Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.93 KB, 18 trang )

A.Cơ sở lí luận về trợ cấp xuất khẩu
I.Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu
1.Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là chính sách ngoại thương trong đó chính phủ áp dụng
các biện pháp nhằm kích thích tăng trưởng xuất khẩu bằng cách trợ cấp trực
tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà sản xuất hàng xuất khẩu.
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu để nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài.
2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu


Gồm có trợ cấp xuất khẩu trực tiếp và trợ cấp xuất khẩu gián tiếp:
• Trợ cấp trực tiếp: Chính phủ thanh toán trực tiếp cho doanh nghiệp
xuất khẩu hàng được trợ cấp tương xứng với khối lượng hay giá trị
xuất khẩu. Chính phủ bù đắp trực tiếp thiệt hại cho doanh nghiệp khi
xuất khẩu hàng hóa như áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất
khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu,... Cho các nhà
xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi cho các đầu vào sản xuất hàng
xuất khẩu như điện, nước,vận tải, thông tin liên lạc...
• Trợ cấp gián tiếp: Chính phủ cung cấp tài chính cho người xuất khẩu
hoặc doanh nghiệp xuất khẩu gián tiếp thông qua các điều kiện tín
dụng và các dịch vụ chuyên chở hàng xuất khẩu.Nhà nước dùng ngân
sách để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện cho các giao dịch
xuất khẩu hoặc giúp đỡ về kỹ thuật và đào tạo chuyên gia.

Khi người xuất khẩu nhận được một khoản trợ cấp dù là trực tiếp hay gián
tiếp cho sản phẩm xuất khẩu thì họ không phải hoàn trả lại cho Nhà nước. Và
trợ cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa
Chính phủ có buôn bán với nhau, ngược lại trợ cấp xuất khẩu gián tiếp ngày
càng tăng lên và thường được che dấu.



Cụ thể các hình thức trợ cấp xuất khẩu đối với một số mặt hàng của Việt
Nam về lý thuyết:
• Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu
hoạch, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất
xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo.












Đối với cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù lỗ
cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng
xuất khẩu.
Đối với đường: hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ
trợ lãi suất sau đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua
mía trong vụ thu hoạch.
Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: thưởng
theo kim ngạch xuất khẩu.
Xe đạp, quạt điện: ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, miễn thuế suất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng,
vật tư, hỗ trợ vay vốn ngân hàng.
Đối với sản phẩm cơ khí: ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước.
Đối với dệt may: vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của
Chính phủ, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại.

II.Vai trò của trợ cấp xuất khẩu







Góp phần phát triển công nghiệp nội địa và thúc đẩy xuất khẩu của
quốc gia.
Nâng cao khả năng cạnh trạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trợ cấp
xuất khẩu còn làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được
trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác
vào thị trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác
vào thị trường này.
Góp phần điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế. Trợ cấp xuất
khẩu kích thích lan truyền hiệu ứng tích cực và khắc phục hiệu ứng tiêu
cực.
Là một công cụ để “mặc cả” trong đàm phán quốc tế.

Tuy nhiên, trợ cấp xuất khẩu có thể mang lại những hậu quả kinh tế, chính trị
không như mong muốn:







Trợ cấp xuất khẩu bóp méo sự cạnh trạnh tự nhiên trong môi trường
thương mại tự do.
Chí phí cơ hội của trợ cấp rất lớn và xét về dài hạn trợ cấp có thể cản
trở sự phát triển của chính ngành được trợ cấp.
Xác suất chọn sai đối tượng trợ cấp khá cao.
Trợ cấp có thể dẫn đến hành động trả đũa.
Trợ cấp không hiệu quả về mặt tài chính.


III.Kinh nghiệm về trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với Việt
Nam
-

-

Vấn đề mà các nước đang phát triển quan tâm nhất là việc cắt giảm
mạnh mẽ hơn nữa các loại trợ cấp bao gồm hỗ trợ trong nước và trợ cấp
xuất khẩu.
Hiện nay chỉ có các nước phát triển là sử dụng nhiều biện pháp trợ cấp,
còn các nước đang phát triển do hạn chế về ngân sách nên không thể áp
dụng trợ cấp trong nước để bảo vệ sản xuất của họ. Rõ ràng là các nhà
sản xuất ở các nước đang phát triển không thể cạnh tranh nổi với mức
ngân sách rất lớn mà hàng năm các nước phát triển dùng để trợ cấp.
VN nên học hỏi kinh nghiệm của NewZealand khi nông nghiệp là lĩnh
vực mà VN cam kết sẽ xóa bỏ trợ cấp xk ngay khi gia nhập WTO




Bài học từ New Zealand: không có trợ cấp vẫn hiệu quả.

