 900m, 1216m
trên mặt biển), (2) và chiều sâu thẳng đứng trong đất (0-10 và 10-20cm).
Phân tích số liệu làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá và sử dụng cấu
trúc của quần xã Oribatida như yếu tố chỉ thị sinh học, trong quản lý bền vững
hệ sinh thái đất.
Ỷ nghĩa thực tiễn
Luận văn bổ sung tư liệu về thành phần loài Oribatida, góp phần đánh
giá tài nguyên đa dạng động vật đất của Việt Nam, khảo sát cấu trúc quần xã
Oribatida như yếu tố chỉ thị sinh học, góp phần dự đoán ảnh hưởng của các
yếu tố tự nhiên và nhân tác tác động đến hệ sinh thái đất nói chung và quần xã
Oribatida nói riêng.
Đặc biệt ở các độ cao 600m, 900m, 1216m có điều kiện tự nhiên và
mức độ tác động của con người là khác nhau vì vậy cần có sự nghiên cứu cụ
thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và con người lên
sinh cảnh.
Số liệu thu được của đề tài luận văn góp phần cung cấp tư liệu, phục vụ
giảng dạy và nghiên cứu chuyên ngành động vật học, đặc biệt theo hướng


4

chuyên sâu về khu hệ và sinh thái động vật đất nói chung và Oribatida ở hệ
sinh thái đất nói riêng.

6. Giả thuyết khoa học
Bổ sung dẫn liệu về đa dạng sinh học của quần xã Oribatida ở VQG Ba
Vì. Đặc biệt về thành phần loài và cấu trúc quần xã Oribatida ở các độ cao
600m, 900m, 1216m của VQG Ba Vì, thành phố Hà Nội lần đầu tiên được
khảo sát, trong đó xác định được số loài, tổng số giống, tổng số họ và có bao
nhiêu taxon phân loại chưa được xác định giống.

về cấu trúc phân loại học của quần xã Oribatida xác định được số loài
trong 1 họ, số loài trong 1 giống.
Kết quả nghiên cứu bổ sung được số lượng họ, giống, loài cho khu hệ
Ve Giáp Việt Nam.
Cung cấp dẫn liệu về cấu trúc định lượng của quần xã Oribatida (số
loài, chỉ số đa dạng H \ chỉ số động đều J’) và sự thay đổi giá trị các chỉ số
theo tầng phân bố ỏ 3 độ cao : 600m, 900m và 1216m thuộc VQG Ba Vì,
thành phố Hà Nội.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Ctf sở khoa hoc của đề tài
Bộ ve giáp (Acari: Oribatida) bao gồm những nhóm ve bét đa dạng và
phong phú nhất. Ngoài tự nhiên chúng sống chủ yếu trong môi trường đất và
các môi trường sống liên quan với hệ sinh thái đất, như thảm lá rừng và xác
vụn thực vật, trên thân cây hay dưới vỏ cây gỗ, lớp thảm rêu bán trên thân
cây, đất treo trên cành cây, trong tán cây xanh (Vũ Quang Manh, 2007) [6].
Hệ thống phân loại Oribatida, cùng các quan hệ tiến hóa của chúng với
các nhóm ve bét khác được xây dựng và sắp xếp theo hệ thống của các tác giả
Grandjean, 1954[35]; Balogh. J and Balogh p (1992) [21]; Balogh J. and