-

Vào năm 1984, chính phủ nước này cắt giảm triệt để trợ cấp nông nghiệp
(vốn chiếm 30% giá trị sản xuất nông nghiệp). Sau khi nguồn trợ cấp bị
cắt, nông dân phải học cách sản xuất hiệu quả hơn thay vì sản xuất tối đa
như trước để hưởng trợ cấp. Việc sử dụng phân bón giảm bớt khiến
nguồn nước và môi trường ngày càng tốt. Trái với nhận định ban đầu,
ngành nông nghiệp nước này không bị suy sụp mà ngày càng phát triển
tốt, năng suất nông nghiệp tăng trung bình 6%/năm, và nông nghiệp đóng
góp 17% giá trị của nền kinh tế nước này (so mức 14% trước 1984). New
Zealand là nước xuất khẩu sản phẩm sữa thứ ba thế giới và chiếm hơn
50% về xuất khẩu thịt cừu. Nông sản xuất khẩu của New Zealand cũng
cạnh tranh mạnh mẽ với nông sản được trợ cấp của các nước. Hiệp hội
nông dân New Zealand nhận định: kinh nghiệm bãi bỏ trợ cấp nông
nghiệp của nước này đã đánh đổ huyền thoại rằng nền nông nghiệp sẽ
không phát triển tốt nếu không được chính phủ trợ cấp.
(Theo Báo cáo phân tích chương trình nghị sự
đàm phán mới của WTO)



Liên minh châu Âu (EU) đã và đang là một trong những thị trường xuất
khẩu quan trọng nhất của hàng hóa Việt Nam. Vì vậy, mỗi thay đổi hay
động thái chính sách mới ở thị trường này đối với hàng hóa nhập khẩu từ
nước ngoài cần được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam theo dõi sát


sao và có biện pháp đối phó hợp lý, kịp thời nhằm đảm bảo sự phát triển

bền vững của xuất khẩu Việt Nam ở thị trường này.
Trước thông tin về khả năng có những thay đổi đáng kể trong cơ chế ra quyết
định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, xu hướng tăng cường các hoạt
động chống trợ cấp cũng như thắt chặt các biện pháp quản lý khác đối với hàng
nước ngoài nhập khẩu vào EU.

Ví dụ: Liên minh châu Âu (EU) vừa quyết định ngừng trợ cấp xuất khẩu đối với
sản phẩm gà đông lạnh sau khi đã giảm mức hoàn tiền xuất khẩu từ 325 euro
(430 USD)/tấn xuống 217 euro/tấn hồi tháng 10/2012 và còn 108,5 euro/tấn hồi
tháng 1/2013.
Quyết định này của EU đã làm dấy lên làn sóng phản đối tại Pháp – quốc gia
hưởng lợi lớn từ các khoản trợ cấp của EU – trong bối cảnh các doanh nghiệp
cho rằng cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt và quyết định này có thể làm
gia tăng số người thất nghiệp.
Các doanh nghiệp chăn nuôi gia cầm Pháp vẫn dựa vào các khoản hoàn tiền
xuất khẩu này để đẩy mạnh xuất khẩu tại các thị trường Trung Đông. Họ cho
rằng các khoản trợ cấp này thực sự cần thiết trong bối cảnh chi phí thức ăn chăn
nuôi đang đứng ở mức cao và sự cạnh tranh đang gia tăng từ Brazil.
Chính phủ Pháp cho biết nước này đang xem xét các biện pháp để đối phó với
động thái này của EU. Trong khi đó, phía EU cho rằng các khoản hoàn tiền xuất
khẩu này là không công bằng do tình hình thị trường đang được cải thiện.
Trong niên vụ 2012-2013, Pháp đã nhận được 55 triệu euro, chiếm gần 94%
trong tổng số tiền trợ cấp. Chính phủ nước này cho biết thị trường gia cầm đang
xấu đi kể từ lần cắt giảm khoản trợ cấp trước đó, chủ yếu do sự cạnh tranh quyết
liệt hơn từ Brazil. Pháp khẳng định rằng có 10 trong tổng số 28 nước thành viên
EU đã nhất trí với ý kiến này của Pháp./.
VN là nước đang phát triển vì vậy việc xóa bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu là 1
vấn đề đáng lo ngại cho nền kinh tế. Chính phủ nên có những biện pháp để khắc
phục và cải thiện tình hình này.



B THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
I.Một số thành tựu đạt được trong thời gian qua
Trên cơ sở kiến nghị của bô thương mại,ngày 20/01/2003 chính phủ đã có văn bản
số 78/CP-KTTH về các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu năm 2003. Và sau đây là 1 số
giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh xuất khẩu năm 2003:
1.1-Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu băm 2003:
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là sự hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà sản xuất sẽ
đẩy mạnh sản xuất,khuyến khích xuất khẩu,đồng thời giúp đỡ các nhà nhập khẩu
nước ngoài có đủ đk về tài chính để mua hàng hoá của nước đó.
Sau khi trao đổi với các bộ,ngành hữu quan,Bộ thương mại ban hành nghị quyết về
danh mục mặt hàng đc tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003 bao gồm 18 mặt hàng:
-gạo
-lạc nhân
-cà phê
-chè
-hạt tiêu
-hạt điều
-rau quả
-đường
-thuỷ sản
-thịt gia súc, gia cầm
-gốm sứ
-đồ gỗ mỹ nghệ
-mây tre
-sản phẩm tơ lụa


Sản phẩm dây điện,cáp điện
-sản phẩm cơ khí trọng điểm

-hàng dệt kim
-máy tính nguyên chiếc và phụ kiện
So với năm 2002 thì danh mục đc bổ sung thêm các mặt hàng mới là đường,sản
phẩm dây điện,cáp điện,sản phẩm cơ khí trọng điểm,máy tính nguyên chiếc và phụ
kiện,sản phẩm tơ lụa.
Những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường liên quan đến ba khu
vực của quá trình sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu:
-khu vực thứ 1 là sản xuất,khai thác nguyện liệu cho xuất khẩu.
-khu vực thứ 2 là thu mua,chế biến hàng xuất khẩu.
-khu vực thứ 3 là lưu thông và xuất khẩu.
*Một số hình thức tài trợ xuất khẩu:
-Tín dụng chiết khấu hối phiếu.
-Tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu.
-cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu.
-bao thanh toán tương đối.
Như vậy tín dụng tài trợ xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp thực hiện đc những
thương vụ lớn. giúp cho doanh nghiệp có vốn để nhập máy móc,thiết bị,dây chuyền
sản xuất…Đối với nền kinh tế đất nước thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK và lưu
thông hàng hoá XNK.
1.2 . Về thưởng kim ngạch xuất khẩu.
Chính phủ khuyến khích xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch
xuất khẩu năm trước,theo danh mục những mặt hàng đó đc thưởng xuất khẩu.
1.3 Xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm.
Ngày 24/01/2003 Bộ thương mại đã ban hành quyết định số 0104/2003/QĐ-BMT về
quy chế xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia.
1.4.Chi phối đối với giao dịch,tiếp thị của các doanh nghiệp.
Đối với hoạt động giao dịch,tiếp thị của các doanh nghiệp,Bộ tài chính quy định mức
chi phí tối đa đối với các hoạt động này không đc vượt quá 7% chi phí của doanh
nghiệp.