Mahunka

s (1967) [22]; Vũ Quang Manh, 2007) [6] là những chuyên gia

nghiên cứ hệ thống học Oribatida hiện được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Việc nghiên cứu phân tích sự thay đổi các đặc trưng định lượng của
Oribatida (số lượng loài, mật độ, chỉ số đa dạng H’, chỉ số đồng đều J’) theo
dạng sinh cảnh, theo độ cao và theo độ sâu lần đầu tiên được áp dụng ở VQG
Ba Vì làm cơ sở khoa học chỉ ra những tác động tích cực cũng như tiêu cực
của các nhân tố môi trường đến hệ sinh vật đất.
1.2. Lược sử nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu Orỉbatìda trên thế giới
Nghiên cứu về nhóm Oribatida trên thế giới đã được bắt đầu tò rất sớm,
nhưng chỉ phát triển mạnh trong những năm gần đây.
Khu hệ Oribatida thế giới hiện đã được mô tả khoảng 10.000 loài và số
loài Oribatida thực tế có thể vào khoảng từ 50.000 loài (Trave’ et al., 1996)
đến 100.000 loài (Schatz, 2002) [33]. Theo Balogh J. et al., (1992) [21], số
lượng giống Oribatida trên thế giới đã tăng lên từ 700 giống đến hơn 1000


6

giống chỉ trong 20 năm gần đây (Balogh J. et al., 1992) [21]. Hiện nay ở Châu
Âu, loài mới vẫn được mô tả đều đặn hàng năm và ở Bắc Mỹ, khoảng 75% số
loài của khu hệ Oribatida còn chưa được mô tả (Bechan-Pelletier et al, 1993).
Khu hệ Oribatida của Canada là một trong những khu hệ được nghiên
cửu khá kỹ từ rất sớm. Mặc dù các dẫn liệu về sinh thái, phân bố của chúng có
nhiều, nhưng về khu hệ, số loài được biết chỉ chiếm 1/4 số loài có trong thực tế.
Đến năm 1999, Ve giáp (Acari) được coi là cư dân truyền thống của đất
và thảm mục nhưng chúng chưa được chú ý đến nhiều ở sinh cảnh này. Tuy

vậy, độ phong phú của khu hệ Ve bét sống tự do, cư trú trên tán cây rừng
nhiệt đới, ôn đới, được xem như “những sinh vật sống trôi nổi trên cây”
(Behan-Pelltier, 1999) đã được một số tác giả đề cập tới. Chúng được thu thập
từ vỏ cây, rêu, địa y[23].
Năm 2004, Karasawa đã nghiên cứu cấu trúc quần xã Oribatida ở đất
treo và các nhân tố hữu sinh, vô sinh ảnh hưởng đến sự đa dạng của chúng.
Theo tác giả, Oribatida là một trong những nhóm Chân khớp chiếm ưu thế về
số lượng trong đất treo. Từ sinh cảnh này thu được không ít hơn 50 loài. Độ
đa dạng loài Oribatida ở đất treo có thể thấp hơn so với khu hệ Oribatida ờ đất
rừng (Karasawa, 2004) [28].
Nghiên cứu về Oribatida ở Nga phát triển mạnh từ những năm 50 của
thế kỷ 20. Cho đến nay đã ghi nhận được 300 loài Oribatida ở tất cả các hệ
sinh thái. Riêng khu hệ Oribatida sống trên cây cũng được quan tâm cách đây
mấy chục năm. Các mẫu Oribatida được thu thập từ rêu, địa y sống phụ sinh,
từ vỏ cành, thân cây và trong tán cây với các công trình của Dalenius (1960);
Kielozewski; Kashyna (1965); Niedbale (1969); Woltemade (1982), Coloff
(1983)... (Ermilov and Lochyrska, 2008) [32].
Cùng với kết quả nghiên cứu nguồn gốc phát sinh chủng loại, khu hệ,
hệ thống học Oribatida, các nghiên cứu về sinh học Oribatida cũng thu được