1.5 Điều chỉnh một sỗ quy định về thuế GTGT.
a. về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu
Các quy định về thuế GTGT đã đc siết chặt hơn để hạn chế gian lận thương mại,
Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của chính phủ quy định cơ sở kinh
doanh xuất khẩu hàng hoá,dịch vụ được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% phải
thanh toán tiền bán hàng hoá,dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng.
b. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Theo quy định của bộ tài chính,phương pháp thu này đc áp dụng đối với một số
doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán,hoá đơn chứng từ để
làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ.
1.6 Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu.
Tại nghị quyết số 05/2002/NQ-CP nagyf 24/04/2002 của chính phủ,thủ tướng chính
phủ đã giao bộ tài chính chủ trì phối hợp với một số bộ,ngành liên quan tiến hành rà
soát lại chi phí này để báo cáo thủ tướng chính phủ.
Thực hiện chủ trương này,Bộ bưu chính viễn thông sẽ áp dụng giảm giá cước đối
với một số loại các dịch vụ viễn thông,trong đó có cước dịch vụ điện thoại quốc
tế,cước truy cập internet,cước hoà mangjvaf thong tin đt di động.đây là đợt giảm giá
cước có uy mô lớn nhất,nhằm rút ngắn lộ trình đưa giá cước viễn thong của nước ta
xuống mức bằng và thấp hơn so với một số nước trong khu vực.
1.7 Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tháng 12/2001, trên cơ sở đề xuất của bộ tài chính, thủ tướng chính phủ đã ban
hành quy chế giao cho các tỉnh thành thành lập quỹ bảo tín dụng cho SME.
 Nhờ có các biệm pháp trợ cấp của chính phủ cho các mặt hàng xuất khẩu mà

việt nam đã đạt được mức xuất khẩu cao.các mặt hàng của Việt Nam đã có
mặt trên nhiều thị trường quốc tế.Do đc trợ cấp từ khâu nguyên liệu đến
thành phẩm nên có sức cạnh tranh mạnh.
 Hiện nay, gạo do Việt Nam xuất khẩu có chi phí thấp hơn nhiều so với gạo
nhập khẩu.Do đó Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế

giới,tuy nhiên chất lượng lại k đc dánh giá cao như gạo của Thai Lan.
 Do đc nhà nước đầu tư cho vay vốn nuôi trồng thuỷ sản,Việt nam đc dánh giá
là nước xuất khẩu hàng đầu thế giớ hiện nay. Sản lượng thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam liên tục tăng từ thời gian năm 1995 trở lại đây. Xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam đã tăng từ 239 triệu USD năm 1990 lên 979 triệu USD năm
1999, 1800 triệu USD năm 2001 và đạt tới mức 6,2 tỷ USD năm 2012.
 Đến nay thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt hơn 60 nước trên thế
giới.


2.Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt Nam
Việt Nam đã áp dụng những chính sách trợ cấp nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu
và đã đạt được kết quả tốt tuy vẫn còn một số tồn tại cần được
giải quyết như sau:
2.1. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu:
Chính phủ đã có văn bản số 78/CP-KTTH về chế độ thưởng
khuyến khích
xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất
khẩu năm trước
(theo danh mục mặt hàng đó được thưởng xuất khẩu năm
trước) và sau khi đánh giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ
thương mại công bố mục tiêu phấn đấu đối với mặt hàng rau
quả năm 2003 (vớ dụ) là tăng kim ngạch 10%.
Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu
rau quả tăng
từ 10% trở lên mới thuộc diện được thưởng. Nếu chỉ đạt mức
tăng thấp hơn 10% thì không được thưởng. Nếu do khó khăn về
thị trường, nguồn hàng hay giá cả mà kim ngạch của cả ngành
hàng tăng trưởng âm thì những doanh nghiệp nào đạt tăng

trưởng dương đều được thưởng trên phần kim ngạch vượt trội.
Phương pháp tiếp cận này nhằm khuyến khích, động viên
những doanh
nghiệp xuất khẩu giỏi hơn mức bình quân của ngành, đồng
thời cũng loại trừ
được yếu tố biến động khách quan về giá hoặc sản lượng
(Chẳng hạn giá mặt
hàng X năm 2003 tăng hơn 30% so với mức bình quân của năm
2002 như vậy
nếu lượng xuất không đổi thì các doanh nghiệp trong ngành có
thể đạt được mức tăng trưởng xấp xỉ 30% mà không cần phải
nỗ lực nhiều, trong khi những ngành hàng giá không tăng hoặc
gặp khó khăn về thị trường lại khó đạt được mức tăng
trưởng).Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại quyết định này bởi
tiềm lực tài chính của các tỉnh và thành phố là có hạn, lại không
đồng đều. Nếu mỗi tỉnh, thành đều phải tự tìm nguồn để thành
lập quỹ cho riêng mình thì hiệu quả thực tế sẽ không cao do