7

nhiều kết quả có giá trị, trong đó việc nghiên cứu sự phát triển, sinh trưởng
trong mối quan hệ với các yếu tố tác động lên chúng là một hướng quan trọng
được nhiều tác giả chú ý đến. Bản chất và thời gian phát triển, sinh trưởng của
nhóm động vật này còn chưa được điều tra một cách cẩn thận, đầy đủ. Tuy
nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiểu rằng các nhân tố môi trường (nhiệt độ, độ
pH, hàm lượng mùn, số lượng và chất lượng thức ăn, sự xáo trộn nơi cư trú...)
và mật độ của các nhóm chân khớp khác có thể ảnh hưởng đến thời gian sinh

trưởng của hầu hết các Oribatiba (Ermilov and I.ochynska, 2008) [25]. Tuy
nhiên, ảnh hưởng lớn nhất đến thời gian phát sinh là phương thức phát sinh
của bộ hay cùa họ Oribatida. Siepel (1994) đã lưu ý rằng tất cả các sự thay đổi
trong thòi gian phát triển gây ra bởi môi trường đều nhỏ hơn sự thay đổi ngay
trong nội tại của các họ hay của bộ. Oribatida là nhóm tham gia tích cực trong
quá trình phân hủy các chất hữu cơ, trong chu trình nitơ và quá trình tạo đất.
Các nghiên cứu cho thấy trong tất cả các giai đoạn hay chu kỳ sinh trường,
phát triển của chúng đều sử dụng với phổ thức ăn rộng, bao gồm thực vật
sống và chết, nấm, rêu, địa y và thịt thối rữa. Nhiều loài là vật chủ trung gian
của sán lá dây, một vài loài là động vật ăn thịt, không có loài nào sống kí sinh
(Krants, 1978) [29]. Oribatida là động vật ăn hạt, chân kìm và các cấu tạo
khác nhau của phần phụ miệng được sử dụng cùng với nhau để cắt hay xé hạt
thành các tiểu phần có kích thước phù hợp để ăn.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của
Oribatida theo các hướng: chỉ thị cho chất lượng đất ở mức độ loài hay quần
xã, chỉ thị cho thuốc trừ sâu, phân bón... sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
chỉ thị cho môi trường đô thị...
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng hệ sinh thái trên cạn là ở chỗ: chúng có độ
đa dạng cao, thu lượm với số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa


8

trong năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trường thành tương đối
dễ; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ cùa lớp đất màu mỡ và chúng là
nhóm dinh dưỡng không đồng nhất. Chúng bao gồm các taxon được đặc trưng
bới sự sinh sản nhanh, thời gian sinh sống cùa các con non và con trưởng
thành dài, khả năng tăng quần thể chậm... (Behan - Pelletire, 1999) [23].
Một số nghiên cứu sơ bộ về chi thị sinh học trong môi trường đô thị

cũng cho thấy Oribatida là nhóm động vật nhạy cảm với sự thay đổi chất
lượng không khí (Weighmann, 1991) [32].
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế
giới, được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và
vai trò chi thị. Nhưng ở Việt Nam thì hướng nghiên cứu về nhóm này mới chỉ
bắt đầu ở thời gian gần đây.
1.2.1.1. Nghiên cứu về thành phần loài Oribatida
Trong các công trình nghiên cứu về Acari trước đây, các công trình của
Berlese đóng một vai trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt, ông là một trong
số những người quan tâm đến Ve giáp ở Châu Âu sớm nhất. Chi tò năm 1881
đến năm 1923, ông đã đứng tên một mình, hoặc là đồng tác giả của 73 công
trình nghiên cứu về Acari, Microarthropoda. Trong đó ông đã mô tả khoảng 120
loài Oribatida. Tuy nhiên, tất cả những loài Berlese mô tà đã được Hammen
(2009) tu chỉnh, xắp xếp lại dựa trên hệ thống phân loại của Grandjean (1954)
[35] và công bố trong công trình “Berlese’s primitive Oribatida mites”.
Khu hệ Oribatida ờ Trung Mỹ dược điều tra, nghiên cứu từ rất sớm. Năm
1791, Otto Stoll đã miêu tả những loài Oribatida đầu tiên của khu vực. Đến năm
1930 (sau 139 năm gián đoạn), nhiều Oribatida mới được thu thập, mô tả trong
các công trình của Grandjean (1930- 1934, 1954, 1960, 1962), Willmann(1930)
Woolley (1961, 1966)...và từ năm 1972 trở lại đây, hàng loạt các công trình
nghiên cứu về Oribatida cùa các tác giả khác nhau được thực hiện.


9

1.2.1.2. Nghiên cứu về cẩu trúc quần xã Orỉbatỉda
Phản ứng của các quần xã động vật đất đối với sự quản lý đât như sự thay
đổi độ giàu hoặc, độ phong phú, chỉ số đa dạng loài... đã được lượng hoá và
được kiểm tra phạm vi rộng như sinh cành, thậm chí trong một số trường hợp, ở
phạm vi vùng đã được nghiên cứu. Khi phân tích dẫn liệu thu được tò những

mẫu định lượng (ở phạm vi 1 mẫu 250cm3 hay từ lđiểm thu mẫu) là đặc biệt
quan trọng cho sự hiểu biết về ảnh hưởng của việc sử dụng đất đến cấu trúc quần
xã và sự tồn tại của những sinh vật sống trong đất (Minor el al, 2004) [30].
Sự tăng liên tục của những loài ưu thế sống ở bề mặt và những loài
không chuyên hoá cho thấy sự thay đổi đáng kể trong tự nhiên của những ảnh
hưởng có giới hạn này trong quá trình diễn thế. Kết quả phân tích bằng
phương pháp hồi quy thông thường cho thấy mức độ tác động gia tăng của
các nhân tố bên ngoài đến quần xã Oribatida trong thòi gian diễn thế của đồng
cỏ và sự thay đỗi hướng tác động chủ yếu đến độ phong phú của Oribatida từ
các điều kiện của đất sang các diều kiện của thảm phủ thực vật và sau đó là
tác động tồ hợp của các điều kiện đất và lớp thảm phủ thực vât.
Minor et al., (2004) đã điều tra ảnh hưởng của một vài loại vật liệu bổ
sung vào đất nhằm làm tăng sinh khối cho các vụ trồng liễu luân phiên trong
thời gian ngắn đến độ phong phú, độ đa dạng và cấu trúc quần xã của Ve bét
sống tự do trong đất (gồm 2 nhóm Oribatida và Mesostigmata) ờ vùng trung
tâm New York. Các vật liệu bổ sung bao gồm: Cặn bùn đã được làm ổn định
bằng chất vôi, phân gà ủ hoai, phân đạm, lớp đất phủ dẻo màu đen đề phù lên
trên bộ rễ. Kết quả cho thấy: Nhóm ve ăn thịt (Mesostigmata) phản ứng với
các chất bổ sung khác với nhóm ăn mùn bã và nấm (Oribatida) [30].
1.2.2. Tĩnh hình nghiên cứu Orìbaúda ở Việt Nam
1.2.2.1. Nghiên cứu về thành phần loài Oribatỉda
Trước năm 1975, các công trình nghiên cứu về Oribatida ở Việt Nam
còn chưa chuyên sâu và đồng bộ. Năm 1967, lần đầu tiên hai tác giả người