nguồn lực bị dàn trải. Đó là chưa kể các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) ở những tỉnh có hoàn cảnh khó khăn sẽ ở vào thế bất
lợi hơn so với SME ở những tỉnh có tiềm năng. Vấn đề tín dụng
cho doanh nghiệp nói chung và cho SME nói riêng hiện nay
đang là vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy, đề nghị có một cơ chế
tập trung nguồn lực để thành lập 01 quỹ bảo hành tín dụng cho
SME tại trung ương, chỉ thành lập tại địa phương các chi nhánh
hoặc đại lý (là chi nhánh các quỹ hỗ trợ phát triển hoặc tổ chức
tín dụng địa phương). Khi có nhu cầu, mọi "đại lý" đều có thể
tiếp cận với nguồn lực tập trung, hiệu quả thực tiễn vì vậy sẽ
cao hơn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tất cả các tỉnh cũng ở

vào thế bình đẳng hơn.
2.2. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm:
Việt Nam chưa có được những chương trình xúc tiến trọng điểm
2.3. Sửa đổi qui định về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của
các doanh
nghiệp:
Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ
Tài chính qui
định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được
vượt quá 7% tổng chi phí của doanh nghiệp. Theo nhiều doanh
nghiệp, qui định này là chưa hợp lý và hạn chế các hoạt động
phát triển thị trường vì doanh nghiệp thuộc các ngành hàng,
lĩnh vực khác nhau, thậm chí ngay trong một doanh nghiệp thì
chi phí cho hoạt động tiếp thị tại các thời điểm kinh doanh cũng
khác nhau. Mặt khác, quy định này dẫn đến một nghịch lý là
doanh nghiệp nào có tổng chi phí giảm thì chi phí giao dịch,
tiếp thị cũng phải giảm theo.
Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ bàn giao cho Bộ Tài chính nghiên
cứu và
điều chỉnh lại quy định trên theo hướng bãi bỏ mức quy định tối
đa đối với các
chi phí này hoặc nâng mức quy định tối đa từ 7% lên 15 - 20%.
2.4. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT
2.4.1. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất
khẩu
Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính phủ
quy định cơ



sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp
dụng thuế suất thuế GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng
hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng. Tuy qui định này đã
góp phần hạn chế tình trạng gian lận thương mại nhưngmặt
khác cũng đã làm phát sinh một số vướng mắc trong xuất khẩu
qua đường biên mậu, nhất là xuất khẩu qua biên giới Trung
Quốc. Thực tiễn hoạt động buôn bán với Trung Quốc thời gian
qua cho thấy hình thức thanh toán qua ngân hàng mới chỉ
chiếm khoảng 15 - 20% trong tổng kim ngạch giữa hai nước,
còn lại đa phần là thanh toán theo các hình thức khác như hàng
đổi hàng, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán theo hình
thức tạm ứng.v.v...Theo phản ảnh của một số doanh nghiệp
thì việc thực hiện quy định về thanh toán qua ngân hàng có
một số vướng mắc do phía đối tác Trung Quốc không muốn áp
dụng hình thức này, chưa kể đến việc thanh toán qua ngân
hàng sẽ làm phát sinh một số chi phí giao dịch (ước các khoản
chi phớ lên tới 0,3% kim ngạch xuất khẩu). Do có những vướng
mắc này mà hoạt động xuất nhập khẩu với Trung Quốc cũng đã
có dấu hiệu không nhộn nhịp như trước. (Theo số liệu hải quan,
xuất khẩu rau quả và thuỷ sản vào Trung Quốc sau 2 tháng đã
giảm hơn 60% so với cùng kỳ). Theo Bộ Thương mại, về lâu dài
hoạt động thương mại nói chung, trong đó có hoạt động xuất
nhập khẩu qua đường biên mậu, cần từng bước chuyên nghiệp
hóa, trong đó có việc áp dụng phương thức thanh toán ngân
hàng. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù trong hoạt động xuất
nhập khẩu biên mậu hiện nay, nhất là trong điều kiện việc hoàn
khống thuế GTGT đã được bãi bỏ để hạn chế gian lận về thuế
GTGT, Thủ tướng Chính phủ nên cho pháp tạm thời có một cơ
chế riêng đối với buôn bán qua đường biên mậu, cụ thể là xuất
khẩu biên mậu được hưởng thuế suất thuế GTGT 0% đối với các