10

Hungaii là Balogh J. và Mahunka

s. nghiên cứu và giới thiệu khu hệ danh


pháp đặc điểm phân bố của 33 loài Oribatida trong công trình “New oribatida
from Viet Nam”. Trong đó mô tả 29 loài và 4 giống mới. Tiếp theo là nghiên
cứu của hai tác giả Tiệp Khắc là A. Rajski và R. Szudrowwicz (Balogh J. et
a l, 1967) [22].
Sau năm 1975, Oribatida ở Việt Nam mới được các tác giả trong và
ngoài nước nghiên cứu chuyên sâu. Như Golosova L., 1983, 1984; Mahunka
(1987, 1988, 1989); Behan-Pelletier, 1999; Pavlitchenco p., 1991. Nghiên cứu
của tác giả Stary, 1993, nghiên cứu của hai tác giả người Nhật là Ohkubo et
al., 1995 và Krivolutsky, 1979 [23].
Năm 2012, tác giả Đào Duy Trinh và cs. đã chỉ ra sự biến động thành
phần loài Oribatida ở các sinh cảnh khác nhau khi thay đồi các điều kiện môi
trường. Trên cơ sở đó phân tích các mối quan hệ hữu cơ giữa sinh vật với môi
trường và tìm kiếm được những nét đặc trưng ở mức độ quần xã hay mức độ
cá thề Oribatida làm sinh vật chỉ thị trong những nghiên cứu tiếp theo.(Đào
Duy Trinh và CS.2012) [16].
VQG Tam Đảo đai cao trên 700m ghi nhận được 15 loài và 16 loài
thuộc bộ Oribatida ưu thế chung cho cả 4 tầng phân bố và 12 loài ưu thế trong
các tầng sâu của hệ sinh thái đất, trong đó có 5 loài ưu thế chung cho tầng đất
(Đào Duy Trinh, Tạ Mạnh Cường, 2014) [17].
Cấu trúc quần xã Ve giáp (Acari: Oribatida) đã được nghiên cứu ở hệ
sinh thái đất rừng thứ sinh nhân tác độ cao 300m thuộc VQG Cúc Phương, tỉnh
Ninh Bình. Các mẫu vật được thu thập trong 2 đợt từ tháng 5 đến tháng 11
năm 2013 với tổng số 48 mẫu định lượng (rêu, tầng lá, tầng đất 0-1 Ocm, tầng
đất 10-20cm). Có 68 loài Oribatida thuộc 47 giống, 29 họ được ghi nhận. (Lê
Thị Lan Phương, Đào Duy Trinh, Nguyễn Thị Thu Anh, 2014) [14].
Gần đây nhất, tại Khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên, đã ghi nhận


11


được 76 loài Oribatida thuộc 51 giống của 28 họ ở cả hai lần thu mẫu đối với
cả 4 tầng phân bố theo chiều thẳng đứng. Trong số 68 loài xác định được tên
và có 8 loài ở dạng sp. (Đào Duy Trinh, Nguyễn Thị Hải Yến, 2015 ) [18].
Nhìn chung những nghiên cứu về ve giáp ở Việt Nam cho thấy: việc
nghiên cứu đã đề cập một cách toàn diện và có hệ thống. Tuy nhiên các kêt
quà đạt được mới chỉ là những bước đi định hướng ban đầu. Để tìm hiểu thấu
đáo vai trò của Ve giáp sống trong môi trường đất và để đưa chúng ứng dụng
vào lĩnh vực khoa học và thực tiễn thì việc nghiên cứu nhóm này cần được
đẩy mạnh trong những năm tiếp theo.
1.2.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc quần xã Oribatida
Năm 2002, Vũ Quang Mạnh và cs. đã đưa ra dẫn liệu về vai trò và cấu
trúc quần xã Oribatida ở vùng rừng Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Có nhận xét cấu
trúc quần xã Oribatida ở hệ sinh thái đất có liên quan rõ rệt với sự suy giảm
của cây gồ rừng. Nó có thể được xem xét và đánh giá như một đặc điểm sinh
học, chỉ thị quá trình diễn thế của rừng Tam Đảo nói riêng và của Việt Nam
nói chung [8].
Năm 2004, nhận định Ve giáp trong cấu trúc quần xã Acari trong hệ
sinh thái rừng VQG Ba Vì, Việt Nam cũng đã xác định được mổi liên hệ giữa
đai cao khí hậu ảnh hường tới cấu trúc quần xã Oribatida. Mật độ quần thể ve
bét ờ các sinh cảnh như RTN và RNT tương ứng gặp 3090 và 2200 cá thể/ m2
mặt đất là nhỏ hơn so với sinh cảnh nhân tác, như đất TCCB và ĐCT, tương
ứng gặp 8247 và 7580 cá thể/ m2 (Phan Thị Huyền và cs., 2004) [3].
Năm 2005, trong báo cáo khoa học tại Hội nghị Côn trùng học toàn
Quốc lần thứ V, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm đã công bố khu hệ
Oribatida Việt Nam; xác định được 158 loài, thuộc 46 họ, mang tính chất Ân
Độ- Mã Lai và thuộc vùng địa động vật Đông Phương (Vũ Quang Mạnh,
Nguyễn Xuân Lâm, 2005) [7].