hình thức thanh toán hợp pháp, không chỉ áp dụng đối với các
trường hợp thanh toán qua ngân hàng.
2.4.2. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia
tăng:
Kiến nghị Bộ Tài chính rà soát lại các quy định về việc áp dụng
phương
pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy
định của Bộ Tài
chính, phương pháp thu này được áp dụng đối với một số
doanh nghiệp chưa


thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để
làm căn cứ tính
thuế theo phương pháp khấu trừ. Do mức thuế phải nộp căn cứ
vào mức doanh
thu "khoán" nên phương thức này cũng dễ làm phát sinh một số
kẽ hở khi doanh
thu thực tế của đơn vị vượt quá mức "khoán" nhưng doanh
nghiệp lại không báo cáo đầy đủ với cơ quan thuế. Do vậy, vô
hình chung đã tạo ra sự không bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa
các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
và các doanh nghiệp nộp thuế khoán trong cùng một ngành
hàng kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa
trong nước và nhà nước cũng bị thất thu một lượng tiền thuế.
Để khắc phục tình trạng này, Thủ tướng Chính phủ cũng nên
giao cho Bộ Tài chính rà soát lại các quy định về việc áp dụng
phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng
và việc tổ chức thực hiện thu thuế GTGT theo phương
phỏp này theo nguyên tắc bảo đảm thu đúng, thu đủ và công

bằng đối với các doanh nghiệp được tính thuế GTGT theo các
phương pháp khác nhau.
2.5. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu:
Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của
Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với một
số Bộ, ngành
hữu quan tiến hành rà soát lại các chi phí dịch vụ đầu vào đối
với hàng xuất khẩu để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên,
việc rà soát một số loại chi phí dịch vụ khác vẫn chưa
hoàn thành. Kiến nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện rà
soát các loại phí, lệ phí theo tinh thần Nghị quyết số 05/2002
của Chính phủ. Cần có đoàn kiểm tra thực tế, không nên dựa
vào báo cáo của các cơ sở cung cấp dịch vụ. Kết quả kiểm tra
cũng nên được công bố công khai trên báo chí cho các doanh
nghiệp biết. Các loại phí cần được rà soát kỹ là phí ở cảng, phí ở
các tỉnh biên giới và lệ phí cầu, đường trên một số trục đường
chính, hàng xuất khẩu thường đi qua. Theo một số doanh
nghiệp phản ảnh, mức thu phí đường bộ 80.000 đồng/ lượt đối
với xe tải từ 18 tấn trở lên (theo Thông tư số 109/2002 của Bộ
Tài chính quy định về chế độ thu, quản lý, sử dụng phí giao
thông đường bộ) là quá cao (tăng thêm 20.000 đồng so với
trước), mặt khác có những trạm thu phí trên cùng một tuyến


đường cách nhau không đủ 70km như quy định tại Thông tư
(như trên đường 5 trạm Quán Toan cách trạm Hải Dương
chỉ có 30km) làm cho doanh nghiệp bị đội chi phí vận tải.
2.6. Những khó khăn đối với việc áp dụng trợ cấp xuất khẩu của
Việt Nam

khi gia nhập WTO
Các mặt hàng đã và đang được trợ cấp xuất khẩu của Việt
nam sẽ bị đánh
thuế chống trợ cấp khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Thuế chống trợ cấp là một loại thuế nhập khẩu đặc biệt nhằm
chống lại trợ
cấp của Chính phủ nước ngoài cho hàng xuất khẩu, thường
được áp dụng sau khi đã có điều tra cho thấy có tổn hại do trợ
cấp đó gây ra.
Tổ chức thương mại thế giới định nghĩa rằng "thuế chống trợ
cấp được hiểu
là một khoản thuế đặc biệt nhằm mục đích bồi hoàn cho khoản
trợ cấp đã được
cung cấp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình chế
tác, sản xuất hoặc
xuất khẩu của bất kỳ loại hàng hoá nào”. Đây là định nghĩa
chặt chẽ về mặt luật
pháp và thường được các nước chấp nhận. Tuy nhiên, định
nghĩa này phải được
hiểu trong bối cảnh rộng của WTO, có nghĩa là các quy định của
WTO liên quan đến quá trình điều tra, thủ tục áp dụng v.v…
cũng phải được tuân thủ đầy đủ. Về mặt kinh tế, thuế chống trợ
cấp là một hình thức thuế đánh vào hàng hoá
được trợ cấp nhằm triệt tiêu lợi thế do khoản trợ cấp đó đem
lại. Để đạt được mục tiêu trên, thuế chống trợ cấp phải tương
đương với lợi ích mà trợ cấp đem lại cho hàng hoá, hay chính
xác hơn, thuế chống trợ cấp phải triệt tiêu được lợi thế hàng
nhập khẩu có được do nhận được trợ cấp của chính phủ so với
loại hàng tương tự được sản xuất tại nước nhập khẩu. Do đó,
sau khi đánh thuế chống trợ cấp, hàng hoá nhận được trợ cấp

không còn lợi thế so với hàng tương tự được sản xuất trong
nước không được trợ cấp. Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp cũng
không được đánh quá cao, vượt quá lợi ích thực sự mà hàng
nhập khẩu nhận được. Về hình thức bên ngoài, thuế chống trợ
cấp lại có nhiều điểm tương đồng với thuế nhập khẩu. Vì vậy,
xét về mặt hình thức, ở một chừng mực nhất định cũng có thể


coi thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế nhập khẩu đặc
biệt.
Thuế chống trợ cấp giống với thuế nhập khẩu ở các điểm sau:
thường:
cựng
được
quanchịu
hải thuế
quanlàthu
tại cửa
• Đốicơ
tượng
hàng
nhậpkhẩu;
khẩu;
so với
các
biện pháp phi thuế quan khác (mặc dù quá trình điều tra có
thể bị
các cơ quan áp dụng lạm dụng vì một số mục đích nhất định).
Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp có một số điểm khác căn bản so
với thuế

nhập khẩu thông thường:
hộ cho
xuất
trong
sản nước còn thuế chống trợ cấp nhằm đảm bảo mọi
trường cạnh
tranh bình đẳng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu;
thuế
trợ
cấp
chống
mang tính tình huống rõ rệt. Dù là nhằm bảo hộ cho sản
xuất
trong nước, tạo nguồn thu cho ngân sách hay đảm bảo công
bằng xã
hội, thuế nhập khẩu đều được áp dụng theo một định hướng
tương đối
ổn định. Trong khi đó, thuế chống trợ cấp chỉ xuất hiện khi phát
sinh trợ
cấp làm ảnh hưởng đến nhà sản xuất trong nước. Thuế chống
trợ cấp sẽ
mất đi khi không còn trợ cấp nữa hay khi các nhà sản xuất
trong nước
không còn chịu ảnh hưởng bất lợi của hàng hoá được nước
ngoài trợ
cấp nữa.

C.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU
Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.Các giải pháp ở tầm vĩ mô

a)

Thiết lập các tổ chức xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp
tham gia thị trường nước ngoài, góp phần khai thác tới mức cao nhất
lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp và các sản phẩm
xuất khẩu của Việt Nam.


b)
c)












d)

Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp
VN tham gia xuất khẩu.
Để tạo một khung pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất hỗ trợ hoạt động
xuất khẩu, nhà nước cần có các giải pháp sau đây:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường, xây dựng môi trường kinh doanh bình

đẳng.
Trong điều kiện môi trường thương mại thế giới ngày càng trở nên
toàn cầu hoác và tự do hóa mạnh mẽ với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin… việc phát
triển xuất khẩu nhanh và bền vững đòi hỏi các nước phải tham gia
phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế cạnh tranh của từng nước
Định hướng xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ của VN thời gian
tới là: tập trung phát triển thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm
nông lâm thủy sản, khoáng sản, nguyên liệu, hàng công nghiệp nhẹ và
tiểu thủ công nghiệp, sử dụng nhiều lao động… nhưng phải hướng tới
việc xúc tiến mạnh các sản phẩm có giá trị gia tăng, có hàm lượng công
nghệ và trí thức cao, hàng chế biến sẵn, thiết kế, chế tạo, hàng điện tử,
tin học… cũng như xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ có khả năng cạnh
tranh như xuất khẩu lao động, du lịch, vận tải biển…Xúc tiến xuất khẩu
phải trú trọng nâng cao uy tín của hàng hóa và dịch vụ của VN ở cả thị
trường trong nước và quốc tế.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ngoài đi đôi với
việc cải tiến khả năng cung cấp cho xuất khẩu ở trong nước và đẩy
nhanh tốc độ quốc tế hóa các DN trong nước.
Tăng cường cử cán bộ tổ chức các hoạt đông xúc tiến TM ở nước ngoài,
khuyến khích các DN mở đại diện thường trú, văn phòng lien lạc, đại
diện ủy thác,… để phát triển thị trường XK
Tăng cường đa dạng hóa nguồn lực XTXK, hoàn thiện về mặt tổ chức và
đa dạng hóa các dịch vụ XTXK của chính phủ nhằm đáp ứng được nhu
cầu và yêu cầu của các DNXK và khách hàng để đẩy mạnh XK của đất
nước.
Về việc bị đánh thuế chống trợ cấp XK: nếu bị đánh thuế chống trợ cấp
trực tiếp, ta có thể khắc phục tình trạng trên bằng cách trợ cấp gián
tiếp như: tài trợ cho các hoạt động XTXK, tham gia hội trợ triển lãm ở
nước ngoài, cấp kinh phí cho các khu đào tạo nhân lực…