12

Năm 2006, Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh công bố 102 loài
Oribatida được phát hiện ở VQG Xuân Sơn - Phú Thọ. Công bố Oribatida họ
oppidae Grandjean, 1954; phân họ Oppinidae Grandjean. 1951 và
Mulltioppiinae Balogh, 1938 ở Việt Nam (Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh,
2006) [9],
Năm 2007, Vũ Quang Mạnh, Lưu Thanh Ngọc, Đào Duy Trinh đã công
bố 3 loài thuộc giống Perxylobatas Hammer 1972, hiện có ở Việt Nam (Vũ
Quang Mạnh và cộng sự, 2007) [10].
Trong báo cáo tại hội nghị Techmart tại Tây Nguyên vào tháng 4/2008,
các tác giả: Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh và Nguyễn Hải Tiến đã trình
bày về vai trò của Động vật đất trong đó có Oribatida là yếu tố chỉ thị cho sự
phát triển bền vững của hệ sinh thái đất [11].
Năm 2012, tác giả Đào Duy Trinh và cs đã chi ra được sự biến động
thành phần loài ve giáp (Acari: Oribatida) dưới tác động của các nhân tố ô
nhiễm đất bởi các chất bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, phân bón hữu cơ, chất
phóng xạ và kim loại nặng (Đào Duy Trinh và CS.2012) [16].
Năm 2014, nghiên cứu tại VQG Tam Đảo đai cao trên 700m đã ghi nhận
các chỉ số định lượng của Oribatida (Số loài, MĐTB, H \ J’) có sự khác biệt
giữa 2 đai cao: Đai cao 700-900m (S= 17; Sl= 73; MĐTTB= 4520; H’= 3,
2277; J’= 0, 904); Đai cao 900 - 1252m (S= 19; Sl= 90; MĐTTB= 5480; H’=
2, 348; J’= 0, 8162) (Đào Duy Trinh, Tạ Mạnh Cường, 2014) [17].
Cấu trúc quần xã Ve giáp (Acari: Oribatida) đã được nghiên cứu ở hệ
sinh thái đất rừng thứ sinh nhân tác độ cao 300m thuộc VQG Cúc Phương, tỉnh
Ninh Bình ghi nhận: Mật độ trung bình đạt cao nhất ở tầng (0-1 Ocm) (16960
cá thể/ m2) và thấp nhất ở tầng rêu (576 cá thể/ kg); Có sự đột biến về số
lượng cá thể ở tầng đất (0-10cm). Độ đa dạng H’ đạt cao nhất ở tầng rêu H’ =
3, 05 và thấp nhất ở tầng (0-10cm) với giá trị H’ = 1,71. Độ đồng đều J’ đạt



13

giá trị cao nhất ở tầng rêu J’ = 0, 89 và thấp nhất ở tầng (0-1 Ocm) (J’ = 0, 52)
(Lê Thị Lan Phương, Đào Duy Trinh, Nguyễn Thị Thu Anh, 2014) [17].
Năm 2015, trong nghiên cứu tại Khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên,
đã ghi nhận mật độ trung bình thay đổi theo từng tầng phân bố, lớn nhất là
tầng AI (1120 cá thể/m2), tầng A2 (600 cá thể/m2), tầng AO (103 cá thể/m2)
và thấp nhất ở tầng A (41 cá thể/kg). Ở Suối Tiên, mật độ trung bình có chiều
hướng giảm dần từ A2 < AI < AO < A tương ứng: 3600 cá thể/m2 < 2800 cá
thể/m2 < 423 cá thể/m2 < 81 cá thể/kg (Đào Duy Trinh, Nguyễn Thị Hải Yến,
2015)[18].


×