2.Các giải pháp ở tầm vi mô


a.








b.




chính sách khuyến khích sản xuất
Chính sách đối với làng nghề: Để các ngành nghề thủ công truyền
thống, các ngành nghề duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích hỗ trợ.
Chính sách đối với nghệ nhân: Muốn duy trì và phát triển làng nghề
truyền thống, nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân. Giúp đỡ,
khuyến khích họ phát huy tài năng, phát triển nghề, phát triển sản xuất
phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền dạy cho con cháu,
đào tạo làng nghề cho lao động sản xuất,…
Chính sách đối với lao động thủ công:
 Mở trường mỹ thuật thực hành ở môt số tỉnh thành có nhu cầu hoặc
mở thêm khoa kỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng kỹ

thuật hiện có để đào tạo thợ phổ thong theo phương thức vừa học
vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất, nhất là
những cơ sở nhiều hàng xuất khẩu. nhà nước hỗ trợ một phần chi
phí và những cơ sở sản xuất có lao động vừa học vừa làm.
 Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ quỹ hỗ trợ việc làm để các cơ
sở sản xuất nhất là các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức
việc đào tạo nghề.
Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
 Đối với các nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên: đề nghị ưu tiên
giao hạn mức cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ
mỹ nghệ. Tuy nhiên các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ
nguyên liệu cho các hợp đồng đó thì mới được giao hạn mức gỗ
nguyên liệu cho năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị
khai thác gỗ tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao,
khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm…
 Đối với các loại nguyên liệu khô như mây, tre… nhà nước có chính
sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trống nguyên liệu phục
vụ xuất khẩu
chính sách tài chính, tín dụng khuyến khích sản xuất và xuất khẩu
Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
Sửa đổi bổ sung các quy định cho vay vốn nhất là vốn ưu đãi
Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất,được quỹ hỗ trợ phát
triển của nhà nước hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ 50% lãi suất trên
số vốn vay của ngân hàng. Hưởng ưu đãi về thuế đối với nhà đầu tư sản
xuất kinh doanh hàng xuất khẩu


c.

d.


chính sách khuyến khích xuất khẩu: Chính sách hỗ trợ công tác tiếp thị
và xúc tiến thương mại: kiến nghị nhà nước có chính sách hỗ trợ một
phần chi phí xúc tiến, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu
chính sách thưởng xuất khẩu

Theo qui định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu USD/ năm trở
lên.
Đây là một tiêu chuẩn quá cao và khó có doanh nghiệp nào đạt được tiêu
chuẩn
để đưa vào diện được xét thưởng.
Để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tích cực tham gia đẩy mạnh
xuất khẩu, đồng thời cũng là cách hỗ trợ vượt qua những khó khăn trong sản
xuất kinh doanh; kiến nghị cho áp dụng tiêu chuẩn kim ngạch xét thưởng ở
từ mức 2 triệu USD/năm trở lên; nếu có được thưởng thì doanh nghiệp cũng
chỉ được hưởng 1 lần trong cả cuộc đời tồn tại của mình; còn sau đú nếu
doanh nghiệp duy trì và phát triển tốt để được xét thưởng tốt thì doanh
nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt mức qui định.
Mức hiện hành là 20%/năm đối với toàn bộ kim ngạch của đơn vị năm sau so
với năm trước.



HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
40




×